Cảm nhận về đoạn thơ sau: "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.. [..] Đất Nước có từ ngày đó.." Bài làm Ai đó đã từng nói rằng "Nếu mỗi người không thuộc về một đất nước, một quê hương thì giống như con chim không có tổ, cái cây không có rễ.." . Và ai đó cũng đã từng tự hỏi lòng: "Có mối tình nào nặng sâu hơn là mối tình Tổ quốc?" . Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ấy đã có biết bao hồn thơ cất cánh. Nếu Nguyễn Đình Thi là hình ảnh của một đất nước đau thương, căm hờn, quật khởi, vùng lên chiến đấu và chiến thắng huy hoàng. Thì với Lê Xuân Anh là dáng đứng Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân; Xuân Diêu là vẻ đẹp của đất nước "Tổ quốc tôi như một con tàu, mũi tàu rẽ sóng Cà Mau". Đặc biệt vào cuối năm 1971, từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một tiếng thơ hay về đề tài Đất nước qua trích đoạn: "Đất nước" - Trường ca "Mặt đường khát vọng". Đoạn trích này ghi dấu ấn trong lòng bạn đọc với một tư tưởng mới mẻ về đất nước: "Đất Nước của Nhân dân" được thể hiện qua chín câu thơ đầu: "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.. Đất Nước có từ ngày đó.." Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ những năm chống Mĩ, với phong cách thơ giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc trữ tình-chính luận. Vũ Văn Sỹ từng nhận xét về hồn thơ này: "Nguyễn Khoa Điềm đã thực sự đóng góp vào nền thơ hiện đại một giọng trữ tình đầy chất sử thi, một giọng thơ sôi nổi và cá tính, mộ cây bút gắn kết được tài hoa với vốn sống, vốn tri thức, văn hóa và sự mẫn cảm của một tấm lòng trước từng trang giấy". Tấm lòng nhà thơ có khi nào nguôi yên trước vận mệnh dân tộc, mỗi lần đặt bút viết là mỗi lần trái tim cuộn trào tình cảm thiết tha cùng sự suy tư, trăn trở, triết luận chặt chẽ và thuyết phục. Thơ ông có sức hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồn nàn và suy tư sâu nắng của người trí thức về đất nước. Kết tinh cho hồn thơ ấy phải kể đến bài thơ Đất Nước. Tác phẩm nằm trong đoạn trích chương V của trường ca "Mặt đường khát vọng", đoạn thơ đã làm nổi bật những cảm nhận mới mẻ của nhà thơ về Đất nước trên nhiều bình diện và được viết vào năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang bước vào giai đoạn ác liệt. Bấy giờ, phong trào đấu tranh chống Mỹ của nhân dân các đô thị miền Nam ngày càng trở nên mạnh mẽ, sôi nổi tiêu biểu là phong trào xuống đường đấu tranh của học sinh, sinh viên. Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tác trường ca "Mặt đường khát vọng" để góp thêm tiếng thơ hay về đất nước, để lay động và thức tỉnh ý thức trách nhiệm của mỗi người đặc biệt là của tuổi trẻ đối với quê hương dân tộc, nhằm kêu gọi, khích lệ mọi người đứng lên, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Từ đó, nhà thơ khẳng định tư tưởng lớn: Đất Nước là của Nhân dân, và Nhân dân chính là người đã làm ra Đất Nước. Nguyễn Khoa Điềm đã mở đầu đoạn trích đoạn thơ của mình bằng lời hồi đáp cho câu hỏi: "Đất Nước có tự bao giờ?" "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi" Hai chữ "Đất Nước" vang lên trong trang thơ đầy thiết tha, trìu mến, bắt nguồn từ những gì gần gũi nhất, bình dị nhất trong đời sống vật chất và tâm hồn của mỗi người. Độc giả sẽ phát hiện một điều khác lạ đó là vùng đất vô tri, đất nước là nhân vật, là sinh thể có tâm hồn và với cách viết này cũng đồng thời bày tỏ sự trân trọng của tác giả những tình cảm thành kính, thiêng liêng, trân trọng dành cho đất nước. Điệp từ "Đất Nước" vang vọng suốt cả trường ca như một khúc nhạc thiết tha gợi cảm xúc, đưa ta về một miền không gian nối dài từ quá khứ gắn liền với biết bao phong tục tập quán thân thuộc hàng ngày, lịch sử lâu đời của đất nước và hiện tại đến tương lai. Hai từ thiêng liêng ấy không chỉ xuất hiện trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm mà còn "làm bạn" với rất nhiều thi sĩ khác: "Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Cánh cò bay lả rập rờn Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sơm chiều" Và đất nước cứ như thế đã trở thành một danh từ thiêng liêng trong trái tim của bất cứ ai. Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm bàn về vấn đề chính luận, thời sự, nhưng lại sử dụng đại từ xưng hô "ta" vừa là nhân vật trữ tình vừa là mỗi chúng ta những người dân đất Việt. Qua đó, nhà thơ muốn thể hiện nét tâm tình trò chuyện thân mật giữa người con trai và người con gái, giữa "anh" và "em" về đất nước. Người con trai ở đây – "ta" như đang muốn cắt nghĩa, lý giải về cội nguồn, sự lớn lên của đất nước cho người con gái anh yêu. Tuy nếu mở rộng ý thơ "ta" ở đây cũng có thể coi là tất cả mọi người, là một cách nói bao hàm đại diện cho dân tộc Việt Nam. Cách xưng hô khiến vấn đề trở nên trừu tượng và vô cùng lớn lao khi đất nước đã lớn lao nhưng nay lại càng trở nên gần gũi, rõ ràng, cụ thể. Điều này thể hiện rất rõ qua phong cách thơ trữ tình – chính luận của tác giả. Nhà thơ khẳng định sự hình thành của đất nước từ bao đời nay qua ba chữ "đã có rồi" khiến cho hình ảnh đất nước bỗng sừng sững, hiện hữu trong lòng người đọc. Theo cách lý giải của Nguyễn Khoa Điềm thì "Đất Nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng, đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền từ đời này qua đời khác". Cho nên "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi" lời khẳng định đầy sự tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua ngàn năm lịch sử. Đất nước cũng như trời và đất, khi ta sinh ra đã có đất và trời cũng như vậy, ta không biết được đất nước hình thành từ bao giờ, chỉ thấy hiện diện xung quanh ta với những gì đẹp và thân thương nhất. Những câu thơ tiếp tác giả triển khai và làm sáng rõ vấn đề được nên ra ở câu thơ đầu: "Đất Nước đã có từ rất lâu đời". Ngược về quá khứ xa xôi, tuổi thơ của mỗi người lớn lên trong những lời ru, những câu chuyện cổ tích của bà và em: "Đất Nước có trong những cái 'ngày xửa ngày xưa..'mẹ thường hay kể" Tác giả đã mượn chất liệu dân gian để diễn tả về sự ra đời của đất nước. Bốn chữ "ngày xưa ngày xưa" đưa chúng ta về một miền thăm thẳm, xa xôi. Nơi đó có hình ảnh của một cô Tấm dịu hiền, Thạch Sanh lương thiện, bà tiên ông Bụt với những phép màu diệu kỳ giúp đỡ cho những con người lương thiện gặp nạn.. Những câu chuyện đó đã khắc sâu về hình ảnh ông cha ta trong quá khứ và đất nước có trong những điều xa xưa ấy, tức là đất nước đã xuất hiện trước khi những câu chuyện này có mặt trong kho tàng dân gian đầy sắc màu. Khi những câu chuyện cổ tích có mặt trong đời sống tinh thần phong phú của nhân dân ta, ta lại thấy hình hài đất nước trong đó. Là đất nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện, cổ tích, truyền thuyết. Chính những câu chuyện và lời ru thân quen thưở nào đã là nguồn sữa ngọt lành nuôi dưỡng tâm hồn ta hướng về những điều tốt đẹp những bài học giá trị gắn liền trong cuộc sống. Không chỉ có trong cái "ngày xưa ngày xưa" Nguyễn Khoa Điềm còn xác định buổi ban đầu ấy qua một nét giản dị đã trở thành phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân ta đến hiện nay đó là ăn trầu: "Đất Nước bắt đầu với những miếng trầu bà ăn" Hình ảnh đất nước lớn lao kì vĩ, đối lập với hình ảnh miếng trầu lại bé nhỏ. Nghe có vẻ câu thơ phi lí vì đất nước kì vĩ và to lớn nhưng lại bắt đầu xuất phát từ miếng trầu nhỏ bé khiến ta liên tưởng đến chân lý: "Những điều lớn lao đều bắt đầu từ những điều nhỏ bé". Câu thơ còn gợi nhắc về truyện cổ tích "Sự tích trầu cau" được xem là câu chuyện xưa nhất trong các truyện cổ. Tục ăn trầu của người Việt cũng bắt nguồn từ chính câu chuyện này. Điều này cho ta thấy miếng trầu tuy nhỏ bé nhưng gắn liền với truyền thống 4000 năm lịch sử, 4000 năm phong tục truyền đời cùng truyền thống hiếu khách: "Miếng trầu làm đầu câu chuyện" . Trải qua biết bao thăng trầm cùng lịch sử, miếng trầu đã trở thành hình ảnh thiêng liêng trong đời sống tinh thần người Việt: Miếng trầu giao duyên, miếng trầu cưới hỏi.. Và từ đó, hình ảnh này trở nên quen thuộc trong thơ ca. Bên cạnh những phong tục tập quán tốt đẹp của đất nước, nhà thơ còn muốn nhấn mạnh vào quá trình lớn lên của đất nước song hành cùng truyền thống đánh giặc giữ nước của dân ta: "Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc" Hai chữ "lớn lên" để chỉ sự trưởng thành của đất nước. Câu thơ như muốn gợi cho ta về 2 hình ảnh: Cây tre và truyền thuyết "Thánh Gióng". Bao đời nay che không còn là hình ảnh xa lạ đối với đời sống của người dân Việt Nam mà nó đã đi sâu vào trong tâm hồn của mỗi con người đi vào những tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa "Tre xanh Xanh tự bao giờ? Chuyện ngày xưa.. đã có bờ tre xanh Thân gầy guộc, lá mong manh Mà sao nên lũy nên thành tre ơi? Ở đâu tre cũng xanh tươi Cho dù đất sỏi, đá vôi bạc màu" Người Việt Nam giống như cây tre mạnh mẽ kiên cường, dù gặp mưa lũ, khó khăn những vẫn kiên cường. Cây tre cũng gắn liền với hình cảnh cậu bé Thánh Giong – cậu bé vụt lớn trở thành tráng sĩ, dũng mãnh nhổ tre bên đường diệt giặc khỏi bờ cõi Việt. Cũng từ đó, Thánh Gióng đã trở thành biểu tượng khỏe khoắn sức vóc cường tráng của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường không khuất phục trước khó khăn, kẻ thù xâm lược. Truyền thống vẻ vag ấy đã đi theo suốt chặng đường dân tộc. Đã có biết bao nhiêu không kể cả tra cả gái họ đều sẵn sàng lên đường ra mặt trận. Họ ra đi mang trong mình tinh thần"Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Những tháng năm ấy và những năm tháng sau này truyền thống yêu nước vẫn luôn là cội nguồn, là dòng huyết chảy trong lịch sử hào hùng của dân tộc. Cùng với đó, đất nước đã có từ rất lâu đời gắn liền với những thuần phong mĩ tục tốt đẹp. Nhà thơ đã đề cập đến tập tục bới tóc của người phụ nữ Việt Nam qua câu thơ: "Tóc mẹ thì bới sau đầu" Do công việc trồng lúa nước, phải lội xuống ruộng nên người phụ nữ phải bới tóc cho gọn gàng. Lâu dần điều đó trở thành nét đẹp mang đậm tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Không chỉ thế, Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận về đất nước qua lối sống, tình cảm gắn bó giữa người với người, quan hệ đối xử giữa vợ và chồng và tình yêu chung thủy của họ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Nhà văn muốn mượn vị mặn của muối, vị cay nồng của gừng để nói về tình yêu dài lâu, nồng thắm, tình cảm thủy chung, sự gắn bó keo sơn của vợ chồng để làm nên một gia đình chan chứa hạnh phúc. Đó cũng là một truyền thống rất quý báu của nhân dân ta. Không chỉ vậy, Đất nước còn được tác giả cảm nhận từ cách đặt tên giản dị: "Cái kèo, cái cột thành tên". Ngôn ngữ Việt Nam có từ lâu đời, bắt nguồn từ việc đặt tên cho những vận dụng quen thuộc trong đời sống sinh hoạt hang ngày, lấy tên của chính những vật dụng ấy để đặt tên cho con cái. Bởi xa xưa, người Việt đã quan niệm đặt tên cho con càng xấu càng dễ nuôi. Hơn thế, là cảm nhận của nhà văn về truyền thống của con người Việt Nam cần cù, chịu khó. Để đất nước được như ngày hôm nay, không thể không kể đến công sức lao động của thế hệ ông cha, hay nói cách khác là quá trình dựng nước. Nhà thơ đã nói đến nghề trồng lúa nước: "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng" . Bằng thành ngữ "một nắng hai sương" kết hợp với một loạt động từ "xay, giã, giần, sàng", tác giả đã diễn tả rất cụ thể công việc của nhà nông, kèm theo đó là nỗi vất vả, cực nhọc, chịu thương chịu khó chăm chỉ lao động. Để làm ra hạt gạo ăn mỗi ngày đó là một quá trình vất vả. Thấm vào trong hạt gạo nhỏ bé còn là mồ hôi mặn, là những nhọc nhằn của những người nông dân tần tảo sớm hôm. Đất nước chúng ta trưởng thành từ những vất vả, lam lũ, một nắng hai sương như thế. Và sau tất cả những diễn giải ấy, tác giả đã một lần nữa khẳng định cội nguồn của đất nước với niềm tự hào mãnh liệt nhất: "Đât Nước có từ ngày đó" "Ngày đó" là một từ mang tính chất phiếm chỉ về thời gian. Ngày đó không biết chính xác là ngày nào nhưng ta chỉ biết rõ một điều: Đất nước của chúng ta đã tồn tại từ lâu đời. Từ khi có những câu truyện cổ tích, truyền thuyết, thời điểm bắt đầu của những phong tục tập quán, thuần phong mỹ tục, truyền thống đánh giặc giữ nước và cả nền văn minh lúa nước từ ngàn đời. Những nét văn hóa đẹp đẽ nhất đã được Nguyễn Khoa Điềm đưa vào thơ mình một cách tự nhiên và được cảm nhận vô cùng sâu sắc từ chiều sâu văn hóa và lịch sử. Nói tóm lại, chín câu thơ đầu tác giả đã thuyết phục người đọc bởi tư tưởng chính luận mà còn đi vào lòng người đọc bởi vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo. Bằng những cảm nhận mới mẻ, sâu sắc về sự hình thành và sự hình thành và phát triển lâu đời của đất nước. Trong đoạn thơ, cấu trúc câu "Đất Nước đã có", "Đất Nước bắt đầu", "Đất Nước lớn lên", "Đất Nước có từ" cho phép hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian trường kì. Kết hợp đó là điệp từ "có" đã nối kết những hình ảnh khẳng định sự hiện hữu cùng tính truyền thống vừa đầy ân tình sâu nặng của đất nước như một nét riêng không thể hòa lẫn. Nhà thơ cũng đã thật khéo léo khi sử dụng cách nói giản dị, tự nhiên, đậm đà màu sắc dân gian quen thuộc nhưng trong một thể loại hết sức mới mẻ - trường ca. Nhìn lại bao quát đoạn thơ ta thấy Nguyễn Khoa Điềm sử dụng cấu trúc tổng-phân-hợp rất chặt chẽ. Hình ảnh thơ hàm súc, giàu chất liệu văn hóa, văn học dân gian nên có sức lắng đọng sâu sắc. Chỉ một đoạn thơ ngắn nhưng đã khơi dậy bao nét văn hóa, văn hóa dân gian quen thuộc, vừa được viết bằng những rung động của cảm xúc, nên rất dễ đi vào lòng người. Trả lời cho câu hỏi "Đất Nước có từ bao giờ?", Nguyễn Khoa Điềm đã chiêm nghiệm là lựa chọn những chi tiết, hình ảnh hết sức thân thuộc, trong đời sống gia đình, đời sống lao động hàng ngày, trong câu chuyện cổ tích và tình cảm giữa những người thân yêu nhất. Từ cội nguồn sâu thẳm của quá trình sinh ra, lớn lên và phát triển, đất nước đã gắn liền với nhân dân. Do đó, tư tưởng mà chín dòng thơ thể hiện là tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" – tư tưởng chủ đạo của đoạn trích, đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật tác phẩm. Tư tưởng này không phải đến Nguyễn Khoa Điềm mới có mà đã có một quá trình dài được khẳng định trong lịch sử văn học dân tộc. Tuy nhiên, để tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm mọi biểu hiện tinh tế nhất của hình tượng Đất Nước, lại được cảm nhận một cách toàn diện sâu sắc trên nhiều bình diện, thì đóng góp đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm thực sự là một viên ngọc sáng. Thành công khi thể hiện tư tưởng của nhân dân là Nguyễn Khoa Điềm đã lựa chọn cho mình chất liệu văn hóa phù hợp đó là chất liệu văn hóa dân gian. Vẫn biết rằng chất liệu thuộc hình thức nghệ thuật của một bài thơ mà nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ còn trái tim là nghệ sĩ. Tuy nhiên, việc thể hiện tiếng nói của trái tim là rất quan trọng. Văn hóa dân gian trong tác phẩm nói chung và trong đoạn trích nói riêng là những câu tục ngữ ca dao, những làn điệu dân ca, những câu hò sông nước, những câu chuyện cổ tích, những phong tục tập quán mà Nguyễn Khoa Điềm đã chiêm nghiệm và chọn lọc dựa trên vốn hiểu biết am tường và sâu rộng. Đúng như Diệp Tiếp khẳng định: "Thơ là tiếng lòng". Tiếng lòng của thơ thật sự có ý nghĩa khi nó là lời nói chân thành, đằm thắm. Tiếng lòng ấy đủ sức lan tỏa, đồng điệu với lòng người nhịp bước theo tháng năm. Chính tiếng lòng của một trái tim yêu nước bỏng cháy nên Nguyễn Khoa Điềm đã có những vẫn thơ có sức lay động đến trái tim, thức tỉnh nhận thức của nhiều người để nhận ra vẻ đẹp bình diij mà cao đẹp của đất nước, để họ xuống đường đấu tranh với tinh thần phơi phới: "Xẻ dọc Trường Sơn, đi cứu nước Mà lòng phơi phới dậy tương lai!" (Theo chân Bác – Tố Hữu) Từ đây, ta mới thấm thía sức mạnh của thơ ca, của nghệ thuật chân chính. Sức mạnh đó chỉ có thể phát huy tối đa khi nó là tiếng lòng chân thành, tha thiết; nó chỉ có thể chạm được vào trái tim khi nó được xuất phát từ trái tim. Chính vì thế, tiếng nói từ trái tim bao giờ cũng là những lời ca tuyệt diệu nhất. Nói tóm lại, chỉ bằng chín câu thơ đầu trong đoạn trích "Đất Nước" của trường ca "Mặt đường khát vọng" là sự khẳng định về một tư tưởng mới mẻ "Đất Nước là của nhân dân", là lý giải hoàn hảo cho những thắc mắc của độc giả về câu hỏi: "Đất Nước có từ bao giờ và đất nước là của ai?" Một cách cắt nghĩa, giải thích đầy mới mẻ. Chẳng phải nơi chúng ta đang sống, mọi thứ quanh mình, đều là những gì thuộc về đất nước hay sao? Từ những hình ảnh thực tế của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước. Nhà văn cũng muốn khắc sâu vào từng trái tim, từng tâm hồn người đọc về ý thức được về đất nước, sự tồn tại của đất nước khiến mỗi chúng ta phải ý thức được về việc phải có trách nghiệm bảo vệ lão thổ, bảo vệ bờ cõi đất nước. Dù ta là ai, chỉ cần ta sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, trái tim sẽ mãi luôn nhớ, ta lại thấy thấm thía những vần thơ trong "Sao chiến thắng" của Chế Lan Viên: "Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng Ôi Tổ quốc nếu cần ta phải chết Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông."