Đề 01 ĐỀ BÀI ÔN TẬP TRỰC TUYẾN - TRƯỜNG THPT QUỲNH THỌ MÔN NGỮ VĂN 12 I. ĐỌC HIỂU (3, 0 điểm) Đọc đoạn trích: Con ơi, bố về thăm Hà Tĩnh quê ta, Bố kể con nghe về ngã ba Đồng Lộc.. Các ngã ba khác trên đời làm bằng nước, bằng sông, bằng thuỷ triều lên xuống, Hay bằng đá, bằng đất Bằng xi măng cốt sắt Bằng vôi trắng, gạch nâu Bằng đèn xanh đèn đỏ đủ màu Hay bằng những sự chênh vênh vấp ngã, Nhưng ngã ba Đồng Lộc làm bằng xương máu. Khi con về quê con nhớ viếng thăm Mộ mười cô kề bên đường đỏ. Các cô như còn đứng đó Chờ lấp hố bom Đường thông xe các cô mới đi nằm. Các cô để lại tuổi thanh niên Mười chín, hai mươi, hăm hai tuổi Cho đất nước, quê hương Hồn trong như suối, Bình minh đời sáng rực vừng dương.. (Trích, Ngã ba Đồng Lộc, Huy Cận, Trường Sơn - đường khát vọng, NXB Chính trị quốc gia, 2009) Thực hiện các yêu cầu sau: Câu 1 . Xác định 02 phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích trên. Câu 2 . Chỉ ra điểm đặc biệt của ngã ba Đồng Lộc được nhắc đến trong đoạn trích. Câu 3 . Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về những cô gái thanh niên xung phong nơi ngã ba Đồng Lộc? Hồn trong như suối, Bình minh đời sáng rực vừng dương.. Câu 4 . Anh/chị hãy nhận xét về tình cảm của người cha khi kể về ngã ba Đồng Lộc được thể hiện trong đoạn trích. II. LÀM VĂN (7, 0 điểm) Câu 1. ( 2, 0 điểm ) : Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh /chị về sự cần thiết phải xác định lí tưởng sống đúng đắn cho bản thân. Câu 2. (5 , 0 điểm ) : ".. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt bộ hạ người lái đò [..] . Mặt sông trong tích tắc sáng lòa lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn của tử một cửa sinh, của sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều của tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân của ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa và đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào của sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu về của con thác. Cứ phóng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được.." (Trích "Người lái đò sông Đà" của tác giả Nguyễn Tuân – Ngữ văn 12, Tập một, NXB giáo dục Việt Nam, 2015). Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp hình tượng ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó bình luận ngắn gọn về suy nghĩ, tình cảm của nhà văn Nguyễn Tuân đối với người lao động Việt Nam trong tùy bút "Người lái đò sông Đà". GỢI Ý LÀM BÀI ĐỀ 01 Bấm để xem I. Đọc hiểu Câu 1. 02 phương thức biểu đạt: Tự sự + biểu cảm/ tự sự + miêu tả/ biểu cảm + miêu tả. Câu 2. Điểm đặc biệt của ngã ba Đồng Lộc: Nhưng ngã ba Đồng Lộc làm bằng xương máu - Học sinh có thể ghi lại dòng thơ trên hoặc chỉ trích dẫn cụm từ "làm bằng xương máu" hoặc có thể ghi thêm các dòng thơ khác để so sánh thì vẫn cho điểm tuyệt đối. Câu 3. Những câu thơ: Hồn trong như suối, Bình minh đời sáng rực vừng dương.. giúp ta hiểu: - Những cô gái thanh niên xung phong đã hi sinh tuổi xuân – tuổi đẹp nhất cho quê hương đất nước, tâm hồn họ đẹp đẽ, trong sáng, trẻ trung. - Sự hi sinh của họ tỏa sáng lí tưởng sống cao đẹp của thế hệ thanh niên trong chiến tranh cách mạng. - (Học sinh có thể diễn đạt cách khác hợp lý vẫn cho điểm) Câu 4 . Nhận xét về tình cảm của người cha trong đoạn trích: - Khâm phục, tự hào trước sự hi sinh cao đẹp của những cô gái thanh niên xung phong nơi ngã ba Đồng Lộc. - Nỗi niềm xót xa, thương cảm trước sự hi sinh của những nữ thanh niên xung phong khi tuổi đời còn quá trẻ. - Niềm mong mỏi thế hệ sau khắc ghi công ơn của thế hệ đi trước II. Làm văn Câu 1. Có thể triển khai theo hướng: - Lí tưởng sống đúng đắn sẽ định hướng suy nghĩ, hành động, lối sống của mỗi người theo hướng tích cực, tạo ra các giá trị hữu ích; giúp mỗi người khẳng định giá trị bản thân và mang lại một cuộc sống có ý nghĩa. - Lí tưởng đúng đắn tạo động lực thúc đẩy con người vươn lên, hướng về tương lai, hướng tới những điều tốt đẹp; giúp con người vượt qua khó khăn, trở ngại trong cuộc sống để đạt được thành công. - Người có lí tưởng sống cao đẹp, đúng đắn không chỉ sống cho riêng mình mà còn hướng tới những điều tốt đẹp, ý nghĩa cho những người xung quanh, cho xã hội, đất nước. Câu 2. 1. Mở bài: Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm. – Nguyễn Tuân là cây đại thụ của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, là một nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo: Thích viết về cái phi thường, xuất chúng và luôn tìm tòi khám phá cái đẹp. – Tùy bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng tám. Ở tác phẩm này Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp của thiên nhiên và con người lao động Tây Bắc. – Người lái đò sông Đà chính là biểu tượng cho vẻ đẹp trí, dũng, tài hoa của người lao động trên vùng sông nước dữ dội. Thơ mộng ấy. – Vẻ đẹp của hình tượng ông đò được thể hiện qua qua đoạn trích tiêu biểu đó là đoạn trích miêu tả về cuộc chiến đấu của ông đò với cái thác đá sông Đà. 2. Thân bài: - Cảm nhận về vẻ đẹp của ông đò ở nhiều khía cạnh khác nhau: Vẻ đẹp trí tuệ, bản lĩnh và tài hoa của ông đò. + Vẻ đẹp trí tuệ: Thể hiện ở trí nhớ tuyệt vời của ông đò. Cuộc sống của ông đò phải đối diện với những cạm bẫy kinh hoàng của sông Đà, đó là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để bảo tồn sự sống. Để chinh phục dòng sông hung bạo ông đò nhớ mặt vị trí từng hòn đá, từng luồng nước.. Nguyễn Tuân đã miêu tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề để bày tỏ nỗi thán phục của mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở Sông Đà. + Bản lĩnh, mưu trí và sự quyết đoán: Nhà văn đã đưa ông đò vào hoàn cảnh đầy thử thách mà tiêu biểu là cái thác đá để nhân vật bộc lộ phẩm chất của mình. Sông Đà bày thạch trận trên sông ông đò là một viên tướng dũng cảm tả xung hữu đột tỉnh táo nhanh nhẹn, quyết đoán chỉ huy và điều khiển con thuyền qua nhiều vòng, nhiều cửa rất hiệu quả + Vẻ đẹp tài hoa: Quan niệm về chất tài hoa của nguyễn Tuân được mở rộng, tài hoa không chỉ ở lĩnh vực nghệ thuật mà có trong cuộc sống lao động bình dị. Nguyễn Tuân đã dụng công xây dựng ông đò là một người nghệ sĩ có tay lái tài hoa. Chất tài hoa của ông đò được thể hiện qua sự khéo léo khi điều khiển con thuyền vượt qua mọi cạm bẫy của sông Đà. – Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ, tạo tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ phẩm chất, sử dụng ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình. – Bình luận về suy nghĩ, tình cảm của nhà văn Nguyễn Tuân đối với người lao động Việt Nam. + Qua hình tượng ông đò, Nguyễn Tuân ngợi ca và khẳng định sức mạnh, sự vĩ đại của con người đồng thời ông cũng đưa ra triết lý sống: Giữa cái thế giới độc dữ và nham hiểm, cái thế giới đầy sức mạnh man dại và lập lờ cạm bẫy, con người ta vẫn đủ trí tuệ để vươn lên tìm thấy sự sống. Cũng qua cảnh tượng vượt thác của ông đò, Nguyễn Tuân muốn nói với chúng ta 1 điều giản dị nhưng sâu sắc: Chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trường mà có ngay trong cuộc sống hàng ngày mà chúng ta phải vật lộn với miếng cơm manh áo. Tài hoa đâu chỉ có ở lĩnh vực nghệ thuật mà có ngay trong cuộc sống lao động đời thường. Phẩm chất anh hùng, và chất nghệ sĩ thể hiện trong việc họ phải đương đầu với thử thách. + Nhà văn thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng, tự hào, ngợi ca sự vĩ đại của gười lao động Tây Bắc và người lao động Việt nam nói chung. Ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi trước sức mạnh hoang dại của thiên nhiên. 3. Kết thúc vấn đề. Thiên tùy bút "Người lái đò sông Đà" là khúc hùng ca ca ngợi ý chí của con người. Sức mạnh ý chí và tài hoa chính là những yếu tố làm nên chất vàng mười của người dân Tây Bắc và cũng là của người lao động nói chung. Qua hình tượng người lái đò sông Đà và qua thiên tùy bút này ta thấy được những nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân () Xem tiếp các đề khác bên dưới.. Xem thêm 2 bộ đề: Đề Bài Ôn Tập Ngữ Văn 12 Tham Khảo mới - 5 đề (01) Đề Bài Ôn Tập Ngữ Văn 12 Tham Khảo mới - 5 đề (02)
Đề 02 (Biên soạn: Thùy Minh) I. ĐỌC HIỂU Đọc đoạn trích: Việt Nam, Tổ quốc muôn năm Nơi ta yêu quý muôn vàn của ta Dù đây trường bắn Chí Hòa Đất chân ta đứng vẫn là của ta Sau lưng ta cả quê nhà Nơi lưng ta tựa ấy là Trường Sơn Là bờ ruộng, lối cỏ mòn Đỏ tươi bông gạo, biếc rờn ngàn dâu Là Thu Bồn mặt nước xao Dòng sông tuổi nhỏ rì rào hát ca Là hàng ớt đã ra hoa Đám dưa trổ nụ, đám cà trổ bông Là trưa tiếng mẹ ru nồng Tiếng thoi lách cách bên nong dâu tằm Là Việt Nam! Là Việt Nam! Biển Đông một dải xanh lam cõi bờ Việt Nam đất nhạc, đất thơ Chân mây điểm trắng cánh cò quê hương Đầm sen nở trắng, nở hường Đêm trăng thơm dịu những đường sầu riêng Việt Nam xứ sở thần tiên Bốn mùa một sắc trời riêng đất này Xóm làng, đồng ruộng, rừng cây Non cao gió đựng, sông đầy nắng chan Sum sê xoài biếc, cam vàng Dừa nghiêng cau thẳng hàng hàng nắng soi Có nơi đâu đẹp tuyệt vời Như sông, như núi, như người Việt Nam Đầu trời ngất đỉnh Hà Giang Cà Mau cuối đất mỡ màng phù sa Trường Sơn chí lớn ông cha Cửu Long lòng mẹ bao la sóng trào Mặt trời ánh sáng tự hào Dáng đi cũng lấp lánh màu tự do Bốn ngàn năm dựng cơ đồ Vạn năm từ thuở ấu thơ loài người Ôi Việt Nam! Việt Nam ơi! Việt Nam, ta gọi tên Người thiết tha. (Trích: Nguyễn Văn Trỗi, Lê Anh Xuân) Trả lời câu hỏi: Câu 1. Xác định thể thơ, phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên. Câu 2. Anh/ chị hãy tìm trong đoạn thơ những từ ngữ, hình ảnh miêu tả vẻ đẹp của đất nước, quê hương. Qua đó, em có cảm nhận gì về tình cảm của nhà thơ? Câu 3 . Anh/ chị hãy chỉ ra và phân tích tác dụng của 02 biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn thơ sau: "Là bờ ruộng, lối cỏ mòn Đỏ tươi bông gạo, biếc rờn ngàn dâu Là Thu Bồn mặt nước xao Dòng sông tuổi nhỏ rì rào hát ca Là hàng ớt đã ra hoa Đám dưa trổ nụ, đám cà trổ bông Là trưa tiếng mẹ ru nồng Tiếng thoi lách cách bên nong dâu tằm Là Việt Nam! Là Việt Nam! Biển Đông một dải xanh lam cõi bờ" Câu 4. Ngày 15-10-1964, đế quốc Mĩ đưa người anh hùng Nguyễn Văn Trỗi ra xử bắn tại vườn rau nhà lao Chí Hòa - Sài Gòn. Khi ra pháp trường, anh Trỗi rất bình thản, đường hoàng. Anh hùng hồn vạch trần tội ác xâm lược của giặc Mỹ trước các nhà báo. Trước lúc xử tử, bọn địch định bịt mắt anh, nhưng anh giật chiếc băng đen ra, nói: "Không, phải để tôi nhìn mảnh đất này, mảnh đất thân yêu của tôi". Trước khi chết anh còn hô vang: "Hãy nhớ lấy lời tôi! Đả đảo đế quốc Mỹ! Đả đảo Nguyễn Khánh! Việt Nam muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm!" Từ những thông tin đó, anh/chị hãy lí giải mối liên hệ giữa thái độ, cảm xúc của anh hùng Nguyễn Văn Trỗi trước khi bị xử bắn với nội dung của đoạn thơ trên. II. LÀM VĂN Câu 1. Từ đoạn thơ phần đọc hiểu, anh chị hãy viết đoạn văn khoảng 200 chữ nghị luận về tinh thần bất khuất kiên cường. Câu 2. Từ đoạn trích "Ai đã đặt tên cho dòng sông" (Hoàng Phủ Ngọc Tường, SGK Ngữ văn 12), anh/chị hãy phân tích vẻ đẹp của sông Hương vùng thượng nguồn. GỢI Ý LÀM BÀI - ĐỀ 02 Bấm để xem I. ĐỌC HIỂU Câu 1. - Thể thơ: Lục bát - Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm Câu 2. - Những từ ngữ, hình ảnh miêu tả vẻ đẹp của đất nước, quê hương: Bờ ruộng, lối cỏ mòn, đỏ tươi bông gạo, biếc rờn ngàn dâu, dòng sông rì rào, hàng ớt ra hoa, dưa trổ nụ, cà trổ bông, biển đông, cánh cò.. - Qua đó, em có cảm nhận được lòng tự hào cũng như tình yêu của nhà thơ đối với quê hương, đất nước. Câu 3. - Hai biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn thơ trên là: + Lặp cấu trúc: Là.. (5 lần) + Liệt kê: Liệt kê những hình ảnh đẹp của quê hương thu trong tầm mắt người anh hùng Nguyễn Văn Trỗi trước lúc bị hành hình: Bờ ruộng, lối cỏ mòn, đỏ tươi bông gạo, biếc rờn ngàn dâu, dòng sông rì rào, hàng ớt ra hoa, dưa trổ nụ, cà trổ bông, tiếng mẹ ru, tiếng thoi, nong dâu tằm.. - Tác dụng của hai biện pháp nghệ thuật trên: + Biện pháp nghệ thuật liệt kê kết hợp với phép điệp cấu trúc góp phần nhấn mạnh những hình ảnh đẹp, thân thương của quê hương, đất nước trong cảm nhận của người anh hùng Nguyễn Văn Trỗi trước lúc bì xử bắn. Qua đó, tác giả thể hiện tình yêu đất nước và tinh thần bất khuất kiên cường của người chiến sĩ cách mạng. + Ngoài ra, hai biện pháp nghệ thuật trên còn làm cho lời thơ tăng tính nhạc, tăng tính gợi hình, biểu cảm. Câu 4. Lí giải mối liên hệ giữa thái độ, cảm xúc của anh hùng Nguyễn Văn Trỗi trước khi bị xử bắn với nội dung của đoạn thơ trên: Trước khi bị xử bắn, người anh hùng Nguyễn Văn Trỗi đã giật chiếc băng đen bịt mắt ra, nói: "Không, phải để tôi nhìn mảnh đất này, mảnh đất thân yêu của tôi". Đó là lí do vì sao mà trong đoạn thơ trên, ta thấy không phải là cảnh chết chóc hi sinh, mà toàn là những hình ảnh đẹp đẽ, thân thương về "mảnh đất này, mảnh đất thân yêu" - là Tổ quốc bao la hùng vĩ mà người anh hùng đã xả thân để chiến đấu và bảo vệ đến hơi thở cuối cùng. II. LÀM VĂN. Câu 1. Nghị luận về tinh thần bất khuất, kiên cường: Tham khảo các ý: - Giới thiệu vấn đề: Một trong những vẻ đẹp tinh thần làm nên truyền thống của con người Việt Nam đó là kiên cường, bất khuất. - Giải thích, nêu biểu hiện của vấn đề: Kiên cường, bất khuất là sự gan góc, không sợ hãi, chùn bước trước hi sinh, vất vả, trước bất cứ một tình huống hiểm nguy nào - đó chính là "chất thép" ngời sáng trong ý chí, nghị lực của con người. - Phân tích, chứng minh, bình luận vấn đề: + Phân tích vai trò của tinh thần kiên cường, bất khuất: Kiên cường, bất khuất trong cuộc sống giúp con người chiến thắng gian nan, thử thách, giúp con người đi đến thành công. Tinh thần kiên cường bất khuất của mỗi người trong chiến tranh còn tạo nên sức mạnh phi thường chiến đấu với kẻ thù, giành đọc lập cho dân tộc. Tinh thần bất khuất, kiên cường ấy giúp ta từ một kẻ nhỏ nhất mà lại mạnh nhất, bị chèn ép nhiều bậc nhất nhưng lại quật khởi oai hùng bậc nhất.. + Chứng minh: Người anh hùng Nguyễn Văn Trỗi trong đoạn thơ trên, đến khi ra pháp trường vần hiên ngang, bất khuất. + Bình luận, nêu bài học: Như vậy, tin thần kiên cường, bất khuất là vẻ đẹp làm nên giá trị con người, làm nên giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Nếu không có tinh thần kiên cường, bất khuất, con người dễ khuất phục đầu hàng, thất bại. Dân tộc dễ đối mặt với nạn xâm lăng. Câu 2. Vẻ đẹp sông Hương ở vùng thượng nguồn: HS cần làm bật: - Sông Hương nhìn từ thượng nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối quan hệ đặc biệt này, Sông Hương tựa như "một bản trường ca của rừng già" với nhiều tiết tấu hùng tráng dữ dội. Khi thì "rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn", lúc "mãnh liệt vượt qua ghềnh thác", khi "cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn", lúc "dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng". Bằng bút pháp nghệ thuật nhân hóa, Sông Hương không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác mà hiện ra tựa "cô gái Di - gan phóng khoáng và man dại", với "một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do phóng khoáng". - Khi ra khỏi rừng, sông Hương đã chế ngự và nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. => Bằng cái nhìn say đắm, sông Hương ở thượng nguồn toát lên một vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt và hoang dại, đầy cá tính nhưng cũng dịu dàng và say đắm. Nó sinh động như một cơ thể sống đầy hấp dẫn. Theo tác giả, "nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu Sông Hương từ nguồn cội, người ta khó mà hiểu hết cái vẻ đẹp tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ".
Đề 03 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÁI BÌNH KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG LỚP 12 THPT NĂM HỌC 2020 - 2021 Môn: Ngữ văn I. ĐỌC HIỂU (3, 0 điểm) Đọc đoạn trích: (1) Người cùng tôi bên bờ biển bão Người cùng tôi đầu ngọn gió mùa Người vỡ rừng mở đất bao la Bàn tay chai làm ra tất cả Làng xóm, đền đài, thành phố Tháp bút cao, điệu múa, những cung đàn Đi chân không, người thêu vạn hài cong Mặc vải nâu, người dệt muôn sắc lụa. Không biết chữ, người làm ra tục ngữ Những thuyền to, chuông lớn, những vườn cây.. Người làm nên cuộc đời. [..] (2) Đất nước tôi ơi Những dòng sông đã cho tôi gương mặt Những chân trời đã cho tôi tiếng hát Đồng bãi cho tôi sức vóc bàn tay Đồi núi cho tôi những bước đi dài Hoa và chim đã cho tôi mộng ước Những trái tim đập dồn trong ngực Là của người - lẽ sống của đời tôi Tôi cùng người chung lúa chung khoai Chung cơn bão chung cánh rừng lửa đạn Chung ca nước dưới đường hào nắng gắt Chung lá cờ chung ngọn lửa ban mai [..] (Trích "Người cùng tôi", nguồn: Lưu Quang Vũ, thơ tình, NXB Văn học, 2002) Thực hiện các yêu cầu sau: Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên. Câu 2. Trong đoạn thơ (1), người dân bình dị đã thêu, dệt nên những gì? Câu 3. Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về mối quan hệ giữa nhân vật tữ tình và nhân dân: Tôi cùng người chung lúa chung khoai Chung cơn bão chung cánh rừng lửa đạn Chung ca nước dưới đường hào nắng gắt Chung lá cờ chung ngọn lửa ban mai. Câu 4. Anh/chị hãy nhận xét về tình cảm của tác giả đối với nhân dân, đất nước. II. LÀM VĂN Câu 1 (2, 0 điểm) Anh chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về sự cần thiết phải có kĩ năng hợp tác trong cuộc sống. Câu 2 (5, 0 điểm) [..] "Bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bài lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay đầu lại nhìn con tỏ ý không hiểu. Tràng tươi cười: - Thì u hẵng vào ngồi lên giường lên giếc chĩnh chện cái đã nào. Bà lão lập cập bước vào. Người đàn bà tưởng bà lão già cả, điếc lác, thị cất tiếng chào lần nữa: - U đã về ạ! Ô hay, thế là thế nào nhỉ? Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường. Tràng nhắc mẹ: - Kìa nhà tôi nó chào u. Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp: - Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau.. chẳng qua nó cũng là cái số cả.. Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì.. Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.. Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không. Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được.. Thôi thì bổn phận là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con.. May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được? Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với" nàng dâu mới ": - Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng.. Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời: - Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá.. Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau." [..] (Trích "Vợ nhặt" - Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr. 28-29) Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về nét độc đáo trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ của Kim Lân. GỢI Ý LÀM BÀI - ĐỀ 03 Bấm để xem I. Đọc hiểu: Câu 1. Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm Câu 2. Người bình dân đã thêu, dệt nên: Vạn hài cong, muôn sắc lụa. Câu 3. Mối quan hệ giữa nhân vật trữ tình và nhân dân: - Cùng chia ngọt sẻ bùi, vượt qua gian khó. - Sát cánh bên nhau đương đầu với thiên tai, địch họa. - Đồng lòng hướng tới lí tưởng cao đẹp. - Đó là mối quan hệ khăng khít, chân thành, thiêng liêng, đáng trân trọng. Câu 4. HS có thể trình bày bằng nhiều cách khác nhau, gợi ý tham khảo: - Biết ơn công lao của nhân dân, đất nước đã tạo nên những giá trị vật chất, tinh thần và sự sống vô giá.. - Cảm phục, tự hào, trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người lao động bình dị mà cao cả đồng thời bộc lộ tình yêu thiên nhiên, cảnh trí non sông.. - Qua đó, nhà thơ thể hiện ý thức trách nhiệm với non sông, đất nước. II. Làm văn Câu 1. A. Đảm bảo đúng yêu cầu đoạn văn B. Xác định đúng vấn đề nghị luận: Sự cần thiết phải có kĩ năng hợp tác trong cuộc sống C. Triển khai vấn đề nghị luận: HS có thể các cách trình bày khác nhau, nhưng cần làm rõ: Sự cần thiết phải có kĩ năng hợp tác trong cuộc sống. Có thể theo hướng sau: - Kĩ năng hợp tác giúp ta tìm ra và giải quyết vấn đề nhanh chóng, theo hướng tối ưu nhất, nâng cao hiệu suất công việc. - Từ kĩ năng hợp tác, ta nhận thức được bản thân, khẳng định mình đồng thời tiếp thu, học hỏi để hoàn thiện hơn và đi đến thành công. - Có kĩ năng hợp tác sẽ góp phần đáp ứng xu thế phát triển của thời đại. D. Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt. E. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ. Câu 2. Tham khảo link bài viết: Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân Phân tích nhân vật bà cụ tứ trong bữa cơm ngày đói
Đề 04 ĐỀ ÔN TẬP HỌC KÌ II (2021) - THPT QUỲNH THỌ (SỞ GD-ĐT THÁI BÌNH) I. ĐỌC HIỂU Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: Khổ có thể giúp một người trưởng thành. Trứng gà bị vỡ do tác động từ bên ngoài là đồ ăn, bị vỡ do tác động từ bên trong thì chính là sinh mệnh. Cuộc sống cũng vậy, làm vỡ từ bên ngoài là áp lực, làm vỡ từ bên trong chính là trưởng thành. Nếu bạn chờ người khác làm vỡ bạn từ bên ngoài, thì nhất định bạn sẽ là món ăn của người khác; nếu bạn có thể đánh vỡ chính mình từ bên trong, như vậy bạn sẽ thấy rằng mình đã thực sự trưởng thành, cũng giống như là được tái sinh. Nhìn thấy một con bướm đang giãy giụa muốn thoát ra khỏi cái kén, có người hảo tâm giúp nó thoát ra. Nhưng không ngờ rằng, sau khi con bướm thoát ra ngoài, nó lại không thể duỗi đôi cánh ra được, và cuối cùng thiệt mạng. Giãy giụa chính là điều con bướm cần làm để trưởng thành, lúc đó bạn giúp nó thoải mái, nhưng sau này nó sẽ không có đủ sức mạnh để đối mặt với những thử thách sẽ phải gặp trong cuộc đời.. * * * Trên thế giới này, người giàu có nhất, thường là người vấp ngã nhiều nhất. Người có thể thành công là người mỗi lần vấp ngã, không chỉ có thể đứng dậy, mà vẫn có thể kiên trì tiếp tục bước đi. (http: // khoinghiepinternet. Blogspot/2016 05. Hoc-cach- truong-thanh-chua-bao-gio-la-muon. Html-St) Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ, phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên. Câu 2. Theo tác giả, con người chịu sự "làm vỡ từ bên ngoài" khác với con người "tự làm vỡ từ bên trong" như thế nào? Câu 3. Theo anh/chị, việc tác giả đưa ra những hình ảnh "trứng gà", "con bướm" và "cái kén" trong đoạn văn nhằm mục đích gì? Câu 4. Anh/chị có đồng tình với quan điểm: "Người có thể thành công là người mỗi lần vấp ngã, không chỉ có thể đứng dậy, mà vẫn có thể kiên trì tiếp tục bước đi." không? Vì sao? II. LÀM VĂN Câu 1. Từ nội dung phần đọc hiểu, anh/chị hãy viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của bản thân về vấn đề: Tuổi trẻ cần làm gì để đối mặt với thử thách? Câu 2. Phân tích vẻ đẹp của sông Hương trong cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua đoạn văn sau: "Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố," sớm xanh, trưa vàng, chiều tím "như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu" Bốn bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên ". Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những sớm làng trung du bát ngát tiếng gà..". (Trích bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" - Hoàng Phủ Ngọc Tường) Từ đó, anh/chị hãy nhận xét về cách cảm nhận và thể hiện độc đáo, thú vị của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông xứ Huế. GỢI Ý LÀM BÀI - ĐỀ 04 Bấm để xem I. ĐỌC HIỂU Câu 1. - Phong cách ngôn ngữ: Báo chí - Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận Câu 2. Theo tác giả, con người chịu sự "làm vỡ từ bên ngoài" khác với con người "tự làm vỡ từ bên trong" đó là: Nếu bạn chờ người khác làm vỡ bạn từ bên ngoài, thì nhất định bạn sẽ là món ăn của người khác; nếu bạn có thể đánh vỡ chính mình từ bên trong, như vậy bạn sẽ thấy rằng mình đã thực sự trưởng thành, cũng giống như là được tái sinh. Như vậy: Làm vỡ từ bên ngoài là thụ động, thất bại, làm vỡ từ bên trong là mạnh mẽ, trưởng thành. Câu 3. Việc tác giả đưa ra những hình ảnh "trứng gà", "con bướm" và "cái kén" trong đoạn văn nhằm mục đích: Giúp mỗi người nhận thức được rằng muốn trưởng thành, muốn có được thành công, con người phải trải qua khổ luyện. Nếu thụ động chịu sự tác động của người khác, thì chẳng bao giờ có được thành công lớn lao và cuộc sống đúng nghĩa. Câu 4. Đồng tình với quan điểm: "Người có thể thành công là người mỗi lần vấp ngã, không chỉ có thể đứng dậy, mà vẫn có thể kiên trì tiếp tục bước đi." Vì: Ai cũng từng vấp ngã ít nhiều lần trong đời. Vấ ngã là điều tất yếu của cuộc sống, là môi trường rèn luyện để đưa ta đến thành công. Vấp ngã mà vẫn giữ được tinh thần bền bỉ, bất khuất, giữ được ý chí kiên trì theo đuổi mục tiêu thì sớm hay muộn, ta cũng đạt được thành công nhất định trong cuộc đời. Nếu không kiên trì, sớm bỏ cuộc, thì thành quả phía trước làm sao ta có thể chạm tới. II. LÀM VĂN Câu 1. NLXH: Tuổi trẻ cần làm gì để đối mặt với thử thách? - Giới thiệu vấn đề - Bàn luận: + Giải thích: Thử thách là nhưng khó khăn. Thử thách, là rào cản trên con đường chinh phục ước mơ, khát vọng của con người. + Phân tích: Những điều tuổi trẻ cần làm để đối mặt với thử thách: Can đảm đối mặt với thử thách, không sợ hãi, khuất phục. Nhận thức được rằng thử thách là điều tất yếu, chấp nhận nó như một phần của cuộc sống. Bình tĩnh, tư duy để tìm ra giải pháp vượt qua thử thách. Luôn giữ tinh thần lạc quan, tích cực, chủ động trong mọi tình huống. Dốc toàn bộ trí lực, tâm huyết vào việc giải quyết những vấn đề nan giải, phức tạp. Kiên trì theo đuổi mục tiêu đến cùng. Khi cần, có thể kêu gọi sự trợ giúp của những người thân tín, nhưng vai trò trước hết phải là chính mình. + Chứng minh: Dẫn chứng thực tế. + Bình luận mở rộng: Nếu không có những nhận thức tích cực và những phương thức hữu hiệu để đối mặt với thử thách thì con người dễ thất bại.. - Kết thúc vấn đề: Nêu bài học. Câu 2. Link tham khảo: Phân tích vẻ đẹp sông Hương từ ngã ba Tuần đến chân đồi Thiên Mụ - Ai đã đặt tên cho dòng sông?
ĐỀ 05 I. ĐỌC HIỂU Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 4: Những ngày qua, trên các trang mạng phản động liên tục xuất hiện nhiều bài viết với luận điệu kích động, kêu gọi quần chúng nhân dân xuống đường, tham gia biểu tình phản đối Quốc hội thông qua dự thảo Luật Ðơn vị hành chính kinh tế đặc biệt. Dễ thấy nhất là các tài khoản Facebook cá nhân xuất hiện dày đặc những tin nhắn, đoạn video clip với các hình ảnh, lời phát biểu xuyên tạc dự thảo luật về đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt; nói xấu lãnh đạo Ðảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội; hình thành một số hội nhóm mời mọi người tham gia biểu tình phản đối trên phạm vi cả nước. Trong đó, chúng tập trung xuyên tạc, nói xấu rằng "Ðảng, Chính phủ và các lãnh đạo cấp cao của Ðảng, Nhà nước ta bán đất tại 3 vị trí chiến lược như Vân Ðồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa) và Phú Quốc (Kiên Giang) cho Trung Quốc thời hạn 99 năm". Có thể thấy, đây là một hành động hết sức thâm độc của các thế lực thù địch. Còn nhớ, năm 2014, từ sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc hạ đặt trái phép trong vùng biển Việt Nam, lợi dụng tinh thần yêu nước, chúng đã kích động nhân dân nhiều địa phương xuống đường diễu hành, biểu tình, gây rối. Qua đó, chúng đã lôi kéo được nhiều người gây rối trật tự xã hội tại một số nơi và làm chúng ta ảnh hưởng về đối ngoại, thiệt hại không nhỏ về kinh tế, do nhiều doanh nghiệp người nước ngoài bị hư hỏng tài sản hoặc ngừng sản xuất nhiều ngày. Cũng vẫn thủ đoạn cũ năm 2014, các thế lực thù địch, phản động đang tích cực áp dụng để xuyên tạc dự thảo "Luật Ðơn vị hành chính kinh tế đặc biệt" (đặc khu kinh tế) của Việt Nam. Thật đáng buồn, không ít người trong xã hội – nhất là nhiều bạn trẻ chưa nhận thức đúng đắn, vẫn nhẹ dạ, tin theo những lời xuyên tạc dụ dỗ của các phần tử phản động. Có người còn đồng tình, đăng tải, "câu like" bằng nội dung xuyên tạc, kêu gọi tham gia biểu tình của chúng cho bạn bè của mình. Bởi, họ không hiểu rằng, bè lũ bán nước chỉ mong trong nước chúng ta xảy ra các sự kiện phức tạp chính trị, xã hội để kích động biểu tình, bạo loạn, lật đổ chế độ.. (Trích bài viết của nguyên bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh – Lê Thanh Hải) Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên. Câu 2. Khái quát ngắn gọn nội dung văn bản. Câu 3. Theo tác giả, mục đích thâm độc của các thế lực thù địch khi tung ra những tin nhắn, đoạn video clip với các hình ảnh, lời phát biểu xuyên tạc dự thảo luật về đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt; nói xấu lãnh đạo Ðảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội; hình thành một số hội nhóm mời mọi người tham gia biểu tình phản đối trên phạm vi cả nước là gì? Câu 4. Trong phần in đậm, tác giả đã sử dụng thao tác lập luận gì? Mục đích của tác giả khi nhắc lại sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014? II. LÀM VĂN Câu 1. Từ đoạn đọc hiểu trên, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về cách ứng xử cần có của mỗi người dân trước những sự kiện chính trị nhạy cảm của đất nước. Câu 2. Phân tích vẻ đẹp của hai chị em Việt, Chiến trong Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi), từ đó liên hệ với nhân vật "tôi" trong Từ ấy (Tố Hữu) để rút ra nhận xét về vẻ đẹp của các thế hệ trẻ trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. GỢI Ý LÀM BÀI - ĐỀ 05 Bấm để xem I. Đọc hiểu 1. Nghị luận 2. Bài viết nói về việc các thế lực phản động đang lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân, tung tin sai sự thật trên các trang mạng để kích động nhân dân biểu tình, chống phá nhà nước. 3. Mục đích: mong trong nước chúng ta xảy ra các sự kiện phức tạp chính trị, xã hội để kích động biểu tình, bạo loạn, lật đổ chế độ.. 4. Thao tác so sánh; mục đích: Nhắc lại một tình huống tương tự để người dân nhận thức được hậu quả của việc nghe theo sự kích động biểu tình của các thế lực thù địch từ đó cần phải cẩn trọng trong cách hành xử. II. Làm văn Câu 1. Những người dân Việt Nam, chúng ta cần tỉnh táo trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và bọn phản động chống đối. Hãy yêu nước một cách có trách nhiệm, hãy suy nghĩ kỹ hậu quả trước khi hành động. Đừng để "nhiệt tình" kết hợp với "ngu si" thành "phá hoại". /. Câu 2. 1. Nhân vật Chiến: – Chiến hiện lên với vóc dáng của một người lao động: hai bắp tay tròn vo xạm màu đỏ cháy nắng, thân người to và chắc nịch.. – Sự đảm đang, tháo vát: Ở Chiến, khả năng vun vén, thu xếp gia đình cũng thể hiện rất rõ: Trước khi cùng em đi bộ đội, mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ, chu đáo, "nói nghe thiệt gọn" khiến cho chú Năm cũng phải có chút sững sờ. Về điều này Chiến rất giống với mẹ, chính chị cũng cảm giác hòa vào với mẹ. Theo lời chú Năm, cô "không khác mẹ một chút nào". => Xứng đáng là người con cả, người chị trong gia đình. – Phẩm chất anh hùng: + Cô có đức tính kiên trì, chịu khó (bỏ ăn để ngồi đánh vần cuốn sổ gia đình suốt từ trưa cho tới lúc trời chạng vạng ). + Cô cũng thừa hưởng ở mẹ đức tính gan góc, kiên cường, quyết tâm đánh giặc đến cùng: Trong ngày tòng quân, Chiến nói với em: "Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!". – Tuy nhiên, ở chị Chiến vẫn có những nét nữ tính: lúc nào cũng có chiếc gương nhỏ trong túi, ngậm một ít tóc trông nữ tính, quan trọng nhất là có cơ hội cầm súng. => Nhân vật Chiến hiện lên thật bình dị, để lại nhiều xúc cảm trong lòng bạn đọc với tính cách đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam nói chung và người phụ nữ Nam bộ nói riêng "giỏi việc nước, đảm việc nhà". 2. Nhân vật Việt: – Tính cách trẻ con, hồn nhiên, hiếu động: + Thích dành phần hơn với chị Chiến (chiến tích sông Định Thủy, dành đi lính) + Vô tư nên việc nhà phó thác cho chị Chiến, khi chị Chiến bàn bạc việc nhà thì "lăn ra cười khì", lúc lại "chụp một con đom đóm" rồi ngủ quên lúc nào không biết. + Đi lính vẫn mang theo súng cao su. + Dấu thư chị sợ các anh trong trung đoàn biết sẽ mất chị.. + Bị thương không sợ chết mà sợ ma.. + Gặp đồng đội, Việt giống hệt thằng út em ở nhà "khóc đó rồi lại cười đó" – Nhưng khi đi đánh giặc, Việt là người anh hùng thực thụ: + Luôn khắc ghi mối thù của gia đình "Mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai" + Quyết tâm đi đánh giặc, lập nhiều chiến công để trả thù cho ba má. + Trong trận chiến đấu ác liệt ở rừng cao su, Việt đã hạ được một xe bọc thép của đích dù bị thương rất nặng và bị lạc đồng đội. => Việt được khắc họa là một nhân vật tuổi trẻ anh hùng, đại diện tiêu biểu cho thế hệ thanh niên miền Nam anh hùng trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, bên cạnh đó không kém phần ngây thơ, ngộ nghĩnh. 3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: – Nghệ thuật trần thuật qua dòng hồi tưởng của nhân vật. – Khắc họa tính cách và tâm lí nhân vật sắc sảo. – Ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam Bộ. 4. Liên hệ: .
ĐỀ 06 I. ĐỌC HIỂU Thật ra, cuộc đời ai cũng có những lúc không biết nên làm thế nào mới phải. Khi ấy, ba tôi dạy rằng, ta chỉ cần nhớ nguyên tắc sống cơ bản cực kì ngắn gọn: Trước hết hãy tôn trọng người khác rồi sau đó, nghe theo chính mình. Hãy tôn trọng. Bởi cuộc đời là muôn mặt và mỗi người có một cách sống riêng biệt. Chẳng có cách sống này là cơ sở để đánh giá cách sống kia. John Mason có viết một cuốn sách tựa đề "Bạn sinh ra là một nguyên bản, đừng chết như một bản sao". Tôi không biết nó đã được dịch ra tiếng Việt chưa, nhưng đó là một cuốn sách rất thú vị. Nó khiến tôi nhận ra rằng mỗi con người đều là một nguyên bản, duy nhất, độc đáo và đáng tôn trọng. () Chúng ta không sinh ra với ngoại hình, tính cách, tài năng hay sự giàu có mà mình muốn chọn lựa. Nhưng chúng ta đều có một cơ hội duy nhất để được là chính mình. Chúng ta có một cơ hội duy nhất để sống như mình muốn, làm điều mình tin, sáng tạo điều mình mơ ước, theo đuổi điều mình khát khao, yêu thương người mình yêu. Bạn biết mà cơ hội đó chính là cuộc đời này – một chớp mắt so với những vì sao. Bởi thế, đừng để mình cứ mãi xoay theo những tiếng ồn ào khác, hãy lằng nghe lời thì thầm của trái tim. (Lắng nghe lời thì thầm con tim – Phạm Lữ Ân) Câu 1: Xác định thao tác nghị luận chính của văn bản trên. Câu 2: Theo tác giả "sống như mình muốn" là như thế nào? Câu 3: Tại sao tác giả nói: "Chúng ta đều có một cơ hội duy nhất để được là chính mình". Câu 4: Điều anh/chị tâm đắc nhất trong văn bản trên là gì? PHẦN II: LÀM VĂN Câu 1. Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh / chị về câu nói được đề cập trong phần Đọc hiểu 2: "Bạn sinh ra là một nguyên bản đừng chết như một bản sao". Câu 2. Phân tích hình tượng rừng xà nu trong tác phẩm Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành. Liên hệ bức tranh thiên nhiên Việt Bắc qua đoạn thơ sau: Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây Núi giăng thành luỹ sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù ( Việt Bắc - Tố Hữu) GỢI Ý LÀM BÀI - ĐỀ 06 Bấm để xem I. Đọc hiểu Câu 1. Thao thác lập luận bình luận/ thao tác bình luận/ bình luận. Câu 2. "Sống như mình muốn" : Làm điều mình tin, sáng tạo điều mình mơ ước, theo đuổi điều mình khát khao, yêu thương người mình yêu. Câu 3. – Cuộc đời con người rất ngắn ngủi nên mình không có cơ hội để sống lại cuộc đời mình lần thứ 2. – Vì vậy hãy sống thật với chính mình, sống với những đam mê, khát vọng của mình, làm điều Mình tin, sáng tạo điều mình mơ ước, theo đuổi điều mình khát khao để khi từ giã cuộc đời này, mình không có điều gì phải hối tiếc. Câu 4. – Có thể chọn: Được sống là chính mình; sống như nguyên bản của mình; theo đuổi khát khao, mơ ước.. Lưu ý: Cần lí giải hợp lí và thuyết phục, không vi phạm đạo đức, thẩm mĩ, pháp luật.. II. Làm văn Câu 1. "Bạn sinh ra là một nguyên bản đừng chết như một bản sao." * Giải thích Mỗi người sinh ra là một nguyên bản: Mỗi người sinh ra là một cá thể riêng biệt, duy nhất, độc đáo; Đừng chết như một bản sao: Đừng lặp lại, bắt chước, nói theo, nghĩ theo để trở thành bản sao của người khác => Ý nghĩa câu nói: Cần giữ được bản sắc riêng của mình trong suốt hành trình cuộc sống. * Bàn luận, chứng minh: – Trời sinh ra con người không ai giống ai. Vì vậy chúng ta phải giữ gìn những nét riêng của mình. "Sinh ra là duy nhất, đừng sống là bản sao". Nếu mọi người đều nói đều nghĩ giống nhau thì cuộc sống sẽ mất đi sự phong phú, đa dạng và trở nên buồn tẻ, đơn điệu. – Phê phán những người chạy theo thời đại mà đánh mất bản sắc của mình và những người chưa biết cách thể hiện cái riêng của mình. – Tuy nhiên giữ gìn nét riêng không có nghĩa là cố gắng tỏ ra nổi bật hơn thiên hạ bằng những hành động lố lăng, quá khích, cũng không thể vì cái riêng của mình mà ảnh hưởng đến cái chung của mọi người. * Bài học nhận thức và hành động: – Mỗi người cần xác định lối sống đúng đắn để vừa dung hòa với cộng đồng vừa giữ được cá tính của mình. – Chân thành với bản thân và mọi người xung quanh – đó chính là cách vừa giữ gìn cái riêng vừa tạo nên những mối quan hệ. Câu 2. I. MB: Nêu tác giả tác phẩm/hình tượng rừng xà nu (hoặc mở bài gián tiếp) II. TB: 1. Khái quát: Ra đời vào mùa hè đỏ lửa năm 1965, có thể nói Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành là tác phẩm văn học hay nhất viết về con người Tây Nguyên, con người miền Nam thời đánh Mỹ. Cùng với "Cánh chim Chơ – rao" của Thu Bồn, "Hòn đất" của Anh Đức, "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi.. "Rừng Xà Nu" đã hòa quyện tạo thành một bản hợp xướng về vẻ đẹp của nhân dân miền Nam anh hùng đã đứng lên trong lửa đạn để bảo vệ từng tấc đất của tổ quốc quê hương. Rừng Xà Nu đăng lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung Bộ 1965, sau được in trong tập "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc" Với kết cấu độc đáo – truyện lồng truyện, Nguyễn Trung Thành đã mang đến cho người đọc hình tượng những cây xà nu vạm vỡ, sinh sôi nảy nở không ngừng hòa vào bóng dáng của nhân vật chính – nhân vật Tnú. Hai hình tượng song hành ấy đã tạo nên bản trường ca bất tận về con người Tây Nguyên anh hùng, nghĩa hiệp, quả cảm mà cũng giàu tình nghĩa. 2. Cảm nhận (làm rõ các luận điểm sau) 2.1. Hình tượng Rừng Xà Nu là một sáng tạo độc đáo của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Đây là một hình tượng nghệ thuật có sức khái quát bao trùm lên toàn bộ tác phẩm: Trong tác phẩm này nhà văn đã trên dưới 20 lần nhắc đến xà nu. Xà nu luôn hiện diện trong từng lời kể của nhà văn tạo nên sự sinh động, chân thực và khơi gợi nguồn cảm hứng dạt dào cho cả nhà văn và bạn đọc. Nhiều từ ngữ được lặp lại trong những câu văn giàu sức sống: Rừng xà nu, đồi xà nu, cây xà nu, lửa xà nu.. Không phải ngẫu nhiên mà có một câu văn được lặp lại gần như nguyên vẹn đến hai lần ở phần đầu phần kết thúc tác phẩm: "Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời". Đây là một điệp khúc trầm hùng làm nền cho toàn bộ câu chuyện. Đặc biệt là khi xà nu tách ra thành cây thì nó gắn liền với đời sống con người. Còn khi hợp lại thì nó trở thành rừng, thành đồi, hòa kết thành một quần thể bền vững như bức thành đồng kiên cố trùng điệp, vô tận bảo vệ buôn làng Xôman. 2.2. Rừng xà nu gắn bó máu thịt với dân làng Xô Man trong đời sống vật chất cũng như tinh thần: - Phân tích làm rõ 2.3. Bằng bút pháp miêu tả, nhân cách hóa – Nguyễn Trung Thành đã mang đến cho người đọc hình ảnh Tây Nguyên hoang sơ kỳ vĩ và sự mất mát đau thương mà cây xà nu phải gánh chịu. Những mất mát đau thương ấy của cây xà nu cũng chính là những mất mát đau thương của nhân dân miền Nam trong những ngày quê hương bị giặc giày xéo. – Phân tích làm rõ 2.4. Vượt lên trên mất mát đau thương, rừng xà nu sinh sôi nảy nở không ngừng với bản năng sinh tồn mãnh liệt. Chính nhà văn đã để cụ Mết khẳng định sức sống ấy như một chân lý: "không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố chúng nó giết hết được cả rừng xà nu này" Bằng thủ pháp nghệ thuật tương phản, Nguyễn Trung Thành đã làm nổi bật sự hùng vĩ cao thượng, man dại của xà nu. Tương phản với từ "ngã gục" – chỉ sự hủy diệt. Nguyễn Trung Thành đã đặt vào đó một hệ thống từ ngữ chỉ sự sống: sinh sôi, nảy nở, khỏe, mọc lên, lao thẳng, phóng lên, vượt lên, ưỡn, che chở.. Hệ thống ngôn ngữ này giúp nhà văn sáng tỏ được sức sống hoang dại, mãnh liệt của cây rừng xà nu – đó là thứ thiên nhiên hoang sơ của Tây Nguyên ngàn đời. Trong bức tranh ấy sự sống lấn át cái chết; sự sinh sôi lấn át sự hủy diệt. (Bài của Ths Phan Danh Hiếu) Bên cạnh những động từ mạnh tạo nên hàng loạt những cảm giác mạnh, tác giả cũng không quên lồng vào đó những tính từ để miêu tả sức sống của loài cây: tràn trề, ngào ngạt, long lanh, mỡ màng.. tất cả đã tạo nên một cảnh tượng tuyệt vời nên thơ, tráng lệ. Xà nu còn là loài cây ham ánh sáng. Dưới ngòi bút Nguyễn Trung Thành loài cây xà nu bỗng sáng ngời bởi những câu văn dạt dào chất thơ. Chỉ với mấy chữ: "Phóng lên rất nhanh" – nhà văn dường như đã cho người đọc thấy được sự khao khát mãnh liệt của loài cây trong cuộc đấu tranh sinh tồn đi tìm ánh sáng của tự do giữa bao la Tây Nguyên. Xà nu đón lấy "thứ ánh nắng từ trên cao rọi xuống từng luồng lớn thẳng tắp vô số những hạt bụi vàng bay ra từ nhựa cây thơm mỡ màng". Câu văn không chỉ dạt dào chất thơ mà còn dạt dào cả ánh sáng, màu sắc và lắng đọng cả hương thơm. (Bài của Ths Phan Danh Hiếu) Cây ham ánh sáng chính là loài cây yêu tự do như con người Xô man yêu tự do, yêu mảnh đất truyền thống ngàn đời của họ. Ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành không quên nhắc đến sức sống hoang dại, mãnh liệt của thế hệ những cây xà nu trưởng thành. Đó là những thân cây xà nu như thấu hiểu sứ mệnh của mình đã "vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã". Những thân cây bị thương cũng nhanh chóng lành lặn "như những con chim đã đủ lông mao lông vũ"; "những vết thương của chúng chóng lành như trên một cơ thể cường tráng". Cả cánh rừng ấy thế hệ này nối tiếp thế hệ khác đã đứng lên đưa vồng ngực của mình mà "ưỡn" mà "che chở cho cả dân làng". 2.5. Hình tượng Rừng Xà Nu còn là biểu tượng cho những thế hệ con người Xô man. Rừng xà nu có ba thế hệ xà nu tiêu biểu cho ba thế hệ con người Xô man. Cụ Mết là biểu tượng cho truyền thống, là thế hệ cây xà nu đại thụ; Tnú – Mai – Dít là thế hệ cây xà nu trưởng thành; Heng – thế hệ xà nu măng non. Hình ảnh người và cây quyện hòa vào nhau tạo nên một dàn hợp xướng bất tử, dạt dào sức sống Tây Nguyên. Nỗi đau của cây cũng là nỗi đau của con người: Một cây ngã xuống, ta ngỡ như một con người Xô man ngã xuống. Phải chăng những mất mát đau thương của cây xà nu cũng là mất mát đau thương của con người nơi đây: Anh Xút bị giặc treo cổ, bà Nhan bị giặc chặt đầu, mẹ con Mai bị sát hại bằng một trận mưa roi sắt, hai bàn tay Tnú bị giặc đốt cụt.. (Bài của Ths Phan Danh Hiếu) Vượt lên bi kịch đau thương, con người Xô man thế hệ này tiếp nối thế hệ khác tạo thành một đội ngũ trùng điệp đứng lên bảo vệ dân làng. Anh Xút, bà Nhan hi sinh thì có Mai và Tnú trưởng thành nhanh chóng thay thế nhiệm vụ cách mạng. Mai ngã xuống khi tuổi xuân còn nồng nàn hạnh phúc thì Dít như cây xà nu phóng lên rất nhanh để tiếp nối chị. Nhà văn còn hé lộ thế hệ thứ ba – thế hệ của những thằng bé Heng chưa lớn lên nhưng đã trở thành những người chiến binh nhỏ tuổi đầy quả cảm. Có thể nói: Âm vang Tây Nguyên từ ngàn xưa vang vọng chảy vào dòng máu của cụ Mết, cụ Mết chảy vào Tnú, Tnú chảy vào Mai, Mai truyền cho Dít, Dít truyền qua Heng, Heng truyền vào những cây xà nu con "mới nhú lên khỏi mặt đất đã nhọn hoắt như những mũi lê". Đó cũng chính là chân lý "một cây ngã cả rừng cây lại mọc"; là hình ảnh "bốn nghìn năm đất nước – năm tháng nào cũng người người lớp lớp" (Nguyễn Khoa Điềm) – thế hệ này ngã xuống thế hệ khác đứng lên dệt nên bài thơ huyền thoại: Ta lại viết bài thơ trên báng súng Con lớn lên viết tiếp thay cha Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống Người hôm nay viết tiếp người hôm qua (Hoàng Trung Thông) 2.6. Nghệ thuật: – Trần thuật hấp dẫn, dựng cảnh sinh động – Ngôn ngữ sử thi lãng mạn hào hùng – Bút pháp miêu tả, nhân cách hóa, so sánh, tượng trưng, giọng văn tha thiết, trang nghiêm, hùng tráng.
ĐỀ 07 (Biên soạn: Thùy Minh) I. ĐỌC HIỂU Đọc trích đoạn sau: Có bao giờ giữa những xô bồ thường nhật, bạn dừng lại quan sát một nhánh cỏ dại bình yên mọc ven đường. Mặc gió mưa khắc nghiệt, mặc loài người bạc đãi, mỗi buổi sáng thức dậy, đi qua cung đường ấy vẫn thấy một nhánh cỏ kiên cường vươn lên đón nắng mặt trời. ...Ở đâu có đất, có nắng, có gió, ở đó có cỏ dại sinh sôi. Càng bị chà đạp, hủy diệt, cỏ dại càng hồi sinh mạnh mẽ. ...Để ý mà xem, thanh sắt cùn muốn trở thành thanh gươm sắc bén phải trầm mình qua lửa thiêu nước lạnh, con sâu xấu xí muốn hóa con bướm xinh đẹp phải chịu hóa lỏng xương cốt để một lần được vỗ cánh bay cao. Người Do Thái sẽ không thể trở thành biểu tượng của sự phi thường nếu như không phải trải qua lịch sử ngàn năm tàn khốc. Người Nhật Bản cũng không thể trở thành phượng hoàng châu Á nếu không vực dậy đất nước từ đống tro tàn. Nếu không có vị mặn con người sẽ không thể tạo ra những món ăn ngon, nếu không có nghịch cảnh con người sẽ không thể biết đến những điều vĩ đại. Chấp nhận sự mất mát, chấp nhận nỗi khổ đau là bài học vỡ lòng mà bất cứ ai đang mưu cầu hạnh phúc và thành công đều phải biết. (Trích dẫn: "Đến cỏ dại còn đàng hoàng mà sống" – Phạm Sỹ Thanh) Thực hiện các yêu cầu: Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích. Câu 2. Theo anh chị, đoạn văn được kết cấu theo kiểu nào? Câu văn nào khái quát chủ đề của cả đoạn? Câu 3. Theo anh/chị, việc tác giả đưa ra hình ảnh "cỏ dại", "thanh sắt", "con sâu", "người Do Thái", "người Nhật"... trong đoạn văn nhằm mục đích gì? Câu 4. Anh chị có đồng tình với quan điểm cho rằng, muốn mưu cầu hạnh phúc và thành công, con người phải "chấp nhận sự mất mát, chấp nhận nỗi khổ đau"? Vì sao? II. LÀM VĂN Câu 1. Từ nội dung đoạn trích phần đọc hiểu, anh chị hãy viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của bản thân về vấn đề: cần làm gì để đối mặt với khổ đau, mất mát? Câu 2. Phân tích vẻ đẹp của sông Hương khi chảy qua thành phố Huế trong đoạn văn sau: Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc, phía đó, nơi cuối con đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quí của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. (Trích "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" – Hoàng Phủ Ngọc Tường)Từ đó, anh/chị hãy nhận xét về nét tài hoa, uyên bác trong bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường. GỢI Ý LÀM BÀI Bấm để xem I. ĐỌC HIỂU Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích: nghị luận Câu 2. Đoạn văn được kết cấu theo kiểu: quy nạp Câu văn khái quát chủ đề của cả đoạn: Chấp nhận sự mất mát, chấp nhận nỗi khổ đau là bài học vỡ lòng mà bất cứ ai đang mưu cầu hạnh phúc và thành công đều phải biết. Câu 3. Việc tác giả đưa ra hình ảnh "cỏ dại", "thanh sắt", "con sâu", "người Do Thái", "người Nhật"... trong đoạn văn nhằm mục đích: Giúp mỗi người nhận thức được rằng muốn mưu cầu hạnh phúc, muốn có được thành công, con người phải chấp nhận sự mất mát, chấp nhận nỗi khổ đau. Câu 4. Tôi đồng tình với quan điểm cho rằng, muốn mưu cầu hạnh phúc và thành công, con người phải "chấp nhận sự mất mát, chấp nhận nỗi khổ đau", vì: - Sự trưởng thành của con người được hình thành, tôi luyện, nhào nặn sau những trải nghiệm mất mát, khổ đau của cuộc đời. - Khi biết đối diện, vượt qua những khổ đau, mất mát con người mới có thể mạnh mẽ chiến thắng bản thân và vươn tới thành công, có được cuộc đời hạnh phúc. II. LÀM VĂN Câu 1. NLXH: Cần làm gì để đối mặt với khổ đau, mất mát? Những lí lẽ cần triển khai: Khi đối mặt với khổ đau, mất mát, con người cần: - Nhận thức được khổ đau, mất mát là điều tất yếu gặp phải trên hành trình sống của mỗi người. - Giữ tâm thế lạc quan, tin tưởng vào những điều tốt đẹp. - Kiên trì, bền bỉ với con đường mà mình đã lựa chọn, không khuất phục, bi quan. - Đưa ra những giải pháp cụ thể để vượt qua những khổ đau, mất mát đó. Câu 2. Phân tích vẻ đẹp sông Hương khi chảy qua thành phố Huế: - Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vẻ đẹp sông Hương khi chảy qua thành phố Huế - Thân bài: Ý khái quát: vẻ đẹp sông Hương trước khi chảy qua thành phố (Hai đoạn trước) Phân tích vẻ đẹp sông Hương khi chảy qua thành phố: Dưới con mắt của hội họa, sông Hương hiện ra đẹp thơ mộng bởi những đường nét uốn lượn mềm mại và duyên dáng, những màu sắc hài hòa và bình dị. - Trước tiên, sông Hương được miêu tả trong cảm xúc "vui tươi" và "nét thẳng thực yên tâm" khi vào đến thành Huế, cách miêu tả đặc sắc của nghệ thuật nhân hóa đã đem đến cảm giác thanh thản, bình yên của một dòng sông khi tìm thấy chính mình, tìm thấy tình yêu của mình khi về với thành phố hình như chỉ dành riêng cho nó, tồn tại vì nó, một thành phố luôn đợi chờ, luôn tin vào dòng sông thân yêu từ miền thăm thẳm đại ngàn xa xôi. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến dòng sông trở nên gần gũi vô cùng với mảnh đất cố đô và con người xứ Huế. - Sau cảm giác bình yên giữa lòng thành phố, dòng sông bắt đầu thể hiện sự duyên dáng quen thuộc của mình trong những nét uốn lượn tình tứ. Đó là việc "sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng đến Cồn Hến", với liên tưởng độc đáo, lãng mạn của nhà văn, "đường cong ấy làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu". Qua phép so sánh thật ngọt ngào, dòng sông bỗng trở thành người tình dịu dàng, e ấp mà vẫn thật tình tứ, đắm say của Huế. - Sông Hương với những chi lưu của nó tạo thành những đường nét thật tinh tế, làm nên vẻ đẹp của đất cố đô. Vẻ đẹp hình như ta đã gặp trong Đường thi, trong thơ Chương Kế: " Trăng tà tiếng quạ kêu sương Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ" Những chi lưu của sông Hương làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước "trôi đi thực chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh" đẹp như một điệu slow chậm rãi, trữ tình dành riêng cho Huế. Khái quát vẻ đẹp của sông Hương và nghệ thuật của đoạn văn: Dưới cái nhìn lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một dòng sông đơn thuần mà còn gắn bó với Huế như một cặp tình nhân chung thủy. Qua bài kí, tác giả thể hiện tình yêu tha thiết với mảnh đất mà ông gắn bó. Tình yêu Huế từ thâm căn cốt tủy đã chảy thành những dòng văn vừa đẹp, vừa sang, vừa tha thiết khiến ai chưa một lần đến Huế cũng có thể cảm nhận được vẻ đẹp độc đáo của Hương giang. Nhận xét về ngòi bút tài hoa uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Vốn ngôn ngữ phong phú, tài hoa, giàu chất thơ kết hợp với trí tưởng tượng phóng khoáng đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của bài kí và cũng là nét riêng trong nghệ thuật viết kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường. - Kết bài.
ĐỀ 08 PHẦN I. ĐỌC HIỂU Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4 Cả đời ra bể vào ngòi Mẹ như cây lá giữa trời gió rung Cả đời buộc bụng thắt lưng Mẹ như tằm nhả bỗng dưng tơ vàng Đường đời còn rộng thênh thang Mà tóc mẹ đã bạc sang trắng trời Mẹ đau vẫn giữ tiếng cười Mẹ vui vẫn để một đời nhớ thương Bát cơm và nắng chan sương Đói no con mẹ xẻ nhường cho nhau Mẹ ra bới gió chân cầu Tìm câu hát đã từ lâu dập vùi.. ( TríchTrở về với mẹ ta thôi – Đồng Đức Bốn) Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ, phương thức biểu đạt. Câu 2. Nỗi vất vả, nhọc nhằn của người mẹ được miêu tả qua những từ ngữ, hình ảnh nào? Câu 3. Tìm câu thành ngữ được vận dụng trong câu thơ Cả đời buộc bụng thắt lưng. Câu 4. Chỉ ra và nêu hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ Mẹ như tằm nhả bỗng dưng tơ vàng. II. LÀM VĂN Câu 1. Vai trò của tình mẫu tử. Câu 2. Cảm nhận về nhân vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu (Ngữ văn 12). Từ đó liên hệ với nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Kịch Vũ Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng, Ngữ Văn 11) để thấy được những phẩm chất cần có của người nghệ sĩ. GỢI Ý LÀM BÀI - ĐỀ 08 Bấm để xem I. ĐỌC HIỂU. 1. Nỗi vất vả, nhọc nhằn của người mẹ được miêu tả qua những từ ngữ, hình ảnh: Ra bể vào ngòi, buộc bụng thắt lưng, tóc mẹ đã bạc, đau.. 2. Thành ngữ: Thắt lưng buộc bụng 3. - Phép tu từ: So sánh - T. D: Làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ, thể hiện được tình cảm yêu quý, trân trọng của con dành cho mẹ+ tăng tính gợi hình, biểu cảm cho câu thơ 4. HS tự trình bày II. LÀM VĂN Câu 1. Các ý chính về vai trò của tình mẫu tử: - Giúp gắn kết tình cảm mẹ con; - Giúp những người con được lớn lên trong tình yêu thương, những người mẹ cảm nhận trọn vẹn niềm hạnh phúc; - Thúc đẩy con người sống có trách nhiệm với cha mẹ, con cái.. Câu 2. A. Mở bài – nêu vấn đề của đề bài - Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Minh Châu; nêu hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ của "Chiếc thuyền ngoài xa"; từ đó dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích: Nhân vật Phùng trong truyện ngắn. - Từ nhân vật Phùng cũng gợi nhiều liên hệ với nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" (Kịch "Vũ Như Tô" – Nguyễn Huy Tưởng) ; qua đó ta thấy được những phẩm chất cần có của người nghệ sĩ mà các nhà văn muốn gửi gắm. B. Thân Bài: Triển khai vấn đề (HS có thể triển khai thành nhiều cách nhưng cần làm nổi bật các yêu cầu của đề) 1. Yêu cầu cơ bản của đề là: Cảm nhận về nhân vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu (Ngữ văn 12). *HS có thể trình bày cảm nhận theo nhiều cách nhưng cần làm nổi bật một số ý cơ bản như sau: - Phùng là một người nghệ sĩ say mê công việc và có ý thức với nghề nghiệp, với công việc được giao. Để có được bức ảnh nghệ thuật ưng ý (theo yêu cầu của trưởng phòng), anh đã trở lại vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời kì chống đế quốc Mĩ. Phùng đã "phục kích" cả tuần, suy nghĩ và tìm kiếm mà chưa chụp được bức ảnh nào.. Chứng tỏ Phùng là người không đơn giản, qua loa với công việc mà anh luôn hết lòng, tận tâm vì công việc. - Phùng là người nghệ sĩ giàu cảm xúc và yêu cái đẹp. Khi phát hiện ra cảnh đẹp buổi sớm bình minh với con thuyền đẹp như mơ, như "bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ", Phùng đã rất xúc động, bối rối "trong tim như có cái gì bóp thắt vào", anh thấy trào dâng trong mình niềm hạnh phúc tuyệt đỉnh.. Trong khoảnh khắc hạnh phúc của người nghệ sĩ chân chính yêu cái đẹp ấy, anh tưởng chính mình khám phá thấy "cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn", thấy "cái đẹp chính là đạo đức".. Như vậy, Phùng chứng tỏ mình là người nghệ sĩ săn tìm cái đẹp. Anh thực sự biết quan sát bằng đôi mắt tinh tường, "nhà nghề" để lựa chọn cái đẹp hài hòa giữa thiên nhiên, cảnh vật, con người - vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chỉ gặp một lần. Rồi anh bấm liên thanh một hồi hết phần tư cuốn phim, như muốn thu vào mình cái khoảnh khắc hạnh phúc ngập tràn.. - Phùng cũng là người giàu tình cảm, tình yêu thương con người. Anh thấy người đàn bà bị đánh, anh đã lao ra can thiệp. Dù rằng anh bị đánh trả, bị thương và phải đưa vào trạm y tế của tòa án huyện.. nhưng rồi anh vẫn tìm mọi cách để giúp đỡ người đàn bà bị bạo hành ấy. - Phùng là kiểu nhân vật nhận thức, nhân vật tự ý thức: Anh ý thức được các hành động việc làm của mình, từ việc cảm nhận bức tranh thiên nhiên tuyệt bích, lẫn phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn tiềm ẩn đằng sau người đàn bà vùng biển có vẻ ngoài xấu xí. Và anh cũng đã dần nhận ra chân lí về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. - Để làm nổi bật những điều trên, nhà văn đã dùng nghệ thuật khắc họa nhân vật Phùng rất đặc sắc như: Đặt nhân vật vào tình huống độc đáo để cho tính cách nhân vật bộc lộ; kết hợp lối tả thực với lối ngôn ngữ gợi cảm; nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tự nhiên.. 2. Yêu cầu nâng cao (phân loại thí sinh) : Liên hệ với nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" (Kịch "Vũ Như Tô" – Nguyễn Huy Tưởng, Ngữ Văn 11) để thấy được những phẩm chất cần có của người nghệ sĩ. A. Liên hệ với nhân vật Vũ Như Tô: + Nhân vật Vũ Như Tô có nhiểu điểm giống với nhân vật Phùng. Ông cũng là một nghệ sĩ có nhiều tài năng – người kiến trúc sư thiên tài và là người nghệ sĩ có tâm với nghề. Trải qua nhiều thăng trầm, ông đã sống và chết trong bi kịch của đời mình. Lúc đầu, Vũ Như Tô đã sáng suốt không muốn đem tài năng phục vụ Lê Tương Dực, xây dựng các cung điện để phục vụ cuộc sống xa hoa hưởng lạc của vua, nhưng về sau đã bị Đan Thiềm thuyết phục. Trước nhan sắc và sự săn sóc "dịu dàng" của người cung nữ này mà Vũ Như Tô đã thay đổi thái độ. Ồng Cả đã đem tài năng ra xây dựng Cửu Trùng Đài. Lí tưởng của nhà kiến trúc sư họ Vũ thật đẹp và lãng mạn là quyết đem tài năng để xây dựng nên một lâu đài hùng vĩ tráng lệ, có thể "tranh tinh xảo với hóa công", "bền như trăng sao", đem lại vinh dự cho non sông và niềm tự hào cho hậu thế.. Tuy được viết vào hai bối cảnh xã hội khác nhau, văn hóa mà đối tượng tồn tại khác nhau; phong cách của hai nhà văn cũng hoàn toàn khác nhau, nhưng họ đều có một điểm chung đã lật ra "lá bài của nghệ thuật". Qua hai nhân vật, các tác giả muốn gửi gắm thông điệp: Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, phục vụ cuộc sống, nếu nghệ thuật xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng thì chỉ đem lại bi kịch thảm khốc như của Vũ Như Tô hay cái nhìn phiến diện về cuộc sống của nghệ sĩ Phùng. + Tuy nhiên ở Vũ Như Tô có những điểm khác biệt với nhân vật Phùng. Quan điểm nghệ thuật của Vũ Như Tô hoàn toàn sai lầm, vì đó là quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Xây dựng Cửu Trùng Đài là để phục vụ bạo chúa, vị hôn quân, đâu phải vì nhân dân. Hoài bão của Vũ Như Tô lãng mạn nhưng vô nghĩa. Vũ Như Tô là một kẻ sĩ sống dưới thời loạn, ông bị đẩy xuống đáy bi kịch cuộc đời, trở thành một kẻ gàn, kẻ quẫn trí. Đan Thiểm khuyên ông trốn đi, nhưng ông vẫn cho rằng "không làm gì nên tội", thiên hạ "hiểu nhầm mà thôi"! Cả hai tác phẩm này đều xây dựng lên một nhân vật hết lòng đam mê nghệ thuật nhưng chỉ vì chưa thấy rõ sự đối lập mà dẫn đến những kết cục đáng buồn. Nghệ sĩ Phùng đã thấy được mặt trái của sự việc và đã kịp thời sửa sai; nhưng Vũ Như Tô phải lấy cả cái giá của nghệ thuật để đổi bằng chính mạng sống của mình. Đó là kết quả tất yếu của cái nhìn đơn giản, hời hợt, xa rời thực tế của người nghệ sĩ. B. Qua hai nhân vật, có thể rút ra những phẩm chất cần có của người nghệ sĩ: - Người nghệ sĩ cũng cần có tài năng, sự đam mê trong sáng tạo nghệ thuật. - Người nghệ sĩ phải có tâm hồn nhạy cảm, biết yêu cái đẹp, biết phát hiện và trân trọng những vẻ đẹp phong phú của con người và cuộc đời. - Người nghệ sĩ cần giàu lòng yêu thương con người, trân trọng những số phận cảnh đời, biết nhìn đời bằng cái nhìn đa chiều, đa diện. - Người nghệ sĩ cần có quan niệm nghệ thuật đúng đắn, tỉnh táo; phát hiện ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống; sống và viết có trách nhiệm với nhân dân, đất nước..
ĐỀ 09 PHẦN I. ĐỌC HIỂU Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi: Con ơi! Dù con sợ Tình yêu, Tình yêu vẫn cứ đến. Con đừng bao giờ tự hỏi rằng người yêu con có xứng với con không? Cái thứ Tình yêu mà lại mặc cả như món hàng ngoài chợ thì không còn gọi là tình yêu được nữa. Yêu là không so tính thiệt hơn, con ạ! Nếu người con yêu là một người nghèo khổ thì con sẽ cùng người ấy chung sức lao động để xây đắp tô thắm cho Tình yêu. Nếu người yêu của con già hơn con thì con làm cho người đó trẻ lại với con. Nếu người yêu con bị cụt chân thì con sẽ là cái nạng vững chắc nhất đời họ. Tình yêu đẹp nhất sẽ đến với con nếu con nghĩ và làm đúng lời cha dạy. Nhưng con cũng phải luôn tự hỏi xem người đó yêu con vì lẽ gì. Nếu người đó yêu con vì sắc đẹp, con nên nhớ sắc rồi sẽ tàn. Nếu người đó yêu con vì có chức tước cao thì khẳng định người đó không yêu con, con hãy từ chối và bảo họ rằng địa vị không bao giờ làm sung sướng cho con người, chỉ có sự làm việc chân chính mới thỏa mãn lòng người chân chính. Con phải độ lượng, phải giàu lòng vị tha nếu có sự hối hận thực sự. Con phải chung thuỷ với người con yêu. Nếu con làm mất hai chữ quý báu ấy, con sẽ hổ thẹn không lấy gì mà mua lại được. Con sẽ không được quyền tự hào với chồng, với con, với xã hội. Nếu con dễ dàng để cho 1 kẻ xa lạ nào đó đặt cái hôn gian manh bẩn thỉu lên môi con, thì trước khi hôn họ đã khinh con, đang khi hôn họ cũng khinh con và sau khi hôn họ càng khinh con hơn nhất. Ai sẽ vì con mà chăm sóc đời con, vui khi con có tin mừng, buồn khi con không may, nhất định đó là chồng con. (Thư Các Mác gửi con gái ) Câu 1. Nội dung chính của đoạn trích trên. Câu 2 . Tại sao Các Mác lại nói: "Dù con có sợ Tình yêu, Tình yêu vẫn cứ đến" ? Câu 3 . Trong đoạn trích trên Các Mác sử dụng kiểu câu: "Nếu người con yêu là một người nghèo khổ thì con sẽ cùng người ấy chung sức lao động để xây đắp tô thắm cho Tình yêu" . Câu văn trên thuộc kiểu câu nào xét về mặt ngữ pháp? Câu 4 . "Nếu con dễ dàng để cho 1 kẻ xa lạ nào đó đặt cái hôn gian manh bẩn thỉu lên môi con, thì trước khi hôn họ đã khinh con, đang khi hôn họ cũng khinh con và sau khi hôn họ càng khinh con hơn nhất" . Theo em tại sao Các Mác lại nói như vậy? II. LÀM VĂN Câu 1. Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về một bài học rút ra từ đoạn thư Các Mác gửi con gái. Câu 2. Tham khảo các đề trước. GỢI Ý LÀM BÀI - ĐỀ 09 Bấm để xem I. ĐỌC HIỂU. 1. ND: Bức thư là lời CM khuyên con gái cần tỉnh táo, thận trọng, tế nhị trong cách chọn người yêu và thái độ ứng xử với người yêu. 2. Vì: Tình yêu có thể mang lại cho con người nhiều đau khổ nhưng tình yêu là cảm xúc mãnh liệt của tâm hồn, của trái tim, lý trí khó có thể chế ngự được. 3. Kiểu câu ghép giả thiết – hệ quả: Nếu – thì 4. Vì: Quá dễ dãi trong tình yêu sẽ không bao giờ nhận được tôn trọng. II. LÀM VĂN Câu 1. Bài học: Trong tình yêu phải có sự thấu hiểu, bao dung, tôn trọng - Thấu hiểu trong tình yêu Hai người yêu nhau, thực sự là thừa nhận lẫn nhau, mà thừa nhận lẫn nhau thực sự là tin tưởng nhau. Những suy nghĩ, yêu, thích đều chung một tần số, sẽ càng hiểu rõ nhau hơn. Đây chính là thấu hiểu. Vì vậy, khi hai người "xích mích" trong tình yêu, có thể hóa giải một cách nhanh chóng. Vì vậy, hai người họ sau một thời gian tiếp xúc, đối với các sự việc trong cuộc sống, không cần phải giao tiếp ngôn ngữ quá nhiều để hiểu ý nhau. Khi ấy, dù chỉ một ánh mắt nhìn cũng đủ thấu hiểu và đồng lòng. - Bao dung trong tình yêu Những người yêu nhau họ không sợ người kia tốt hơn mình, mà là bao dung, bù đắp cho con tim của nhau, để thỏa mãn đối phương, khiến cho đối phương vui vẻ hạnh phúc. Loại tình yêu này chính là bao dung trong tình yêu! Có thể hiểu theo cách dễ hiểu, khi đã trở thành tình nhân của nhau, sẽ khiến cho người ấy cảm thấy tình cảm xuất phát từ trái tim mình một cách chân thành, không chút lừa dối và đầy bao dung. - Tôn trọng trong tình yêu Trong lúc quan tâm và chăm sóc lẫn nhau, sẽ cho nhau không gian riêng tư và sự tôn trọng. Tuy nhiên nhiều cặp đôi yêu nhau hoặc hai vợ chồng, bởi vì quan tâm thái quá về nhau, khao khát người mình yêu phải biến đổi theo ý mình, làm người ấy rất đau khổ. Chẳng hạn, bạn quan tâm quá mức tới người, dẫn tới tước bỏ đi không gian riêng tư của người ấy. Bạn cho rằng, mình đã rất yêu họ. Tuy nhiên cách yêu này không phải là tôn trọng người mình yêu, mà chỉ khiên cho người ấy đau khổ. Yêu một ai đó, thực sự là trân trọng người ấy, trân trọng không gian riêng tư của họ, khiến người mình yêu được thoải mái. Vì vậy, khi bạn làm điều gì khiến người ấy áp lực, "ngộp thở", thì cần phải xem xét lại, bởi tình yêu của bạn đang trở nên ích kỷ. Kiểu thể hiện tình yêu này, về lâu dài, sẽ chỉ làm thương tổn nhau. Chính vì vậy, thấu hiểu, bao dung, và tôn trọng, đây là chiếc chìa khóa vàng giúp tình yêu của nhiều đôi tình nhân mãi không rời đi.