Đạo mẫu: Lên đồng, hầu đồng, căn cô căn cậu là gì?

Thảo luận trong 'Cuộc Sống' bắt đầu bởi Admin, 28 Tháng tư 2016.

  1. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,095
    Cho các bạn thích tìm hiểu về văn hóa tâm linh của người Việt.

    Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam, thờ các nữ thần - thường gọi là các Thánh Mẫu. Đạo Mẫu là một phần quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng dân gian và bản sắc dân tộc của Việt Nam. Đạo Mẫu được thờ tại các đền, phủ. Đặc biệt ở miền Bắc Việt Nam, hầu hết các chùa đều có bàn thờ Mẫu - Tiền Phật, hậu Mẫu.

    I. Lịch sử và phát triển

    Nguồn gốc lịch sử của đạo Mẫu không được ghi lại rõ ràng trong sử sách. Có người cho rằng đạo Mẫu có nguồn gốc từ thời tiền sử, khi người Việt thờ các thần linh thiên nhiên, các thần linh này được kết hợp lại trong khái niệm Thánh Mẫu hay Nữ thần Mẹ. Theo thời gian, khái niệm Thánh Mẫu được mở rộng để bao hàm cả các nữ anh hùng trong dân gian những người phụ nữ có thật nổi lên trong lịch sử với vai trò người bảo hộ hoặc trị bệnh. Những nhân vật lịch sử này được kính trọng, tôn thờ, và cuối cùng được thần thánh hóa để thành một trong các hiện thân của Thánh Mẫu.

    Theo GS. TS Ngô Đức Thịnh phân chia sự phát triển của đạo Mẫu thành các giai đoạn:

    1. Thờ các nữ thần thiên nhiên riêng biệt. Các nữ thần này là các tinh thần thiên nhiên và không có đặc điểm của con người, đặc biệt là đặc điểm của người mẹ.

    2. Thờ các Thánh Mẫu. Các nữ thần này đã có đặc điểm của người mẹ. Ví dụ Mẹ Âu Cơ, mẹ của dân tộc Việt.

    3. Thờ Thánh Mẫu tam phủ - tứ phủ. 3 hay 4 phủ ở đây không phải là số đơn vị xây dựng như mà là 3 hay 4 thành tố của vũ trụ:

    Thiên Phủ - Trời,

    Địa Phủ - Đất,

    Thuỷ Phủ hay còn gọi là Thoải Phủ - Nước,

    Nhạc Phủ - Núi rừng.

    [​IMG]

    II. Nghi lễ thờ cúng

    Các vị thần trong đạo Mẫu phản ánh các phẩm chất của một người Mẹ vừa thần thánh lại vừa con người. Đạo Mẫu không chú trọng vào cuộc sống sau khi chết, nó quan tâm đến cuộc sống hiện tại và câu hỏi làm thế nào để người ta có thể đạt được một cuộc sống hạnh phúc và đầy đủ trên trần gian. Điều này được thể hiện trong các cầu nguyện và kinh lễ. Các bài kinh lễ là các bài hát về nhiều điều mà người ta mong muốn trong cuộc sống hàng ngày: Thời tiết tốt cho mùa màng, sức khỏe cho mọi người, hạnh phúc, tiền tài, v. V.. Nội dung của các bài kinh lễ đơn giản và dễ hiểu, điều này rất khác so với nội dung kinh lễ các tôn giáo khác như Phật giáo hay Kitô giáo.

    Đạo Mẫu có các nghi lễ tổ chức theo Âm lịch với các tín đồ và nhiều người đi lễ tham gia. Các nghi thức hành lễ không được đào tạo chính thức mà chủ yếu được truyền khẩu từ đời này qua đời khác. Nghi lễ phổ biến nhất là lên đồng - hay còn gọi là hầu bóng. Trong nghi lễ này, người ta tin rằng linh hồn của các vị thần sẽ nhập vào người lên đồng, linh hồn này được vời đến để nghe lời cầu nguyện của người đi lễ. Trong các nghi lễ, phụ nữ thường đóng vai trò chính, người lên đồng cũng thường là phụ nữ - bà cốt, đôi khi mới do nam giới đảm nhận - ông đồng.

    Các giá đồng - các điệu múa linh thiêng - là một phần quan trọng của nghi lễ.

    Có 72 giá đồng, bao gồm giá các quan lớn, giá các cậu, giá chầu bà, giá các cô..

    Trong buổi lễ, các giá đồng được biểu diễn cùng với hát văn - hay chầu văn. Hát văn là một thể loại hát nói vừa hát vừa nói. Hát văn do người đồng biểu diễn cùng với dàn nhạc cung văn. Người ta nói rằng, chầu văn tạo nên một khung cảnh và âm nhạc tâm linh để giúp cho người đồng nhập vào vai mới và gắn kết với những con người và nơi chốn ở bên ngoài thế giới địa phương của họ.

    Đạo Mẫu có hai dịp lễ hội quan trọng:

    Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ

    Kỷ niệm ngày mất của Đức thánh Trần - Cha và Liễu Hạnh Công chúa - Mẹ.

    Ngoài ra, người đi lễ có thể đến các phủ đền vào các ngày mùng Một hoặc ngày Rằm âm lịch hàng tháng, dâng đồ cúng lễ để tạ ơn và cầu khấn.

    Thánh Mẫu Liễu Hạnh - Liễu Hạnh Công chúa:

    Thánh Mẫu Liễu Hạnh được cho là công chúa của Ngọc Hoàng Thượng đế, do lỡ tay làm vỡ chén ngọc mà bị đày xuống trần làm con gái nhà họ Lê - ở Phủ Giầy thuộc tỉnh Nam Định vào năm 1557. Dưới trần thế, bà có cuộc sống ngắn ngủi, lấy chồng và sinh con năm 18 tuổi và chết năm 21 tuổi. Do bà yêu cuộc sống trần tục nên Ngọc Hoàng cho bà tái sinh lần nữa. Trong kiếp mới, bà du ngoạn khắp đất nước, thưởng ngoạn phong cảnh thiên nhiên, gặp gỡ nhiều người. Bà thực hiện nhiều phép mầu, giúp dân chống quân xâm lược. Bà trở thành một lãnh tụ của nhân dân và thậm chí bà còn tranh đấu với vua chúa. Do đức hạnh của bà, nhân dân đã lập đền thờ bà ở nhiều nơi như: Phủ Giầy, phủ Tây Hồ, Đền Sòng..

    Bà đã được thánh hóa và trở thành một vị Thánh Mẫu quan trọng nhất và một hình ảnh mẫu mực cho phụ nữ Việt Nam. Cho dù cuộc đời của bà được giải nghĩa theo cách nào, Liễu Hạnh đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh của phụ nữ. Bà tách mình ra khỏi Khổng giáo với quan niệm trọng nam khinh nữ. Bà nhấn mạnh vào hạnh phúc, quyền tự do đi lại và độc lập tư tưởng. Vừa được kính sợ vừa được yêu mến, các nguyên tắc của bà về trừng phạt kẻ xấu và ban thưởng người tốt cũng đã gửi một thông điệp về sự bảo vệ và hy vọng vào công bằng xã hội cho nhân dân trong thời loạn lạc của các thế kỷ 17-19. Vừa là thần tiên vừa là người (con gái, vợ, mẹ), Liễu Hạnh chia sẻ vui buồn với những người trần tục. Bà được coi là vị thần cảm thông và độ lượng nhất. Bà trở thành một trong các vị thần của Đạo Mẫu và nhanh chóng được nâng lên vị trí quan trọng nhất, cai trị các vị thần ở dưới và thế giới con người.

    III. Các vị thần khác của đạo Mẫu

    Trong các đền thờ của Đạo Mẫu có nhiều vị thần được sắp xếp theo các thứ bậc. Đầu tiên là Ngọc Hoàng. Đây là vị thần tối cao và được đặt ở vị trí danh dự, nhưng lại ít được thờ cúng. Vị thần cao nhất của Đạo Mẫu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Các vị khác được đặt tại các ban thờ tam phủ hoặc tứ phủ. Các Chư Linh của ban Tứ Phủ được phân chia như dưới đây:

    1. Bảo Dân Hộ Quốc Thánh Mẫu.

    • Mẫu Âu Cơ - Thiên Phủ & Nhạc Phủ

    • Mẫu Đệ Nhất. Danh hiệu: Mẫu Liễu Hạnh - Thiên Phủ

    • Mẫu Đệ Nhị. Danh hiệu: Mẫu Thượng Ngàn - Nhạc Phủ

    • Mẫu Đệ Tam. Danh hiệu: Mẫu Thoải - Thoải Phủ

    • Mẫu Đệ Tứ. Danh hiệu: Lê Mại Đại Vương - Địa Phủ

    2. Phụ Vương Đại Thánh.

    • Lạc Long Quân - Thoải Phủ

    • Bát Hải Long Vương. Danh hiệu: Vua Cha - Thoải Phủ

    3. Trần Triều Hiển Thánh

    • Đức Thánh Trần. Danh hiệu: Trần Quốc Tuấn. Trần Hưng Đạo - Tiết chế quốc công Hưng Đạo Đại vương

    • Đệ Tam Ông Cửa Suốt - Con trai thứ ba của Hưng Đạo Vương

    • Đệ Nhất Vuong Cô - Con gái thứ nhất của Hưng Đạo Vương

    • Đệ Nhị Vương Cô - Con gái thứ hai của Hưng Đạo Vương

    • Đức Thánh Phạm. Danh hiệu: Phạm Ngũ Lão - Con rể của Hưng Đạo Vương

    • Cô Bé Cửa Suốt -cháu gái của Hưng Đạo Vương

    • Cậu Bé Cửa Đông-cháu trai của Hưng Đạo Vương

    Trần Hưng Đạo là danh tướng thời nhà Trần và cũng là danh tướng trong lịch sử Việt Nam, có công lớn trong hai lần kháng chiến chống Nguyên Mông. Ông cũng là tác giả của bộ "Binh thư yếu lược" hay "Binh gia diệu lý yếu lược" và "Vạn Kiếp tông bí truyền thư" đã thất lạc. Ông còn được người dân Việt tôn sùng như bậc thánh, được gọi là Đức thánh Trần. Trần Quốc Tuấn, quê ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Năm sinh của ông không rõ ràng, có tài liệu cho là năm 1228, có tài liệu thì cho là năm 1230 hay 1232. Ông có vốn tài quân sự, lại là tông thất nhà Trần, do đó trong cả 3 lần quân Nguyên - Mông tấn công Đại Việt, ông đều được vua Trần cử làm tướng chống trận. Đặc biệt ở kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi giặc ra khỏi nước, được phong tước Hưng Đạo Vương. Ông mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (tức ngày 5 tháng 9 năm 1300), thọ trên dưới 70 tuổi. Nhân dân đương thời lập đền thờ ông gọi là Đền Kiếp Bạc. Và sùng kính phong Thánh. Trần Hưng Đạo được thờ phụng ở nhiều nơi, lễ hội lớn nhất hàng năm được tổ chức ở đền Kiếp Bạc thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương vào ngày 20 tháng 8 âm lịch hàng năm.

    4. Các Vị Chúa Mường

    Là các vị Chúa Bà chuyên về đáp giải bói bốc. Nếu chỉ tính ba vị Chúa Bói thì gọi là "Tam Tòa Chúa Bói."

    • Chúa Đệ Nhất Tây Thiên - Thiên Phủ & Nhạc Phủ

    • Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ - Nhạc Phủ

    • Chúa Đệ Tam Lâm Thao - Thoải Phủ & Nhạc Phủ

    • Chúa Cà Phê - Địa Phủ & Nhạc Phủ

    • Chúa Ngũ Hành Ngũ Phương - Nhạc Phủ

    • Chúa Long Giao - Nhạc Phủ

    • Chúa Thác Bờ - Thoải Phủ & Nhạc Phủ

    • Chúa Mọi - Nhạc Phủ

    5. Ngũ Vị Tôn Quan

    Trách nhiệm của ngũ vị này là giáng vào thanh đồng để bắt đầu "mở phủ" cho các giá đồng sau được theo vào người đồng.

    • Quan Đệ Nhất quyền cai Thiên Phủ trên trời, theo thần thoại là thần làm mưa làm gió, và cũng là Quan Lớn ở trong cung điện Ngọc Hoàng. Mặc bào mầu đỏ.

    • Quan Đệ Nhị - Quan Giám Sát ngày cúng của Đức Giám Sát là Âm Lịch mùng Ba tháng Ba. Châu văn ràng:

    Quyền cai rừng núi Lâm Cung, lên rừng suống biển tâu về Bát Hải Long Vương. Lúc đánh trận cho nhà vua thánh, Ông Quan là vị giám sát trước để đánh thuận xông pha. Mặc bào mầu xanh lá cây. Lúc lên giá này, ông cầm khăn phủ diện để minh giám hoàn cảnh.

    • Quan Đệ Tam - Quan Tam Phủ là con vua Bát Hải Long Vương, ra trận cầm đối đao vệ dân hộ quốc. Mặc bào mầu trắng. Lúc lên giá này, ông cầm đôi bạch kiếm đi xông pha quỉ thế tà giới.

    • Quan Đệ Tứ - Quan Khâm Sai là một ông quan Địa Linh quyền cai đất bằng. Ông có trách nhiệm đi khâm sai các vùng các dân, giữ an lành của nước Việt. Mặc bào mầu vàng.

    • Quan Đệ Ngũ - Quan Tuần Tranh là một ông Quan anh hùng hào kiệt có kể là tướng đi tuần ở Sông Tranh. Mặc bào mầu xanh biển. Lúc lên giá này, ông cầm cái thanh long đao to như của ông Quan Công của thời Tam Quốc.

    6. Lục Phủ Tôn Ông

    • Đệ Nhất Vương Quan. Danh hiệu: Quan Điều Thất

    • Đệ Nhị Vương Quan. Danh hiệu: Quan Hoàng Triệu

    7. Tứ Phủ Chầu Bà

    • Chầu Đệ Nhất - Thiên Phủ

    • Chầu Đệ Nhị - Nhạc Phủ. Danh hiệu: Ngôi Kiều Công Chúa

    • Chầu Đệ Tam - Thoải Phủ. Danh hiệu: Thuỷ Điện Công Chúa

    • Chầu Thác Bờ - Thoải Phủ & Nhạc Phủ. Có người hầu là giá thứ ba, tức là Chầu Đệ Tam, Bà chúa Thác Bờ

    • Chầu Đệ Tứ - Địa Phủ. Danh hiệu: Chiêu Dung Công Chúa

    Đình Cốc Thượng là nơi tôn thờ Chiêu Dung công chúa Lý Thị Ngọc Ba, đã có công với dân, với nước. Bà đã cùng Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh tan quân xâm lược Nam Hán phương Bắc, đem lại thái bình cho dân tộc vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên (năm 40)

    • Chầu Năm - Nhạc Phủ. Danh hiệu: Suối Lân Công Chúa

    • Chầu Ngũ Phương Có người hầu giá này thay vào Chầu Năm, tức là Chúa Ngũ Hành Ngũ Phương

    • Chầu Lục - Nhạc Phủ. Danh hiệu: Lục Cung Công Chúa

    • Chầu Bẩy - Nhạc Phủ. Danh hiệu: Tân La Công Chúa

    • Chầu Tám - Nhạc Phủ. Danh hiệu: Nữ Tướng Bát Nàn

    Bà họ Vũ, ở làng Phượng Lâu, huyện Kim Động, trấn Sơn Nam nay thuộc tỉnh Hưng Yên. Thân phụ của bà là thầy thuốc làm nhiều việc phước đức. Bà nổi tiếng là phụ nữ xinh đẹp và giỏi võ nghệ.

    • Chầu Chín Cửu Tỉnh ở Bỉm Sơn Thanh Hóa

    • Chầu Mười - Nhạc Phủ. Danh hiệu: Nữ Tướng Đồng Mỏ Chi Lăng

    • Chầu Mười Một

    • Chầu Bé - Nhạc Phủ. Danh hiệu: Bắc Lệ Công Chúa

    8. Chầu Bà Ngũ Hành

    • Đệ Nhất Chầu Bà Kim Tinh Thần Nữ

    • Đệ Nhị Chầu Bà Mộc Tinh Thần Nữ

    • Đệ Tam Chầu Bà Thuỷ Tinh Thần Nữ

    • Đệ Tứ Chầu Bà Hỏa Phong Thần Nữ

    • Đệ Ngũ Chầu Bà Thổ Đức Thần Nữ

    9. Thập Vị Thủy Tế

    • Ông Hoàng Cả - Thiên Phủ. Danh hiệu: Ông Hoàng Quận/Lê Lợi

    • Ông Hoàng Đôi - Nhạc Phủ

    • Ông Hoàng Bơ - Thoải Phủ

    • Ông Hoàng Đệ Tứ - Địa Phủ. Danh hiệu: Ông Hoàng Khâm Sai

    • Ông Hoàng Năm

    • Ông Hoàng Sáu

    • Ông Hoàng Bảy - Nhạc Phủ. Danh hiệu: Ông Bảo Hà

    • Ông Hoàng Bát - Nhạc Phủ. Danh hiệu: Ông Bát Quốc, là một ông quan gốc người Hán đóng quân ở Lào Cai

    • Ông Hoàng Chín - Thiên Phủ. Danh hiệu: Ông Cờn Môn

    • Ông Chín Thượng - Nhạc Phủ

    • Ông Hoàng Mười - Địa Phủ. Danh hiệu: Ông Nghệ An, có công chống giặc Thanh từ bên TQ

    10. Tứ Phủ Tiên Cô

    • Cô Đệ Nhất Thượng Thiên (Thiên Phủ)

    • Cô Đệ Nhất Thượng Ngàn (Nhạc Phủ)

    • Cô Đôi Thượng (Nhạc Phủ)

    • Cô Đôi Cam Đường (Nhạc Phủ) quê cô ỏ Đình Bảng Bắc Ninh nhưng cô Hiển Thánh ở Cam Đường Lào Cai

    • Cô Bơ Hàn Sơn (Thoải Phủ) tức là Cô Ba Bông & Cô Ba Tây Hồ

    • Cô Tư (Địa Phủ)

    • Cô năm Suối Lân (Nhạc Phủ)

    • Cô sáu Sơn Trang (Nhạc Phủ)

    • Cô bảy Tiên la (Nhạc Phủ)

    • Cô Tám đồi chè (Nhạc Phủ) ở đền Phong Mục

    • Cô Chín Sòng Sơn (Thiên Phủ)

    • Cô Chín Thượng (Nhạc Phủ)

    • Cô Chín Thoải (Thoải Phủ)

    • Cô Mười Đồng Mỏ (Nhạc Phủ)

    • Cô Bé Đông Cuông (Nhạc Phủ)

    • Cô Bé Suối Ngang (Nhạc Phủ)

    • Cô Bé Thác Bờ (Thoải Phủ)

    • Cô Bé Thoải (Thoải Phủ)

    • Cô Bé Đen (Nhạc Phủ) tức là Cô Bé Sóc

    11. Thập Vị Triều Cậu

    • Cậu Hoàng Cả (Thiên Phủ)

    • Cậu Hoàng Đôi (Nhạc Phủ)

    • Cậu Hoàng Bơ (Thoải Phủ)

    • Cậu Hoàng Bé (Nhạc Phủ)

    12. Quan Ngũ Hổ

    • Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Thanh Hổ Thần Quan

    • Nam Phuong Bính Đinh Hỏa Đức Xích Hổ Thần Quan

    • Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Hoàng Hổ Thần Quan

    • Tay Phuong Canh Thân Kim Đức Bạch Hổ Thần Quan

    • Bắc Phuong Nhâm Quý Thuỷ Đức Hắc Hổ Thần Quan

    13. Ông Lốt

    • Thanh Xà Đại Tướng Quân

    Xem tiếp bên dưới..
     
    Thùy MinhÁnh Trăng Sáng thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 16 Tháng tám 2021
  2. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,095
    Căn đồng là gì?

    Căn đồng là một hiện tượng được rất nhiều người quan tâm nhưng không phải ai cũng hiểu, cũng biết một cách thấu đáo. Chính vì không hiểu nên nhiều người vẫn bị lừa phỉnh, mê muội trong tâm linh, dẫn đến hao tiền tốn của, mất thời gian, tự mua dây buộc mình. Bài viết sau đây được tổng hợp từ nhiều ý kiến, tuy không dám nói rằng đã đầy đủ và chính xác về căn đồng nhưng chỉ mong mang đến cho độc giả một góc độ cụ thể hơn về căn đồng để từ đó có cái nhìn đúng đắn và phương thức hành xử hợp lý trong đời sống tâm linh của mình.

    Trong các tôn giáo, tín ngưỡng phổ biến trên thế giới, Đạo Thiên Chúa có hình thức hành lễ long trọng kèm theo âm nhạc, hát đồng ca trong nhà thờ với dàn đại phong cầm hết sức tuyệt vời, tạo ra không khí trang nghiêm, thành kính. Ở Việt Nam có tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ Đức Thánh Trần với tập tục hầu bóng, lên đồng, kèm theo các động tác múa đặc trưng của từng vị Thánh nhập đồng, thực hiện nghi lễ trong môi trường âm nhạc, ca hát tưng bừng. Trong môi trường hành lễ trang nghiêm và tâm linh như vậy, người có hệ thần kinh yếu rất dễ chịu tác động của không khí buổi lễ, dẫn đến làm thay đổi thần thức, cảm giác hòa nhập với không khí linh thiêng thần thánh. Trong cuộc sống thường nhật, những người như vậy cũng thỉnh thoảng hay rơi vào cảm giác ảo, mơ thấy thần thánh, thân mình bay bổng.. Về mặt Thần kinh học, người ta cho rằng những người đó có hệ thần kinh yếu, dễ xúc cảm. Khi có tác động bên ngoài, tâm thức những người đó có xu hướng hòa nhập với môi trường.

    Khi lễ hầu bóng diễn ra ở các đền, phủ, điện, trong không khí đàn ca, trống phách, múa hát tưng bừng, mùi nhang khói kích thích, một số ít người tham gia hành lễ có cảm giác thấy lâng lâng, phiêu phiêu, bay bổng, thần thức hòa nhập với không khí lễ hội múa hát khi Thánh giáng vào người con đồng. Đặc biệt, trong môi trường thực hành nghi lễ tâm linh, yếu tố âm nhạc, ca múa hát, mùi nhang khói, lời lẽ và âm thanh khấn vái.. có tác dụng rất mạnh. Nếu người hầu đồng có hệ thần kinh như vậy, việc hòa nhập tâm linh trong trạng thái Thánh giáng là điều tất yếu.

    Người ta gọi hiện tượng trên là "Ốp đồng". Người rơi vào trạng thái trên gọi là người bị ốp đồng. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ Đức Thánh Trần, những người như vậy được cư dân tín ngưỡng gọi là NGƯỜI CÓ CĂN ĐỒNG. Căn đồng là một hiện tượng được nhiều người quan tâm nhưng không phải ai muốn là có căn. Người ngồi hầu Thánh có cảm giác hào hứng, hòa nhập lễ nghi tâm linh khi thực hành nghi lễ hầu bóng cũng chưa phải là người có căn đồng. Chỉ có những người có hệ thần kinh yếu ở mức độ nào đó khi đi lễ đền, phủ mới bị hiện tượng ốp đồng và người ta gọi họ là những người căn cao, số nặng, là người có duyên (có căn) với các vị Thánh trong Tứ phủ.

    Theo tín ngưỡng thờ Mẫu, người có căn đồng là người sinh dương thế nhưng số hệ thiên cung, mệnh càn bóng quế, con cái của cửa Tứ phủ công đồng. Tín ngưỡng thờ Tứ phủ cho rằng, người có căn đồng là người đã được các Thánh chấm, không sớm thì muộn, tùy theo căn số của từng người sẽ được Thánh bắt đi lính làm đồng. Nếu không trình diện để hầu sẽ bị các Thánh hành hạ. Lắm người căn cao số nặng ấy, vì không biết đến cửa Thánh để kêu, để cầu nên bị hành cho đủ các kiểu: Ốm đau bệnh tật nhưng đi chữa không khỏi vì không biết là mình bị bệnh gì, bị hành cho dở dại dở điên, công danh sự nghiệp lận đận, nhân duyên khó thành.. Nhưng nếu mình biết đến cửa Thánh, cúi đầu đội lệnh, chẳng dám đơn sai thì mọi việc sẽ khác hẳn, bệnh hết, mạnh khỏe, bình an, công thành danh toại.

    Tóm lại, người có căn đồng trước sau gì cũng phải ra trình diện, làm ghế ngồi cho Thánh, tức là phải hành lễ trình đồng, mở phủ. Nếu không có căn đồng mà nghe lời phán bảo linh tinh rồi ra lễ trình đồng, mở phủ thì chỉ tốn tiền và thời gian, tự mua dây trói mình vì buộc phải theo đền, phủ suốt đời. Nếu bỏ cuộc sẽ bị Thánh trách quở; mọi khó khăn bất trắc trong cuộc sống sẽ được qui cho là tại vì Thánh phạt.

    Vậy làm sao biết được căn mệnh của mình là gì để tránh được những điều đáng tiếc có thể xảy ra? Ai có thể xác định được được căn số trong mỗi con người? Nhiều người chỉ nghe thầy tứ phủ phán bảo về căn số của mình, rằng có căn với Quan lớn này, Cô, Cậu nọ rồi phải đăng đàn làm lễ trình đồng, mở phủ, tự mình gây không ít khó khăn cho mình và hao tiền tốn của. Người ta cho rằng có nhiều cách để biết được căn số của mình. Ví dụ: Được các ngài báo mộng; được các ngài về ốp đồng khi mình tham gia hành lễ trình đồng; khi hầu bóng mà mình luôn thích xem và say mê về giá đó; hoặc có thể là do xem bói mà biết được. Nhưng xem bói phải hết sức lưu ý, không phải thầy nói gì mình cũng tin, vì bây giờ cũng lắm thầy làm vì tiền hơn là làm vì tâm để cứu thế độ dân. Đây là một vấn đề hết sức khó khăn nhưng không phải không có đường thoát, đó là nhờ lập Bát tự để tìm hiểu căn số của mình. Đương nhiên người lập Bát tự phải hết sức am hiểu và giỏi Dịch lý. Hơn nữa, người có căn hay không cũng có thể tự nhận biết qua các hiện tượng trên. Tuy nhiên, cần lưu ý phải khẳng định người có căn đồng là những người mạnh khoẻ, có thể chất, tinh thần và tâm lý hoàn toàn khác với người bị bệnh tâm thần phân liệt.

    Nếu phải ra trình đồng, mở phủ, ai là người có thể giúp được người có căn đồng thực hành nghi lễ trong khi xã hội trắng đen lẫn lộn đồng giả, đồng thật này? Bây giờ tìm được một Đồng thầy thật sự khó lắm.

    Nếu người có căn đồng không nặng lắm có thể làm lễ tôn lô nhang bản mệnh; nếu chưa đạt yêu cầu thì phải làm lễ trình đồng, mở phủ chính thức thành con dân hầu Thánh, bắc ghế cha ngồi, bắc ngôi mẹ ngự, thành ghế đệm cho Thánh ngự. Muốn làm lễ bốc bát nhang bản mệnh, trước hết người có căn đồng nên chọn một Đồng thầy thật sự, thông thạo việc Thánh. Lễ phải được tiến hành theo đúng trình tự, đúng phép cửa Thánh, có dâng sớ, điệp văn, phẩm vật và đồ mã tiến cúng. Về nguyên tắc, bốc bát nhang ở đền, phủ, điện nào là mình đã trở thành con nhang đệ tử của nơi đó. Các ngày lễ tiệc, đầu năm, cuối năm phải đi lễ đầy đủ ở đó thì mới tốt. Nếu vì lý do nào đó mà tạm thời đi các đền, phủ khác để thực hành nghi lễ thì phải xin và được sự đồng ý của Đồng thầy.

    Nếu nặng căn quá mà mình chưa có điều kiện để ra trình đồng, mở phủ, thì có thể lập đàn để xin tiễn căn khất đồng. Nếu vì công danh, sự nghiệp.. mà chưa trình đồng, mở phủ thì phải xin khất vì chưa lo liệu được việc Thánh. Cần nhớ đây là lễ xin khất chứ không phải xin từ bỏ căn vì người có căn trước sau gì cũng phải đến hầu Thánh mới yên. Người ta nói người có căn đồng không chống lại được số mệnh gắn bó với Thánh. Quan trọng là người có căn phải nhất tâm tin tưởng thì mới thành công và yên ổn trong vạn sự.

    Lên đồng là gì?

    Lên đồng hay còn gọi là hầu đồng, hầu bóng, đồng bóng là một nghi thức trong hoạt động tín ngưỡng dân gian (dòng Saman giáo) của nhiều dân tộc, trong đó có tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Về bản chất, đây là nghi thức giao tiếp với thần linh thông qua các tín đồ Saman giáo (ông đồng, bà đồng). Người ta tin rằng các vị thần linh có thể nhập hồn vào thân xác các ông đồng, bà đồng nhằm phán truyền, diệt trừ tà ma, chữa bệnh, ban phúc, ban lộc cho các con nhang, đệ tử. Khi thần linh nhập vào đồng thì lúc đó các ông đồng, bà đồng không còn là mình nữa mà là hiện thân của vị thần nhập vào họ.

    Ở Việt Nam, lên đồng là nghi thức không thể thiếu trong các thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, (Được gọi là Thanh Đồng).. Về hình thức, nghi thức lên đồng hầu về Hội Đồng Thánh Trần mang tính saman nặng hơn khi lên đồng hầu về Tứ Phủ bởi hầu về Hội Đồng Thánh Trần có các hành động trực tiếp lên thể xác Thanh Đồng (người ở ngoài nhìn đôi khi thấy sợ) như đi trên than hồng, xiên lình (dùng thanh sắt sắc nhọn đâm xuyên vào hai má và miệng thanh đồng), ăn lửa, lên đai (1 hình thức thắt cổ, có người được gọi là sát căn, có khi lên 3 đai)..

    Người đứng giá hầu đồng gọi chung là Thanh Đồng, Thanh Đồng là nam giới thì được gọi là "cậu", nữ giới được gọi là "Cô hoặc Bà Đồng". "Cậu" thường mặc bộ quần áo lụa, mặt tô son điểm phấn (tóc có thể để dài như con gái). Thường có hai hoặc bốn phụ đồng (được gọi là nhị trụ hoặc tứ trụ hầu dâng) đi theo Thanh Đồng để chuẩn bị trang phục, lễ lạt.. Trong một buổi lên đồng thì có rất nhiều "giá". Mỗi lần thay giá, người ta lại phủ lên "cậu" một tấm khăn lụa đỏ, sau đó bỏ ra và lúc này Thanh Đồng đang ở một "giá" mới và phải thay bộ trang phục xống áo, khăn chầu, cờ quạt, đồ hầu dâng.. sao cho tương xứng với "giá" này. Khi thì Thanh Đồng hóa thân thành một vị tướng, khi thì là một quan lớn uy nghiêm oai vệ, lúc lại hóa thân thành một cô gái đang tung tăng nhảy múa.. Điệu múa của Thanh Đồng cũng được thay đổi theo đặc điểm của "giá". "Giá" quan thường múa cờ, múa kiếm, long đao, kích; giá các chầu bà thì múa quạt, múa mồi, múa tay không; giá ông hoàng thì có múa khăn tấu, múa tay không, múa cờ ; giá các cô múa quạt, múa hoa, chèo đò, múa thêu thùa, múa khăn lụa, múa đàn, múa tay không; giá các cậu thường múa hèo, múa lân.. Nghi lễ Thánh giáng phải theo thứ tự từ cao đến thấp từ Thánh Mẫu đến hàng Quan, Chầu, ông Hoàng, hàng Cô và Cậu. Số lượng giá trong một buổi lên đồng có khi lên tới 36 giá.

    Trong lúc Thanh Đồng đang hóa thân thì bốn phụ đồng ngồi quỳ chân ở dưới cũng nghiêng ngả và múa may hưởng ứng Thanh Đồng theo nhịp câu hát. Những nắm tiền lẻ sau khi được Thanh Đồng tung ra, ban phát cho những người xung quanh được coi là tiền lộc và được những người dứng xem xung quanh nhặt lấy cất giữ để lấy may. Nhạc hát thông thường là điệu chầu văn hoặc là hát nói có nội dung ca ngợi sự linh thiêng của thần thánh và vẻ đẹp tiên giới. Nhạc khí chủ đạo là đàn nguyệt, bên cạnh nó là phách, cảnh, sênh, trống chầu, chuông, trống.. Ở miền Bắc Việt Nam có Phủ Giầy là noi hay tổ chức lên đồng nhiều nhất.

    Với các giá ông Hoàng thì nhóm đàn hát (được gọi là "Cung văn") sẽ ngâm các bài thơ cổ. Lúc này, Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác thưởng tiền cho Cung văn và dùng những thứ người hầu đồng dâng như: Rượu, thuốc lá, trầu nước.. Tới giai đoạn cao trào của Thánh thì người đứng giá thường múa gươm hoặc bơi thuyền. Do vậy, ở Việt Nam có câu hát "cậu bắn súng lục, cô bơi thuyền rồng" là để chỉ sự này.

    Một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có nghi thức giao tiếp với thần linh như tín ngưỡng Mỡi của người Mường, tín ngưỡng Then của người Tày, Nùng. Tuy nhiên, khác với nghi thức lên đồng của người Việt, sự giao tiếp với thần linh ở Mỡi và Then chủ yếu thông qua hình thức xuất hồn, tức là các ông Mỡi, bà Then có khả năng thoát hồn khỏi xác bay đi gặp gỡ, cầu xin thần linh phù hộ cho dân chúng.

    Ngày nay, lên đồng vẫn còn là nhu cầu tâm linh, là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của một bộ phận người Việt. Các nghi lễ này thường được tổ chức nhiều lần trong một năm vào các dịp lễ tiết, thường là tại các lễ hội đền thánh, phủ mẫu.. Ngoài việc lên đồng để giao tiếp với thần linh, truyền thống tín ngưỡng Việt Nam còn tin tưởng rằng sau khi chết, linh hồn người chết vẫn còn và theo dõi cuộc sống của người thân đang sống. Do đó, khi lên đồng, linh hồn của người chết có thể nhập vào đồng cô, đồng cậu (người gọi đồng) để trò chuyện với thân nhân đang sống. Thông qua cuộc trò chuyện âm-dương này, người sống sẽ biết được những yêu cầu của người thân quá cố về mỗ mả để điều chỉnh và cúng xin cho phù hợp. Đồng thời, thông qua cuộc đối thoại này, người sống cũng biết được vận mạng tương lai của mình.

    Tại Việt Nam hiện nay, hoạt động lên đồng bị chính quyền xem là hoạt động mê tín dị đoan do nhiều trường hợp việc lên đồng đã bị nhiều người lợi dụng vào mục đích xấu. Tuy nhiên, nhiều hội thảo khoa học nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian Việt Nam, trong đó có lên đồng đã được tổ chức, nhiều ấn phẩm của các học giả đã được xuất bản.
     
    Thùy MinhÁnh Trăng Sáng thích bài này.
  3. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,095
    Tham khảo

    Sau nhiều năm khảo sát và nghiên cứu hàng ngàn trường hợp áp vong, gọi hồn người đã khuất để tìm mộ liệt sĩ và mộ thất lạc qua những người có khả năng đặc biệt như cô Phương (Thanh Hóa), cô Thạo (Hải Phòng), cô Bằng (Hải Dương).. đã được Hội đồng khoa học Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người đánh giá có kết quả tốt. Để tiếp tục quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về sự tồn tại của vong linh con người trong cuộc sống có một sự kiện đáng lưu ý là có hay không vong linh của các bậc thần thánh trong đời sống văn hóa tâm linh. Để tìm hiểu và đánh giá vấn đề này, Bộ môn Cận Tâm Lý- Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các Hội khoa học- kỹ thuật Việt Nam tiếp tục đưa vào nghiên cứu Đạo Mẫu tứ phủ ở Việt Nam qua việc lên đồng và hầu đồng.

    1. Đạo thờ Mẫu:

    Trong tiến trình lịch sử dân tộc trải qua các thời kỳ Nho, Phật, Lão, cư dân nông nghiệp Việt Nam phát hiện ra rằng để sinh ra, lớn lên, tồn tại và phát triển không thể thiếu vị trí tối linh thiêng và chỉ có một không hai là Bà Mẹ - danh từ Hán Việt gọi là Mẫu. Từ đó có tên gọi Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu nghi thiên hạ, Mẫu Thượng ngàn (rừng xanh), Mẫu Thủy (sông dài biển rộng) đó là những hình tượng sinh động về Người Mẹ trong cuộc sống. Còn về cụ thể bằng xương thịt và có đời sống dân gian gần gũi với dân cư sông Hồng là hình ảnh Thánh Mẫu Liễu Hạnh – một trong tứ thánh bất tử của nền nếp đạo đức truyền thống của nền văn minh sông Hồng (Tản Viên, Chử Đồng Tử, Thánh Gióng, Bà Chúa Liễu) được tôn kính lập đền thờ khắp nơi, từ Bắc vào Nam, hình thành nên một nền nếp đạo đức truyền thống của văn minh sông Hồng trong quá trình tiếp nhận có chọn lọc nền văn minh Ấn Độ - Trung Hoa trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, đánh đuổi các loại kẻ thù xâm lược để tồn tại và phát triển với câu ngạn ngữ bất hủ "Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra", với đạo lý bất di bất dịch trong truyện cổ dân gian Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu: "Thà đui mà giữ đạo nhà, còn hơn có mắt ông cha không thờ".

    1. Mẫu Liễu Hạnh và đạo mẫu Việt Nam:

    Trong tâm thức dân gian Việt luôn khẳng định sự trường tồn bất tử của dân tộc, giống nòi. Từ huyền thoại cha Rồng mẹ Tiên đến Tứ thánh bất tử: Đánh giặc là Thánh Gióng; chống lại thiên nhiên là Thánh Tản Viên Sơn; tự do yêu đương tạo lập gia đình hạnh phúc và sinh cơ lập nghiệp, làm thuốc chữa bệnh đảm bảo cuộc sống là Thánh Chử Đồng Tử, bên cạnh ba biểu tượng ấy cần thêm một vị nữa để cho "Cõi Nam thiên bất hòa tư". Vị thánh ấy chính là Liễu Hạnh mà huyền thoại là người phụ nữ tiêu biểu có gốc là con gái nhà trời ba lần xuống trần. Lần thứ nhất đầu thai vào nhà họ Phạm đến 20 tuổi về trời. Lần thứ hai đầu thai làm con gái nhà Lê lấy chồng là con trai nhà Trần sinh được hai con. Đến năm 21 tuổi nhớ cha là Ngọc hoàng đã dặn chồng con ở lại còn mình thoát xác về trời. Lần thứ ba nhớ chồng con lại xin Ngọc hoàng cho xuống ngao du sơn thủy, giúp vua đánh giặc, dạy dân an cư lạc nghiệp. Lúc ở chùa Tiên (Lạng Sơn), lúc về Tây Hồ (Hà Nội) đàm đạo văn thơ với Trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan hoặc cùng hai thị nữ mở quán độ đường cho dân ở Sòng Sơn, Phố Cát (Thanh Hóa).

    Hình tượng Liễu Hạnh công chúa hiển thị một người phụ nữ trung, hiếu, tiết, nghĩa; một bà mẹ Việt Nam hoàn hảo sống mãi trong tâm thức dân gian, trở nên bất tử.

    Trong bốn vị thần linh bất tử, chỉ duy nhất Liễu Hạnh công chúa là nữ thần nên được dân gian tôn vinh là Mẫu để thờ phụng theo tín ngưỡng thờ mẫu thần và mẫu tứ phủ. Cùng với nhân thần như Vương Mẫu (mẹ Thánh Gióng), Quốc Mẫu (mẹ Âu cơ), Cung Từ Thánh Gióng (mẹ vua Lê Thái Tổ) còn các nhiên thần như Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thủy, Mẫu Thượng Ngàn (Tứ phủ), Mẫu Liễu Hạnh do có thân phận và đời sống gần gũi với nhân gian nên được thờ phụng ở nhiều nơi (đặc biệt có một lễ hội nổi tiếng là lễ hội Phủ Giầy ở Vụ Bản – Nam Định) như ở: Tây Hồ (Hà Nội), chùa Tiên (Lạng Sơn), điện Hòn Chén bên bờ sông Hương (Huế), đền Bắc Lệ (Hữu Lũng- Lạng Sơn)..

    Mẫu thuẫn là các nữ thần đã được phong tước như Vương Mẫu (mẹ Thánh Gióng), Quốc Mẫu (mẹ Âu Cơ), cung Từ Thánh Mẫu (mẹ vua Lê Thái Tổ). Mẫu tứ phủ là mẫu của bốn vùng, miền hình thành vũ trụ: Thiên phủ (miền trời), Địa phủ (miền đất), Nhạc phủ (miền rừng núi), Thủy hay Thoải phủ (miền sông biển). Đứng đầu mỗi phủ là một vị thánh mẫu và đặt tên các bà là: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải phù hợp với cuộc di dân của người Việt từ rừng núi theo các dòng sông về sống hai bên bờ lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Chu, sông Lam.. để canh tác lúa nước hình thành nền Văn minh lúa nước phát triển đến ngày nay.

    [​IMG]

    2. Đức Thánh Trần và lễ hội Kiếp Bạc:

    Trong tâm thức dân gian Việt còn một hình tượng người cha anh hùng dân tộc Thánh Trần Hưng Đạo mà không một đình, đền, chùa nào không có một ban thờ ngài. Dân gian gọi ngài bằng Đức Thánh bởi truyền thuyết kể rằng ngài là con trời, được Ngọc Hoàng phái xuống trần gian đầu thai vào dòng dõi hoàng tộc nhà Trần để bình định giặc Nguyên- Mông đang có âm mưu tung vó ngựa viễn chinh hủy diệt loài người. Và chính ngài bằng văn trị, võ công siêu việt đã hai lần đại phá quân xâm lược Nguyên – Mông, được các nhà nghiên cứu khoa học lịch sử thế giới theo đề xuất của Hội khoa học Hoàng gia Anh quốc lựa chọn là một trong 10 danh tướng thế giới của mọi thời đại trong đó có một danh tướng còn sống ở thế kỷ XXI là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Cũng trong dân gian đã định rằng: Tháng tám giỗ cha- tháng ba giỗ mẹ để mở lễ hội tại nơi thờ chính Phủ Giầy (Nam Định) và Vạn Kiếp (Hải Dương). Người ta nô nức tề tựu dâng lễ cha, mẹ cầu tài, cầu lộc, cầu phúc, cầu an và chứng nghiệm rằng rất linh thiêng.

    Với ý nghĩa độc đáo và thiết thực ấy nên tín ngưỡng thờ Mẫu được coi là Đạo Mẫu ở Việt Nam. Từ trong hình thành và phát triển, Đạo Mẫu đã luôn đồng hành cùng dân tộc với ý nghĩa linh thiêng và cao cả nhất mà danh hiệu "Các bà mẹ Việt Nam anh hùng" hiện đang được cả nước tôn vinh là minh chứng hùng hồn.

    Cùng với việc tôn thờ cha mẹ như trên, Đạo Mẫu đã gắn không quên từ các con của ngài là các vị tướng đáng giặc, từ đời Bà Trưng là hai nữ tướng Lê Chân, Bát Nàn, ông Hoàng Bơ (nhà Trần), ông Hoàng Bảy (nhà Lý), ông Hoàng Mười (nhà Lê), quan lớn tuần tranh (quan thanh tra của các triều đình) đến những danh dân, danh thần miền xuôi, miền ngược, nam- phụ-lão-ấu nếu có công danh đánh giặc cứu nước giúp dân đều được lập đền, lập miếu sắc phong và thờ tự. Do đó hình thành câu ca dao dân gian nổi tiếng cổ kim:

    Giúp dân dân lập miếu thờ

    Hại dân, dân đái ngập mồ thối xương


    Tưởng cũng là bài học đắt giá cho muôn mặt cuộc đời!

    Đó là kể về các vị thần bằng xương bằng thịt hiển hiện trong bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước.

    Dân tộc ta trong cuộc mưu sinh phải chống chọi với thú dữ, cuồng phong và hải tặc từ rừng đến biển nên cũng không quên ơn các vị thần núi, thần sông, thần cửa biển, ở nơi sinh sống của mình và chính các vị nhiên thần kể trên đã giúp nhân dân ta đứng vững trước mọi cơn phong ba bão táp, mọi loại côn trùng phá hoại mùa màng.

    Văn chương chữ nghĩa xưa nay có câu chữ nào hay hơn, linh thiêng hơn, hùng tráng hơn thành ngữ "Khí thiêng sông núi, hồn thiêng đất nước" để tỏ lòng tri ân với đối với các vị thần linh. Năm tháng qua đi nhưng dòng chảy nhân điện của các ngài vẫn luôn hiển hiện giúp chúng sinh vượt lên trên giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt để mãi mãi trường tồn. Sự linh thiêng ấy là có thật và còn mãi mãi hiển hiện trên mọi bước đường dựng nước và giữ nước của chúng ta. Chớ có ai mê lầm mà quên quay lưng lại với hồn thiêng giống nòi, khí thiêng sông núi.

    II. Tục lên đồng, hầu đồng ở Việt Nam

    Trong dân gian đã thể hiện lòng tri ân đối với tiền nhân qua các tục lệ Giáng bút hoặc Lên đồng. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến một sinh hoạt văn hóa sinh động và thiết thực đó là tục Lên đồng- Hầu đồng. Tuy nhiên, ở đây chỉ trình bày những nét đẹp về một tục lệ diễn xướng dân gian thông qua người diễn xướng (đồng cô, đồng cậu) nói về thân thế và sự nghiệp vì dân, vì nước của từng người một giúp mọi người tham gia lễ hội nhớ mãi người xưa, chuyện cũ trong không gian linh thiêng tại các phủ, đền thờ Mẫu, thờ Đức Thánh Trần. Do đó, qua năm tháng tục Lên đồng đã gắn với Đạo Mẫu như hình với bóng trở thành một bản sắc văn hóa tâm linh dân tộc rất đặc biệt thu hút sự say mê nghiên cứu của các văn hóa khắp nơi trong nước và trên thế giới. Giải nghĩa chứ đồn (từ Hán- Việt) và từ Nôm là cùng – nhập thế giới. Thần tiên, Thánh mẫu cầu tài, cầu lộc, cầu gia sự bình yên, khỏe mạnh, cầu cho quốc thái dân an.. Và cứ mỗi lần Thánh nhập đến thăng (ra đi) được coi là kết thúc một giá đồng. Mỗi giá đồng được diễn xướng trong khoảng từ nửa giờ tới hàng giờ liền do Thánh thần; hoặc phải dày công thiền định mới có thể tiếp dẫn được nguồn năng lượng siêu nhiên ấy để nói ra được những lời Thánh phán. Đồng còn có một nghĩa khác là tiểu đồng, hoặc tiên đồng hầu hạ bên cạnh các vị đại Tiên, Thánh, nhận sự ủy thác nhờ cậy của chúng sinh những nguyện cầu về quốc thái dân an, về những khó khăn trong đời sống trần gian, mong được Thánh thần giải thoát. Vì vậy còn được gọi là hầu đồng, lên đồng.

    [​IMG]

    Không gian của lễ diễn xướng dân gian thường được diễn ra trước các cửa đền, cửa phủ nơi thờ Thánh, thờ Mẫu, trước sự hiện diện của các ngài, tại các đền phủ dựng tượng Thánh, tượng Mẫu sắp đặt theo nghi thức tam tòa Thánh Mẫu, ngũ vị Tiên Ông ở giữa. Đức Thánh Trần và nhị vị cô nương ở bên phải. Đức chúa Thượng ngàn ở bên trái. Dưới đất thờ quan Ngũ Hổ. Thứ tự và màu sắc trang phục đều tuân thủ quy luật âm- dương, ngũ hành và tư tưởng triết học phương Đông (xem phụ lục). Phải chăng sự sắp đặt hợp với quy luật tự nhiên như trên cộng đồng với các cây cao bóng cả trùm lên các ngôi đền đã hội tụ đủ các dòng sinh khí tốt làm cho chúng sinh hội tụ về được giải tỏa mọi bức xúc của đời thường để hướng tới cõi Chân- Thiện- Mỹ làm nên hạnh phúc cuộc đời?

    Tham gia lễ diễn xướng dân gian nhân vật chủ yếu là cô đồng (nữ) hoặc cậu đồng (nam). Đó là những người có căn hòa nhập cõi thiêng tứ phủ của Đạo Mẫu với các Mẫu hoặc với các ông Hoàng, bà Chúa, các cô bé, cậu bé để trình diễn trước chúng sinh hình ảnh các vị danh thần mà lịch sử ghi danh, dân gian ngưỡng mộ qua các trang phục quần, áo, nón, mũ, gươm đao, mái chèo, giày dép.. Qua việc nhập hồn vào cõi thần thánh, tiếp dẫn những lời vàng ngọc cho chúng sinh thỏa mãn lòng mong mong ước được thăng hoa cùng thế giới thần tiên, được tiếp nhận những lời vàng ngọc của các ngài hầu vận dụng vào đời sống thường nhật hoặc được các ngài ban phước ban lộc để an ủi tâm linh lấy làm may mắn trong cuộc mưu sinh đến với Chân- Thiện- Mỹ. Cách hành lễ đặc biệt (lên đồng- hầu đồng) ấy vừa vui vừa lạ mắt lại rất dân gian như buổi các con (cô đồng, con nhang đệ tử) về với cha, mẹ. Lễ vật dâng lên không cầu kì, chỉ biểu trưng cho tấm lòng hiếu thảo đối với bề trên. Trong mỗi giá hầu Thánh, hầu Mẫu, các ngài lại ban phát lộc, ban phúc cho con cháu mọi sự như ý, cầu được ước thấy. Niềm vui ấy lan tỏa cho mọi chúng sinh đến trước cửa Mẫu phản ánh sinh động lẽ sống và tình cảm cao đẹp của con người.

    Trong những giá như thế, trước không gian linh thiêng và thành kính, người hầu đồng được thăng hoa siêu thoát cõi tiên, thánh, nhập vào cõi Thiện để phát và thu năng lượng vừa giải tỏa được những ức chế thường nhật và tiếp thu được sức mạnh của các đấng siêu nhiên không dễ gì có được.

    Điện thờ Mẫu trong tôn giáo thờ Mẫu từ trước khi ra đời (vào khoảng thế kỷ XVI mà mẫu Liễu Hạnh là tiêu biểu, là một bước phát triển so với thờ Phật nhát là thời kỳ Lý –Trần) biểu hiện mẫu Liễu Hạnh là một người mang dòng máu họ Lý lấy chồng họ Trần nên được dân gia tiếp nhận đưa vào thờ trong các chùa đã có từ trước theo ước lệ tiền Phật hậu Mẫu. Ngày nay khi vãn cảnh bất kỳ ngôi chùa nào ta cũng thấy có điện thờ Mẫu, thờ Thánh gọi là những ngôi đền (khác với đình thờ Thành hoàng và chùa thờ Phật). Đây cũng là những nét độc đáo của nền văn hóa tâm linh mang bản sắc Việt Nam, tiêu biểu là hai ngôi đền: Đền Kiếp Bạc (thờ cha) và Đền Phủ Giầy (thờ mẹ) thỏa mãn tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ của nhân dân ta nói chung và của những người theo tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung. Ngoài ra, những người theo tín ngưỡng thờ Mẫu (theo Đạo Mẫu) còn có thể đến cầu nguyện thỏa mãn tâm linh tại nhiều đền thờ Mẫu ở khắp các địa phương là các ngôi chùa và các ngôi đền trong đó có những ngôi đền nổi tiếng được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa như: Đền Mẫu – Phủ Tây Hồ (Hà Nội), Đền Mẫu- Chùa Tiên (Lạng Sơn), Đền Mẫu- Phủ Công đồng Bắc Lệ (Lạng Sơn), Đền Cửa Ông (Quảng Ninh), Đền Thượng (Hà Tây), Đền Chính (Đa Hòa) và Dạ Trạch (Hưng Yên), Đền Sóc (Hà Nội), Đền Và (Sơn Tây), Đền Phủ Đổng (Hà Nội), Đền Mẫu Âu Cơ (Phú Thọ), Đền Mẫu (Hưng Yên), Đền Mẫu Động Cuông (Lào Cai)..

    Cùng với một hệ thống hàng trăm ngôi đền thờ Thiên thần, Thổ thần, Thủy thần, Sơn thần, Long thần.. và hàng trăm ngôi đền trong hệ thống tín ngưỡng tứ phủ từng tôn tại từ thế kỷ XV đến nay được các triều đình phong kiến sắc phong và Nhà nước Việt Nam ngày nay gắn biển di tích lịch sử văn hóa minh chứng cho đạo nghĩa "Uống nước nhớ nguồn" cao đẹp trong dòng chảy lịch sử truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.

    Tại các lễ hội dân gian diễn ra trong những ngày húy kỵ các vị thần linh ở các cửa đền, cửa chùa, ngoài các trò chơi dân gian thường có tục diễn xướng dân gian kể về công tích của các vị thần thánh khắc sâu đạo lý uống nước nhớ nguồn và cầu mong quốc thái dân an của đệ tử theo tín ngưỡng thờ Mẫu tứ phủ. Trong tâm linh các đệ tử theo đạo Mẫu thì đây là dịp để các vị thần linh giáng về hiển hiện trước lễ hội chứng kiến tâm thành của con cháu để ban phúc, ban lộc, đáp ứng sở nguyện của chúng sinh về quốc thái dân an, gia đình và cá nhân thành đạt, hạnh phúc.

    Tùy theo hoàn cảnh từng nơi, từng vùng, lễ diễn xướng như trên có thể diễn ra hàng giờ hoặc nhiều giờ, có khi kéo dài đến nửa đêm đều do chủ lễ hoặc chủ nhang và các thanh đồng thể hiện và quyết định.

    Ngoài ra còn có các lễ định kỳ hoặc thường kỳ khác theo ước định của tín ngưỡng thờ Mẫu như sau:

    • Lễ xông đền.
    • Lễ hầu thượng nguyên vào đầu năm mới- mùa xuân. Trong đó quan trọng nhất là tháng Ba- giỗ Thánh Mẫu Liễu Hạnh hay còn gọi là giỗ Mẹ.
    • Lễ hầu nhập hạ vào tháng Tư và lễ hầu tán hạ vào tháng Bẩy.
    • Lễ tháng Tám là giỗ vua cha Bát Hải và giỗ Đức Thánh Trần hay còn gọi là giỗ Cha.

    Thực hành nghi lễ hầu đồng của đạo tứ phủ

    Trong các kỳ lễ như vậy thủ nhang quản lý các đền chùa đều tổ chức hầu đồng (lên đồng) cho các thanh đồng và các đệ tử theo tín ngưỡng thờ Mẫu tứ phủ (đạo Mẫu) thực hiện nghi lễ nhập hồn (vong linh) các vị thánh tứ phủ vào mình để phán truyền (dạy bảo) đệ tử tu nhân tích đức hành thiện với đời hoặc ban phúc, lộc thọ cho họ lấy làm an ủi trong cõi tâm linh trước mọi bất kỳ đến nay (XV- XXI) vẫn còn ứng nghiệm đối với những người thành tâm hoặc tâm trong (sạch, sáng, không nhiễm bụi trần). Nhiều thanh đồng càng trải qua quá trình tu tập thiền định (ăn chay niệm phật) lâu năm càng dễ thực hành nghi lễ nhập hồn các vị thánh tứ phủ và càng được đông đảo các đệ tử tín nhiệm tin theo. Không chỉ các đệ tử mà ở nhiều đền, phủ, chùa chiền đều có tổ chức lên đồng (hầu bóng) còn thu hút rất đông khách thập phương theo về để vãn cảnh, để thỏa mãn nghệ thuật diễn xướng dân gian qua các diễn xuất múa và các lời ca minh họa chân dung và công lao cứu dân cứu nước, cứu khốn phò nguy của các vị thánh từng hiện hữu trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, đánh đuổi các loại kẻ thù xâm lược.

    Trong số khách thập phương đến với các cửa phủ của tín ngưỡng thờ Mẫu (đạo Mẫu) có đủ các thành phần từ cụ đồ nho, phật tử, trang tử đến các đạo giáo khác và các nhà khoa học, trí thức ở nhiều châu lục.. nên có thể coi là một bức tranh đẹp biểu hiện tình đoàn kết các tôn giáo, dân tộc, đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt tự cổ chí kim. Bởi vì đứng trước Mẫu tứ phủ (tiêu biểu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh) người ta như được đứng trước sự sinh sôi nảy nở - nguyên lý bất diệt của sự sống – mà mình hằng hướng tới, đứng trước sự bao dung, nhân ái, che chở của bà mẹ nhân từ không ai có thể nhân danh gì, phân biệt gì khi đứng trước mẹ hiền.

    Quá trình thực thi nghi lễ nhập hồn các vị Thánh Mẫu, các Đức Ông, các Quan, các Chầu vào các thanh đồng để đáp ứng nguyện vọng cầu quốc thái dân an, cầu phúc lộc thọ, giải oan giải nghiệt của các đệ tử theo tín ngưỡng thờ Mẫu tứ phủ lần lượt diễn xướng gọi là ba mươi sáu giá đồng. Trong cuộc mưu sinh của con người con số 36 có lẽ phản ánh sự cực thịnh của âm- dương, ngũ hành. Song tùy nơi, túy lúc các giá tiêu biểu nhất đáp ứng chung những nguyện vọng cần thiết nhất của đệ tử khi dâng sớ hoặc cầu khấn Thánh Mẫu, nhất là với các quan hành khiển, các ông Hoàng, các cô bơ, cô bé, cậu bé hầu cận tiếp nhận theo thứ tự giống như từ cung đình đến gia tộc thường thấy. Ví dụ một số giá hầu đồng tiêu biểu linh nghiệm trong thập vị tôn ông, thập vị chầu bà:

    1. Giá chúa thác bờ:

    * * * Khắp mọi miền kêu cầu vọng bái

    Ai lỗi lầm chúa đoái lòng thương

    Dù ai duyên số dở dang

    Lòng thành thắp một nén nhang kêu cầu

    Nếu đã nguyện sở cầu tất ứng

    Độ cho người phúc đẳng hà sa

    Dù ai vận hạn chưa qua

    Chúa độ cho tai qua nạn khỏi

    Cứu cho người khỏi cõi trầm luân

    Nước tiên tẩy hất bụi trần

    Thanh cao rồi lại mười phần thanh cao..

    2. Giá Mẫu thượng ngàn:

    * * * Anh linh đã có tiếng đồn (thượng đẳng tối linh thần)

    Sấm ran mặt bể mưa trên đầu nguồn..

    Vốn dòng công chúa thiên thai

    Giáng sinh hạ giới chuyện cai thượng ngàn

    * * * Yêu ai tài lộc Mẫu ban

    Ghét ai cách nửa bàn chân cũng lìa

    Mẫu về giáng phúc từ trung

    Cung từ đệ tử khang minh thọ trường

    3. Giá ông Hoàng bơ thoải:

    Ghế ông bao lễ lòng thành

    Kim ngân sớ bạc để trình đến đây

    Nhất tâm cầu phật khấn thần

    Nhần lòng giữ đức muôn phần tốt tươi

    Ai biết phép gia tài ban lộc

    Độ cho người văn học thông minh

    Những ai hữu ý nhiệt thành

    Độ cho lạc nghiệp, nông canh thuận đường.

    4. Giá ông Hoàng Bảy Bảo Hà:

    Sử còn chép Bảo Hà thắng tích

    Ông Hoàng Bảy đích thực trung quân

    Tiếng thơm để khắp trần gian

    Cương thường dựng nước ra công diệt thù

    Đã đứng lên cầm cân nảy mực

    Mất chữ Tân thì tội phải mang

    Lưới trời bủa khắp bốn phương

    Hạt nhân, nhân hại không đường thoát thân

    Đừng ai khỏe trọn vẹn trăm phần

    Chữ Đức chưa tốt ông Bảy cân sao cho bằng

    Ông khuyên đừng khinh kẻ bần hàn

    Đức mà đã tốt ông ban vẻ vang cho đời đời

    Quan Hoàng Bảy trấn miền Bắc địa

    Hợp binh hùng lục thủy thao giang

    Quân cơ mưu lược luận bàn

    Doanh thu thường có hai hoàng vào ra.

    5. Giá ông Hoàng Mười Nghệ An:

    Vung gươm yên ngựa phất cờ

    Ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam

    Ông Hoàng Mười ra tay giữ nước

    Ông đi tới đâu giặc phải tan ngay

    Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây

    Sông Lam hết nước thì đền ông đây mới hết lộc tài.

    6. Giá quan đệ ngũ- Quan lớn tuần tranh:

    Tung hoành đệ ngũ tuần tranh

    Trừ tà sát quỷ lừng danh tướng tài

    Thiện sinh văn võ gồm hai

    Quan tuần đệ ngũ đấng trai anh hùng

    Đêm ngày giữ đạo thủy cung

    Đợi lệnh cửu trùng cứu độ sinh nhân

    Ai mà cầu nhân đắc nhân

    Ai mà cầu đắc phúc bản thân điều hòa

    Ông kiêm tam giới các tòa

    Phù hộ đệ tử thiên niên hài hòa

    Một là giáng phúc trừ tà

    Hài là bản hội các nhà thịnh hưng

    Giúp cho buôn bán trăm đường

    Tiền tài lưu loát bạc vàng đắc sinh

    Giúp cho phú quốc dân an

    Can qua thoát nạn thanh bình nơi nơi.

    7. Giá cô bé Thượng- công đồng Bắc Lệ

    Có ai lên Lạng Sơn châu thổ

    Hỏi thăm đền Chầu bé nơi nào

    Hỏi thăm Bắc Lệ mà vào

    Đền thờ Chầu Bé thấp cao mấy tầng

    * * * Tiên Chầu Bé vâng lời Mẫu Thượng

    Hái thuốc tiên độ lượng nơi nơi

    Độ cho tuế cựa Xuân lai

    Cửa nhà khang thái phúc lai hạn trừ

    Tâu lên Bắc Lệ linh từ.

    8. Giá Chầu Lục- Chầu Mười Đồng Mỏ:

    Ai lên Đồng Mỏ- Chi Lăng

    Nhớ người nữ kiệt cứu dân tiền triều

    Nước non gặp vận hiểm nghèo

    Chầu Mười Đồng Mỏ sớm chiều xông pha

    Vốn người sinh quán Mỏ Ba

    Cầm dao nối dõi nghiệp nhà dao cung

    Vua Lê Thái Tổ trùng hưng

    Theo vua dẹp giặc Liễu Thăng đi đầu

    Vua sai trấn giữ các châu

    Sơn trang các tướng nghe chầu giao binh

    Mười đông chiến trận tung hoành

    Đánh tan giặc dữ triều đình phong công

    Chầu về trở lại sơn trang

    Giúp dân lập ấp trong vùng Mỏ Ba

    Đức tài dậy khắp gần xa

    Bản mường thôn ấp trẻ già đội ơn.

    9. Giá quan Đệ Tam- Lảnh Giang Yên Lệnh Hưng Yên:

    Thỉnh mời quan lớn đệ tam

    Phương phi diện mạo tòa Lảnh Giang linh từ

    Ngài là con vua Bát Hải Động Đình

    Phong tôn hiệu đệ Tam Hoàng Thái tử

    Văn thần cải tú, võ tổng lược thao

    Danh quan lớn vang lừng trong tứ hải

    Một tay hoàng tử vương quan

    Cứu sinh cũng lắm, giải oan cũng nhiều

    Đó là các giá hầu do các thanh đồng thực hiện tại các đền phủ thỏa mãn việc dâng sớ kêu cầu và tiếp cận chân linh các đệ tử thờ mẫu tứ phủ. Cũng có một số đệ tử tự mình tham thiện nhập định tiếp cận chân linh các mẫu, các quan, các cô, các cậu để được tự mình nhập hồn vào các bậc tiền nhân để thỏa mãn tâm linh tôn thờ các thần thánh cũng được các thủ nhan, thanh đồng giúp sức thực hiện tại bản đền, bản phủ và được tín các tín đồ Đạo Mẫu (còn gọi là con nhang, đệ tử) tham gia.

    Để tái hiện hình ảnh các vị thần, thánh có tên trong Đạo Mẫu tứ phủ các thánh đồng trong mỗi giá đều phải sử dụng một loại trang phục tương ứng từ trang phục đến võ phục, từ khăn mũ đến giầy dép và các đồ trang sức cùng với các màu sắc tương ứng với các vị thần cai quản tứ phủ như Thiên – đỏ, Địa – vàng, Thượng ngàn- xanh lá, Thủy- trắng. Qua đó các con nhang đệ tử và những người hâm mộ được tiếp cận các vị thần, thánh một cách trực diện, biểu hiện và những lời Thánh phán càng có sức thuyết phục cao, thỏa mãn tâm linh con người. Giá trị thẩm mỹ của trang phục dân tộc cổ truyền độc đáo được phát huy một cách tối đa.

    Ngoài trang phục các thanh đồng hoặc người hầu đồng sử dụng kể trên, khi nhập hồn các vị thánh thần con phải thể hiện như thật các động tác tay chân và biểu hiện nét mặt từng vị. Nếu thánh nhập đồng là các quan lớn, các ông hoàng (10 giá chầu) thì động tác phải thể hiện oai nghiêm, hùng dũng cùng với các động tác múa, đao, gậy, kiếm như đang chiến đấu diệt giặc ngoại xâm. Các con nhang đệ tử vừa nghe lời ca diễn tả hình ảnh các ngài như được thấy các ngài đang hiện diện càng tưởng nhớ sâu sắc các bậc tiền nhân đã chiến đấu anh dũng hi sinh vì dân, vì nước, càng thấm đượm ý nghĩa lớn lao "uống nước nhớ nguồn" càng hy vọng vào sự linh thiêng của các ngài từ cõi xa xăm trở về độ cho con cháu tai qua nạn khỏi trước những khó khăn của cuộc sống hàng ngày. Song nếu thánh nhập hồn vào các thanh đồng hoặc người hầu đồng lại là các chầu bà (12 giá chầu) hoặc chầu cô bé (10 giá) thì phải biểu hiện bằng sự dịu dàng, duyên dáng qua nét mặt, ánh mắt, dáng điệu, cử hcir nữ tính cùng các điệu múa quạt, dệt gấm, thuê hoa, múa nón, múa chèo đò, hái chè, bắt bướm.. cùng với các làn điệu hát văn bay bổng nhặt khoan diễn tả miền sông nước, miền đông hay miền sơn cước nơi các đền, miếu thờ các vị thánh thần từng hiển linh cứu dân, cứu nước đã được dân chúng ngưỡng mộ, triều đình phong kiến sắc phong và Nhà nước ta công nhận di tích lịch sử văn hóa.

    Không gian trầm mặc nơi các cửa đền cửa phủ phảng phất mùi hương khói thơm lan tỏa cùng với sự nhập hồn các vị thần thánh vào các thanh đồng được diễn xướng trên khiến các con nhang đệ tử Đạo mẫu tứ phủ và công chúng tham dự như được hòa vào quá khứ, tiếp nhận sự phán truyền về đạo lý làm người, về tương lai cuộc sống của các vị thần linh cho chính bản thân mình. Đó cũng là những giây phút thăng hoa trong tâm hồn trước nỗi bức xúc của đời sống thường nhật – một liệu pháp tâm lý độc đáo. Trong dân gian đã có những ghi nhận rằng:

    Ở các đền, phủ nào có các thủ nhang và thanh đồng thành tâm thờ phật, thờ mẫu, ăn chay, niệm phật, tu thiền đat tới mức nhập lai trí huệ, vô thường, vô ngã, vô minh (tâm trong suốt) thì có thể đến với các vị thần thánh. Đền phủ nào là nơi giúp sức cho sự giải thoát những khổ đau của chúng sinh, hướng chúng sinh đến được Chân- Thiện- Mỹ thì sẽ được các ngài giáng về bảo ban, che chở cho cuộc sống bình an. Ở những nơi người ta từ trong tâm linh của mình tiếp nhận được những nguồn năng lượng siêu nhiên trong vũ trụ để nhận ra rằng đã tiếp cận được các ngài, đã được các ngài ban phúc lộc thọ, song đó cũng chỉ là linh hồn thiêng hiện về. Trong cộng đồng dân tộc gọi đó là những đền thiêng, những thanh đồng và thủ nhang cao tay được đông đảo con nhang đệ tử tín ngưỡng Đạo mẫu tứ phủ tìm đến hoặc theo về; có người còn đội bát nhang theo hầu các mẫu, các quan lớn, các ông hoàng.

    Hầu đồng – Lên đồng là một hình thức biểu hiện đặc biệt của tín ngưỡng thờ Mẫu tứ phủ chứa đựng trong lòng nó sức mạnh vô hình, thiêng liêng qua cách nhập hồn các vị thánh thần có thật trong lịch sử, đáp ứng được đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng dân tộc.

    Cách tiếp cận vong linh của các vị thần thánh bằng cách giá đồng do các thanh đồng, người hầu đồng hát múa với các trang phục và màu sắc dân tộc độc đáo đã là cách lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc một cách sinh động và đầy ấn tượng sâu đậm trong lòng người hâm mộ.

    Đạo mẫu và tín ngưỡng thờ Mẫu tứ phủ với hình thức biểu hiện đặc biệt kể trên ra đời từ thế kỷ XV- XVI tiếp theo các đạo Nho, Phật, Lão trước đó và tồn tại đến ngày nay chứng tỏ rằng các vị thần thánh được diễn tả trong các giá đồng từng là vị tướng đánh giặc cứu nước, từng là các vị thần tuy đã qua đời nhưng vẫn còn hiển linh cứu nhân độ thế đã và đang tồn tại trong thế giới tâm linh của nhân dân ta. Từ nhiều thế kỷ nay trong đời sống tâm linh của nhân dân ta đã dùng hình thức hầu đồng vừa là sinh hoạt diễn xướng văn nghệ dân gian vừa là để nhập hồn các vị thần linh hiển linh cứu nhân độ thế.

    Chưa ở đâu trên thế giới này có một hình thức tiếp cận vong linh những người đã khuất đặc biệt độc đáo đến như vậy. Gạt ra một bên mặt trái của sự việc, một sự vật hay cả một con người, chúng ta sẽ có một cái nhìn chân thực về giá trị văn hóa tâm linh đặc biệt độc đáo xuất sắc – nghi lễ thực hành của đạo Mẫu tứ phủ - nghi lễ hầu đồng – lên đồng – văn hóa tâm linh.
     
    Thùy MinhÁnh Trăng Sáng thích bài này.
  4. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,095
    ĐẠO MẪU, ĐIỆN THẦN VÀ THẦN TÍCH

    Nếu như gạt bỏ những sai biệt có tính địa phương, chắt lọc lấy những cái chung thì chúng ta có thể đưa ra một hệ thống điện thần Đạo Mẫu như sau:

    - NGỌC HOÀNG

    - TAM TOÀ THÁNH MẪU (Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Địa Tiên Thánh Mẫu)

    - NGŨ VỊ VƯƠNG QUAN (Từ Đệ Nhất đến Đệ Ngũ), thường thì người ta xếp Đức Thánh Trần vào hàng các Quan.

    - TỨ VỊ CHẦU BÀ hay tứ vị Thánh Bà là hóa thân trực tiếp của Tam Tòa Thánh Mẫu.

    - NGŨ VỊ HOÀNG TỬ (gọi theo thứ tự từ Đệ Nhất tới Đệ Ngũ)

    - THẬP NHỊ VƯƠNG CÔ (gọi theo thứ tự từ l đến 12)

    - THẬP VỊ VƯƠNG CẬU (gọi theo thứ tự từ l đến 10)

    - NGŨ HỔ (năm con hổ)

    - ÔNG LỐT (rắn)

    Các Ban Thờ trong các Đền - Phủ - Điện thờ Thánh Mẫu

    * Một là: Ngọc Hoàng, vị Thánh cao nhất trong đạo Mẫu, có ban thờ riêng trong các đền và phủ, tuy nhiên vai trò của Ngọc Hoàng trong nghi lễ và thờ cúng, cũng như trong tâm thức dân gian của người Việt rất mờ nhạt.

    * Hai là: Tam tòa thánh Mẫu gồm Mẫu Thuợng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Địa Tiên Thánh Mẫu họ là biểu trưng cho quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất, nhưng lại hóa thân thành Tam vị, Tứ vị Thánh Mẫu cai quản các miền khác nhau của vũ trụ: Trời, đất, nuớc và thượng ngàn.

    * Ba là: Ngũ vị Vương Quan, các vị đều mặc võ quan, mang kiếm hay kích, màu sắc võ phục thì tuỳ thuộc các vị thần ở các phủ như: Thoải phủ mặc màu trắng, Thiên phủ mặc màu đỏ, Nhạc phủ mặc màu xanh, Địa phủ mặc màu vàng. Quan lớn Đệ Tam và Quan Đệ Ngũ đều thuộc Thoải phủ, dòng Long Vuơng Bát Hải.

    * Bốn là: Tứ vị Thánh bà hay Tứ vị Chầu bà được hóa thân, phục vụ trực tiếp Tứ vị Thánh Mẫu. Chầu Đệ Nhất hóa thân của Mẫu Thượng Thiên, Chầu Đệ Nhị hóa thân của Mẫu Thượng Ngàn, vị Thánh thống soái trong các hàng Chầu, cai quản vùng núi non, sơn cuớc. Khi giáng trần bà mặc sắc phục Mán, màu xanh, đặc trưng cho Nhạc phủ. Trong Nhạc phủ cùng với Chầu Đệ Nhị còn có Chầu Lục và Chầu Bé. Chầu Lục gốc nguời Nùng ở Hữu Lũng (Lạng Sơn), Chầu Bé ở Bắc Lệ (Lạng Sơn). Còn Chầu Muời gốc nguời thổ, tương truyền đã có công giúp Lê Lợi đánh tan quân Liễu Thăng, trấn ải Chi Lăng, được thờ ở Đồng Mỏ (Lạng Sơn). Chầu Đệ Tam là hóa thân của Mẫu Thoải. Đó là vị Thánh có dáng vẻ u buồn, y phục và khăn trùm màu trắng. Chầu Đệ Tứ là vị Thánh giữ vai trò khâm sai Tứ Phủ. Tuy đứng đầu Địa Phủ, có khi bà hóa thân dưới dạng Chầu Thoải phủ, khi giáng trần bà mặc áo trắng, múa đôi mái chèo; khi lại hóa thành Thánh Mẫu Thiên phủ, mặc áo đỏ, múa quạt (Chầu Đệ Tứ khâm sai Thuợng Thiên).

    * Năm là: Ngũ vị Hoàng tử được gọi tên từ Ông Hoàng Đệ Nhất đến Ông Hoàng Muời. Tương truyền, cũng như các Quan, các ông hoàng đều có gốc tích là con trai Long Thần Bát Hải Đại Vuơng ở hồ Động Đình, tuy nhiên, theo địa phương hóa thì các ông Hoàng đều gắn với một nhân vật nào đó ở cõi nhân gian là những danh tướng có công dẹp giặc cứu nuớc, những người khai sáng, mở mang đất nước. Trong số mười ông Hoàng thì thuờng có sáu ông giáng đồng, có ba ông giáng rất thuờng xuyên, đó là Ông Hoàng Bơ, Ông Hoàng Bẩy, và Ông Hoàng Muời. Khi các ông giáng đồng, các Ông Hoàng có phong cách gần giống các Quan lớn, tuy nhiên có phần phong nhã, vui tươi hơn.

    * Sáu là: Thập nhị Vuơng cô, từ cô Cả (Cô Đệ Nhất) đến cô thứ 12 (Cô Bé), đều là các thị nữ của Thánh Mẫu và các Chầu. Tuy nhiên, khi giáng đồng các Cô có thể hóa thân vào vai trò khác nhau của Tứ Phủ. Cô Đệ Nhất là thị nữ của Mẫu Thuợng Thiên, mặc rất đẹp, Cô Đôi là thị nữ của Mẫu Thuợng Ngàn, khi giáng trần với hai bông hoa cài trên mái tóc. Cô Bơ (Ba) thuộc thuỷ phủ rất nổi tiếng với y phục màu trắng, thắt lung hồng, múa điệu chèo đò. Cô chữa bệnh cứu nguời bằng cách ban nuớc uống, nhưng cũng có thể gieo bệnh nếu kẻ nào đó làm trái ý Cô. Cô thứ Tư là thị nữ của Chầu Đệ Tứ, Cô Năm thuộc Chầu Đệ Ngũ, nhưng cũng có khi đuợc hóa thân là thị nữ của Mẫu Thuợng Ngàn hay Thượng Thiên, cô thường xuất hiện trong các bữa tiệc. Cô Sáu phủ Thượng Ngàn, ăn mặc áo chàm, đeo túi hoa, tóc cài hoa rừng, lưng thắt con dao nhỏ, đi hái thuốc chữa bệnh cứu nguời. Cô Bảy là người dân tộc Mọi kế cận bên chầu Bảy. Cô Tám là thị nữ của Mẫu Thượng Ngàn. Cô Chín là thị nữ của Mẫu Thượng Thiên. Cô cai quản Đền Sòng Sơn (Thanh Hóa). Cô Mười đồng mỏ (Lạng Sơn), giáng trần cô nói tiếng Mán, tiếng Muờng, cô múa đuốc soi đuờng, thêu hoa trên vải, là một nữ thần rừng rất linh thiêng. Cô bé Đồi, bé Thoải.

    * Bảy là: Thập nhị Vương cậu, là những người chết trẻ, từ 1 – 9 tuổi, hiển linh thành các bé Thánh. Người ta không biết rõ đầy đủ về 10 hay 12 vị thuộc hàng Cậu, họ là các phụ tá của các Ông Hoàng. Thường thì, lần lên đồng nào cũng có giá Cậu Bơ và Cậu Bé. Đó là các giá đồng với tính cách phóng túng, nghịch ngợm, quần áo kỳ cục, lời nói ngọng nghịu của trẻ con, kèm theo các điệu múa lân hay múa hèo khá sôi nổi.

    * Tám là: Quan ngũ Hổ và Ông Lốt (Rắn), nơi thờ thần Ngũ Hổ ở hạ ban, phía duới điện thờ Mẫu. Phía trên điện thờ chính, có hình tuợng đôi Bạch Xà vắt ngang. Trong quan niệm dân gian, Hổ là vị chúa cai quản vùng rừng núi, còn Rắn là thần ở nơi sông nuớc. Hổ thuờng đuợc vẽ năm con hổ màu sắc khác nhau, trong đó Hoàng Hổ (Hổ vàng) trấn phuơng Trung tâm (địa khu), Hắc Hổ (Hổ đen) trấn phuơng Bắc (Thuỷ khu), Bạch Hổ (Hổ trắng) trấn phuơng Tây (Kim khu), Xích Hổ (Hổ đỏ) trấn phuơng Nam (Hỏa khu), Thanh Hổ (Hổ xanh) trấn phuơng Đông (Mộc khu). Trong thờ Mẫu Tứ Phủ hay trong tín nguỡng dân gian, hình tuợng Hổ là biểu tượng cho sức mạnh thiêng liêng, có thể trừ diệt ma tà, trấn giữ các phương, là thần linh canh cửa ở các ngôi đền.

    * Chín là: Vương Phụ Vương Mẫu (Lê Thái Công và Thái Bà) và các vị Tổ Tiên Sinh ra Thánh Mẫu. Là những nguời có công sinh thành ra Thánh Mẫu khi Ngài giáng xuống trần gian.

    - -

    Các vị Thánh trong đạo Mẫu không chỉ phân thành các hàng mà còn phân thành các Phủ. Phủ trong đạo Mẫu mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Trước nhất, Phủ trong Tam Phủ, Tứ Phủ mang nghĩa rộng và bao quát, tương ứng với các miền khác nhau trong vũ trụ: Thiên phủ (miền Trời), Địa phủ (miền đất), Thoải phủ (thuỷ phủ, miền sông biển), và Nhạc phủ (miền rừng núi). Đứng đầu mỗi Phủ như vậy là một vị Thánh Mẫu: Mẫu Thượng Thiên cai quản Thiên phủ, Mẫu Địa (Địa Tiên Thánh Mẫu) cai quản Địa phủ, Mẫu Thoải cai quản Thoải phủ và Mẫu Thượng Ngàn cai quản Nhạc phủ. Giúp việc cho bốn vị Thánh Mẫu còn có nhiều vị thánh thuộc các hàng Quan, Chầu, Ông Hoàng, Cô, Cậu cũng phân theo 4 phủ như các vị thánh Mẫu kể trên.

    Hiện nay trong điện thần Thờ Mẫu đều tồn tại quan niệm Tam Phủ và Tứ Phủ . Tứ Phủ là gồm ba phủ trong Tam Phủ (Thiên, Địa, Thoải) và có thêm phủ Thượng Ngàn (Nhạc Phủ). Hiện nay chưa ai có thể trả lời chắc chắn Tam Phủ và Tứ Phủ của đạo Mẫu có từ bao giờ. Tuy nhiên, có thể tin rằng Tam Phủ có trước Tứ Phủ và việc tồn tại phủ thứ tư là Nhạc Phủ là một nét đặc thù của Đạo giáo Việt Nam.

    Có thể quan niệm Tam Phủ và Tứ Phủ đều bắt nguồn từ quan niệm vũ trụ luận nguyên sơ là Âm và Dương, dần dần yếu tố Âm trong lưỡng cực Âm Dương phân hóa thành Địa Phủ, Thoải Phủ và Nhạc Phủ.

    Dương thiên thiên Nhạc thoải

    Âm địa thoải địa

    Tứ Phủ ứng với bốn phương, bốn miền của vũ trụ, trong đạo Mẫu biểu hiện thành bốn màu cơ bản: Thiên Phủ ứng vớimàu đỏ, Thoải Phủ ứng với mầu trắng, Địa Phủ ứng với màu vàng và Nhạc Phủ ứng với mầu xanh . Đó cũng là màu sắc của trang phục các vị Thánh khi giáng đồng, là màu sắc của các đồ cúng lễ. Từ các màu sắc này chúng ta có thể dễ dàng phân biệt mỗi vị thánh thuộc vào phủ nào trong hệ thống Tam Phủ, Tứ Phủ.

    Trong đạo Mẫu, nơi thờ phụng chínhThánh Mẫu Liễu Hạnh, hóa thân của Mẫu Thượng Thiên, cũng được gọi là Phủ, như Phủ Giầy (Nam Định) và Phủ Tây Hồ (Hà Nội). Cách định danh này có thể xuất phát từ quan niệm vũ trụ luận về các Phủ trong Tứ Phủ và cách định danh đương thời - cung Vua, Phủ Chúa thời Trịnh - Nguyễn.

    NGỌC HOÀNG là vị Thánh cao nhất trong đạo Mẫu, có ban thờ riêng trong các đền và phủ, tuy nhiên vai trò của Ngọc Hoàng trong nghi lễ và thờ cúng, trong tâm thức dân gian thì lại rất mờ nhạt. Như mọi người đều biết, Ngọc Hoàng là thần linh cao nhất trong đạo thờ Tiên của Đạo giáo Trung Hoa, đã được gá lắp khá muộn mằn vào đạo thờ Mẫu cũng như nhiều tôn giáo tín ngưỡng khác của người Việt.

    Tam tòa thánh mẫu

    Mẫu là quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất, nhưng lại hóa thân thành Tam vị, Tứ vị Thánh Mẫu cai quản các miền khác nhau của vũ trụ: Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn.

    Mẫu Thượng Thiên sáng tạo bầu trời và làm chủ quyền năng mây, mưa, sấm, chớp. Về phương diện vũ trụ quan, ta có thể thấy quan niệm về Mẫu nói chung và Mẫu Thiên nói riêng, trong quan niệm của dân gian về Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Lôi, đó là bốn vị Nữ thần tạo ra mây, mưa, sấm, chớp, vốn liên quan tới Thần mưa của tín ngưỡng nông nghiệp. Thực ra những huyền thoại và thần tích của Mẫu Thượng Thiên đều trực tiếp liên quan tới Thánh Mẫu Liễu Hạnh, là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên, vị thần chủ cao nhất và được thờ cúng nhiều nhất trong Đạo Mẫu ở nước ta.

    Trong điện thần Tứ Phủ, Mẫu Liễu Hạnh là vị Thánh xuất hiện khá muộn, mà theo hiểu biết hiện nay sớm nhất cũng chỉ vào khoảng thế kỷ XVI, thời Hậu Lê, nhưng nhanh chóng trở thành vị Thần chủ của đạo Mẫu và được tôn vinh hơn tất cả các Thánh Mẫu khác.

    Cũng theo quan niệm dân gian, Mẫu Liễu còn có thể hóa thân vào Mẫu Thượng Ngàn trông coi miền rừng núi, hay thành Địa Tiên Thánh Mẫu - Mẹ Đất, cai quản mọi đất đai và đời sống sinh vật. Vào tới Huế, Thánh Mẫu Vân Cát (tức Mẫu Liễu) được phối thờ cùng với thánh Mẫu Thiên Ya Na nguyên gốc Chăm, là vị thần chủ của điện Hòn Chén.

    Mẫu Thượng Ngàn là hóa thân của Thánh Mẫu toàn năng trông coi miền rừng núi, địa bàn chính sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số. Các đền thờ Mẫu Thượng Ngàn có ở hầu khắp mọi nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng chính, gắn bó với hai truyền thuyết ít nhiều có khác biệt, đó là Suối Mỡ (Hà Bắc) và Bắc Lệ (Lạng Sơn).

    Khác với Mẫu Thượng Thiên (mà Liễu Hạnh công chúa là hiện thân) là người Trời, người Tiên, Mẫu Thượng Ngàn xuất xứ là người trần, tuy có là con gái hay cháu Vua Hùng. Đó là những người gắn bó với núi rừng, yêu thiên nhiên, cây cỏ, muông thú, người có phép tiên có thể mang lại yên vui, ấm no cho dân lành. Họ hiển Thánh và trở thành vị thần bảo hộ cho rừng núi, bản làng.

    Ở Tây Nguyên, tục thờ Mẫu do người Việt mang vào lại đồng nhất Mẫu Thượng Ngàn với Mẹ Âu Cơ - Mẹ Tiên, sau khi từ biệt với Bố Rồng - Lạc Long, đã mang theo 50 người con lên núi, sinh sống, phát triển thành các dân tộc thiểu số ngày nay và Mẹ Âu Cơ trở thành vị Thánh Mẫu cai quản vùng rừng núi. Bởi thế, các động Sơn Trang ở các đền Tây Nguyên thường tái hiện sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ.

    Mẫu Thoải

    Huyền thoại và thần tích của Mẫu Thoải tuỳ theo từng nơi có khá nhiều khác biệt, tuy nhiên, cũng có những nét chung cơ bản. Đó là vị thần trị vì vùng sông nước, xuất thân từ dòng dõi Long Vương, liên quan trực tiếp với thủy tổ dân tộc Việt buổi đầu dựng nước.

    Như vậy, trong Tam Tòa Thánh Mẫu, Mẫu Thượng Thiên mà hóa thân là Thánh Mẫu Liễu Hạnh, vốn là con gái Ngọc Hoàng đã nhiều lần giáng sinh nơi trần thế. Còn lại Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải đều có nguồn gốc Sơn thần và Thuỷ thần, ít nhiều gắn bó với các nhân vật nửa lịch sử nửa huyền thoại của buổi đầu huyền sử dân tộc, như Tản Viên, Hùng Vương, Âu Cơ (Mẫu Thượng Ngàn) hay Lạc Long Vương, Kinh Dương Vương, Kinh Xuyên (Mẫu Thoải). Trong Tam Tòa Thánh Mẫu ta còn thấy có sự kết hợp, đan quyện giữa tư duy mang tính vũ trụ luận (Trời, Đất, Nước), tư duy huyền thoại (Thiên Thần, Sơn Thần và Thuỷ Thần) và tư duy lịch sử (Lạc Long Quân - Âu Cơ, Hùng Vương). Đây cũng là một khía cạnh tâm lý mang đặc thù Việt Nam.

    Ngũ vị Quan lớn

    Sau hàng Mẫu là Ngũ vị Quan lớn (hàng Quan), gọi tên từ Quan Đệ Nhất đến Quan Đệ Ngũ, tuy nhiên không phải là không có quan niệm về sự hiện diện của Thập vị Quan lớn thuộc hàng Quan. Thường thì 5 vị đầu hay giáng đồng hơn, có lai lịch hoặc là Thiên thần hoặc là Nhân thần, 5 vị còn lại thì ít giáng đồng, bởi vậy thần tích cũng không được rõ ràng. Ở đây một lần nữa ta lại gặp hiện tượng con số 5 và bội số 2 của con số này.

    Trong Ngũ vị Quan lớn thì Quan Đệ Nhất và Quan Đệ Nhị có nguồn gốc Thiên thần. Quan Đệ Nhất vâng mệnh Ngọc Hoàng xuống trần cứu giúp dân lành khỏi sự quấy phá của tà quan. Quan Đệ Nhị cũng là Thiên thần xuống trần gian trấn giữ Thượng Ngàn.

    Nổi bật nhất trong hàng Quan là Quan Đệ Tam và Quan Đệ Ngũ. Hai vị này có đền thờ riêng, có thần tích và huyền thoại, đặc biệt là hay giáng đồng, nên được các tín đồ thờ cúng và tôn kính. Theo các huyền thoại lưu truyền trong dân gian cũng như lai lịch các bản văn chầu thì Quan Tam phủ là con Vua Bát Hải Đại Vương, hóa thân thành một võ tướng của Hùng Vương. Đền thờ chính của ông ở Ninh Giang, tức Đền Lảnh, ngoài ra còn có nhiều nơi thờ vọng, từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi ngược lên vùng núi.

    Quan Đệ Ngũ còn gọi là Quan Tuần, Quan lớn Tuần Tranh. Tuỳ theo từng địa phương mà lưu truyền các huyền thoại khác nhau về quan Đệ Ngũ. Quan Tuần gốc tích là con rắn thần ở sông Đò Tranh (Hải Dương). Cũng có những nơi gắn Quan Đệ Ngũ với Cao Lỗ, một võ tướng của An Dương Vương hay chính là con trai của Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Tảng, hiện được thờ ở Cửa Ông (Quảng Ninh) và ở Lạng Sơn.

    Các quan lớn trong văn chầu hay khi giáng đồng thường có tính cách quý phái, hùng dũng, nhân từ, hay làm những việc phúc đức nhưng cũng đáng sợ với người trần.

    Các vị đều mặc võ quan, mang kiếm hay kích, mặc võ phục nhưng mầu sắc thì tuỳ thuộc các vị thần thuộc Thoải phủ (trắng), Thiên phủ (đỏ), Nhạc phủ (xanh) hay Địa phủ (vàng). Quan Đệ Tam và Quan Đệ Ngũ đều thuộc Thoải phủ, dòng Long Vương Bát Hải.

    Tứ vị Thánh Bà hay Tứ vị Chầu Bà

    Tứ vị Thánh Bà hay Tứ vị Chầu Bà được coi như là hóa thân, phục vụ trực tiếp của Tứ vị Thánh Mẫu. Tuy gọi là tứ vị Chầu Bà đại diện cho Tứ Phủ, nhưng số lượng các vị Chầu Bà có thể tăng lên tới 12 (3x4), tuy nhiên trong số đó, các Chầu Bà từ Đệ Nhất tới Chầu Lục cùng Chầu Bé thường giáng đồng, được mọi người biết rõ thần tích, có nơi thờ phụng riêng, còn các vị khác thì ít giáng đồng và không mấy người biết tới.

    Chầu Đệ Nhất là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên, Chầu Đệ Nhị là hóa thân của Mẫu Thượng Ngàn, vị Thánh thống soái trong các hàng Chầu, cai quản vùng núi non, sơn cước. Khi giáng Bà mặc sắc phục Mán, màu xanh, đặc trưng cho Nhạc phủ.

    Thuộc Nhạc phủ với Chầu Đệ Nhị còn có Chầu Lục và Chầu Bé. Chầu Lục gốc người Nùng ở Hữu Lũng (Lạng Sơn), Chầu Bé được thờ thành đền riêng ở Bắc Lệ (Lạng sơn). Còn Chầu Mười gốc người Thổ, tương truyền đã có công giúp Lê Lợi đánh tan quân Liễu Thăng, trấn ải vùng Đông Bắc nước ta.

    Đền thờ chính của Chầu Mười tại Đồng Mỏ (Lạng Sơn), nhưng đền thờ vọng Bà thì có ở khắp nơi, từ Đồng Đăng, Kỳ Cùng, Thăng Long, Núi Ngự, Sài Gòn, Vũng Tàu.. tới vùng thượng như Đà Lạt, Buôn Mê Thuột, Plâycu..

    Chầu Đệ Tam là hóa thân của Mẫu Thoải. Đó là vị Thánh có dáng vẻ u buồn, y phục và khăn trùm màu trắng. Chầu Đệ Tứ là vị Thánh giữ vai trò khâm sai Tứ Phủ. Tuy đứng đầu Địa phủ, cũng có khi Bà hóa thân dưới dạng Chầu Thoải phủ, mặc màu trắng, múa mái chèo; khi lại hóa thành Chầu Thiên phủ, mặc áo đỏ, múa quạt (Chầu Đệ Tứ khâm Sai Thượng Thiên).

    Chầu Đệ Ngũ ít khi giáng đồng, trần gian ít người biết tới. Tương truyền Bà là công chúa đời nhà Lý, đi tu ở miền thượng, đền thờ Bà ở Suối Lân, Lạng Sơn. Ngoài ra, người ta còn biết tới các vị Chầu khác, như Chầu Thất - Tiên La thờ ở Hưng Hà, Thái Bình, Chầu Bát Nàn ở Đồng Mỏ, Chầu Cửu ở Bỉm Sơn, Thanh Hóa (Cửu Thiên Huyền Nữ)..

    Nói chung các vị Thánh hàng Chầu phần lớn có nguồn gốc người dân tộc ở vùng núi, thuộc Nhạc phủ, dòng Tiên nữ, đối lập với các Quan thuộc dòng Long Vương Thuỷ phủ. Khi giáng đồng, các Chầu đều ăn mặc theo trang phục dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mường, nhạc chầu văn theo điệu Xá Thượng mang đặc trưng miền núi.

    Dưới hàng Chầu là hàng các ông Hoàng, được gọi tên theo thứ tự từ Ông Hoàng Đệ Nhất tới Ông Hoàng Mười, có hẳn một bản văn chầu 10 Ông Hoàng. Tương truyền, cũng như các Quan, các Ông Hoàng đều có gốc tích là con trai Long Thần Bát Hải Đại Vương ở hồ Động Đình, tuy nhiên, theo khuynh hướng địa phương hóa thì các ông Hoàng đều gắn với một nhân vật nào đó ở cõi nhân gian, những danh tướng có công dẹp giặc, những người khai sáng, mở mang cho đất nước. (5)

    Trong số mười Ông Hoàng thì thường có sáu Ông giáng đồng, trong đó có ba Ông giáng rất thường xuyên, đó là Ông Hoàng Bơ, Ông Hoàng Bảy, và Ông Hoàng Mười. Khi giáng đồng, các Ông Hoàng có phong cách gần giống các Quan Lớn, tuy nhiên có phần hào hoa phong nhã, vui tươi và quan hệ với người trần vui vẻ hơn so với các Quan.

    Hàng Cô được gọi tên từ Cô Đệ Nhất (Cô Cả) đến cô thứ 12 (Cô Bé), đều là các thị nữ của Thánh Mẫu và các Chầu. Tuy nhiên, khi giáng đồng các Cô có thể hóa thân vào các vai trò khác nhau của Tứ Phủ. Có hẳn một bài văn chầu kể về 12 cô. Cô Đệ Nhất là thị nữ của Mẫu Thượng Thiên, ăn mặc rất đẹp, Cô Đôi là thị nữ của Mẫu Thượng Ngàn, giáng đồng với hai bông hoa cài trên mái tóc. Cô Bơ (Ba) thuộc Thuỷ phủ rất nổi tiếng, giáng đồng mặc y phục màu trắng, thắt lưng hồng, múa điệu chèo đò. Cô chữa bệnh cứu người bằng cách ban nước uống, nhưng cũng có thể gieo bệnh nếu kẻ nào dám làm trái những sở thích của Cô. Cô thứ tư là thị nữ của Chầu Đệ Tứ, cô thứ năm thuộc Chầu Đệ Ngũ, nhưng cũng có khi hóa thân với vai trò thị nữ của Mẫu Thượng Ngàn hay Thượng Thiên, cô thường xuất hiện trong các bữa tiệc, Cô thứ sáu thuộc phủ Thượng Ngàn, ăn mặc quần áo chàm, đeo túi hoa, tóc cài hoa rừng, lưng dắt con dao nhỏ, cô hay đi hái cây thuốc chữa bệnh cứu người. Cô thứ Chín là thị nữ của Mẫu Thượng Ngàn, khi giáng đồng Cô nói tiếng Mán, tiếng Mường, múa với bó hương cháy rừng rực trên tay, thêu hoa trên tấm vải. Người ta gắn cho cô trông coi Đền Sòng Sơn, một nơi rất linh thiêng. Cô Bé (Cô thứ mười hai) còn gọi là Cô Bé Bắc Lệ, Cô Bé Thượng Ngàn, có đền thờ riêng ở Bắc Lệ.

    Các Cô được gọi tên theo thứ tự như vậy, nhưng tuỳ theo địa phương, các Cô còn được gọi với các tên gắn với từng vùng, như Cô Bé Bắc Lệ, Cô Cam Đường, Cô Chín Giếng, Cô Đồng Mỏ..

    Các Cậu Quận là những người chết trẻ, từ l - 9 tuổi, hiển linh thành các bé Thánh. Người ta không biết rõ đầy đủ về 10 hay 12 vị thuộc hàng Cậu, họ là các phụ tá của các Ông Hoàng. Thường thì lần lên đồng nào cũng có giá Cậu Bơ (Ba) và Cậu Bé. Đó là những giá đồng với tính cách phóng túng, tinh nghịch, quần áo kỳ cục, lời nói ngọng ngiụ của trẻ con, kèm theo các điệu múa lân hay múa hèo khá sôi nổi.

    Trong điện thần của đạo Mẫu còn có sự hiện diện của Hổ (Ngũ Hổ) và Rắn (Ông Lốt). Nơi thờ thần Ngũ Hổ ở hạ ban, phía dưới điện thờ Công Đồng, còn hình tượng ông Lốt là đôi Bạch xà nằm vắt ngang phía trên điện thờ chính. Trong quan niệm dân gian, Hổ là vị chúa cai quản rừng núi, còn Rắn thần là ở nơi sông nước. Trong hầu đồng, tuy không thường xuyên, nhưng cũng có trường hợp các vị Ngũ Hổ hay Ông Lốt (rắn) giáng đồng.

    Ngũ Hổ cai quản bốn phương và trung tâm, là con vật quyền uy, là thần chiến trận, cứu giúp các chiến tướng trong trận mạc. Trong tín ngưỡng dân gian, Hổ là kẻ thù của ác thần, tà thần, chuyên hãm hại người sống cũng như người đã chết, là vị thần linh canh cửa các ngôi đền. Trong số các ông đồng và bà đồng, một số ít người có căn Quan Lớn Hổ, khi hầu đồng họ thường được các vị thần Hổ giáng. Mọi người có thể cầu xin vị thần Hổ này giúp trừ tà gây dịch bệnh, phòng ngừa trộm cắp.. Khi hầu đồng thần Ngũ Hổ, các ông đồng, bà đồng thường làm các động tác như phun lửa, nhai bó hương cháy, làm các động tác Hổ ngồi, Hổ vồ mồi..

    Trong đạo Mẫu Tứ Phủ, đây đó người ta còn nhắc tới Phủ Trần Triều, một phủ thuần tuý mang tính chất nhân Thần. Bởi thế cần xem xét Đức Thánh Trần cùng với các thuộc hạ của Ông trong hệ thống điện thần Tứ Phủ cũng như trong thực hành tín ngưỡng.

    Về phương diện điện thần, Đức Thánh Trần được coi là một vị Thánh Tứ Phủ. Trong khá nhiều đền, điện của đạo này đều có ban thờ riêng Ông cùng với các thuộc hạ. Tuy nhiên về hàng bậc cũng như phủ của Ông trong Tứ Phủ lại không dễ xác định. Ông là một nam thần. Ông thường được quy về dòng Long Vương, Bát Hải Đại Vương, thậm chí còn được đặt riêng ra thành một phủ Nhân thần, phủ Trần Triều. Về hàng bậc, có lúc Ông được đổng nhất với Vua Cha trong đối sánh với Thần Mẹ, ngày giỗ và lễ hội kèm theo của Ông cũng đồng nhất với ngày giỗ Cha" "tháng Tám giỗ Cha" "cùng với Bát Hải Đại Vương. Nơi thờ Ông ở Kiếp Bạc, có ngọn núi xèo rộng ra ôm lấy thung lũng trước mặt ngôi đền là núi Nam Tào và Bắc Đẩu. Như vậy trong tâm thức dân gian, nghiễm nhiên Ông được coi như là Ngọc Hoàng, một loại Vua Cha cao hơn, bên trên cả Thánh Mẫu. Tuy nhiên, không giống như Vua Cha Ngọc Hoàng hay Vua Cha Bát Hải, các vị chỉ ngự trên điện thần chứ không giáng đồng, các Thánh hàng Mẫu cũng chỉ giáng chứ không nhập đồng (hầu tráng mạn), còn Đức Thánh Trần và một số thuộc hạ của Ông thì lại giáng đồng chuyên để trừ tà, cứu chữa con bệnh, tạo nên hẳn một dòng Thanh đồng phân khác với hình thức hầu đồng của dòng đồng cốt thờ Mẫu. Trong thứ tự giáng đồng của những người có căn Trần Triều thì thường là sau khi Mẫu giáng, và trước các vị Thánh hàng Quan. Đấy là chưa kể hình thức lên đồng để trừ tà thường diễn ra trong dịp lễ tiết của Đức Thánh Trần ở những nơi thờ tự chính của Ông.

    Một vấn đề đặt ra là trong môi trường và điều kiện nào một quý tộc và danh tướng như Trần Quốc Tuấn đã từng lập nên những danh tích của triều đại nhà Trần sau đó lại trở thành Ông Thánh của Đạo giáo, với quyền pháp của một đạo sĩ và thày phù thủy chuyên trừ đuổi ma tà chữa bệnh cho phụ nữ và cũng dần hội nhập vào dòng tôn thờ Thánh Mẫu Tứ Phủ. Theo ý kiến của Giáo sư Trần Quốc Vượng, thời nhà Trần, bên cạnh đạo Phật, Đạo giáo khá thịnh hành, nhiều người thuộc giới quý tộc, hoàng thân cũng là những đạo sĩ, tín đồ đạo giáo, trong đó có Trần Hưng Đạo. Từ sau khi chiến thắng giặc Nguyên - Mông, được phong vương, Ông quay trở về sống ở Kiếp Bạc, vui thú với cảnh sắc thiên thiên, làm thuốc chữa bệnh cứu người. Huyền thoại về việc Ông dùng ma thuật để trừ tà Phạm Nhan chỉ là sự lịch sử hóa, huyền thoại hóa một thực tế Ông là một thầy thuốc có tài chữa bệnh hậu sản, bệnh của phụ nữ. Với lại, trong dân gian, việc chữa bệnh bằng thuốc luôn đi liền với các hành động có tính ma thuật. Bởi vậy, sau khi Trần Hưng Đạo qua đời, danh tiếng và uy tín của Ông đã được huyền thoại hóa, khoác ra ngoài cái vỏ tín ngưỡng và lưu truyền mãi về sau, cho tận tới ngày nay.

    Còn việc Ông trở thành một vị Thánh trong điện thần Tứ Phủ, thậm chí còn đồng nhất Ông với Vua Cha kề cận với Vua Cha trong đối sánh với Thánh Mẫu, thì cũng không có gì khó hiểu. Với tư cách là một vị tướng, một đạo sĩ của Đạo giáo, vốn gốc dòng họ gắn liền với miền sông nước vùng hạ lưu, lại lập những chiến công thuỷ chiến vang dội, Ông dễ được dân gian khoác thêm chiếc áo thần linh, quy về dòng thuỷ thần Long Vương, được thờ phụng cùng với Bát Hải đại vương, vị thần chuyên coi vùng sông nước và biển cả.

    Cũng cần phải phân biệt giữa thờ phụng Đức Thánh Trần với tư cách là một anh hùng dân tộc, một đạo sĩ của dòng Đạo giáo với một Đức Thánh Trần được coi như một Vua Cha trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ. Trong nhiều điện, đền thờ Mẫu Tứ Phủ có ban thờ Đức Thánh Trần, nhưng ngược lại, trong các đền thờ chính của ông ở Kiếp Bạc, Bảo Lộc, Cổ Trạch.. thì hầu như không có Mẫu và điện thần thờ Mẫu. Như vậy rõ ràng việc tôn thờ Đức Thánh Trần với những đặc tính tiềm tàng của nó như đã trình bày trên, một phần đã được thu hút và hội nhập vào tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ, nhất là ở những giai đoạn muộn của nó. Điều đó cũng góp phần giải thích vì sao sự hội nhập này không diễn ra đều khắp mọi nơi. Chỉ xin đơn cử ở Phủ Giầy, nơi trung tâm của đạo Mẫu, thì trong điện thần phối tự, vai trò của Đức Thánh Trần và kể cả Vua Cha Bát Hải đại vương đều khá mờ nhạt. Trong khi đó thì Lý Bôn với vai trò là Vua Cha, vị thuỷ thần, thì có tới hai đền, một ở Tiên Hương, một ở Vân Cát, đều gọi là Đền Vua nằm kề sát phủ trong quần thể các đền của Phủ Giầy. Tháng 8 hàng năm là kỳ giỗ kỵ ở Đền Vua, giống như vua Cha ở Đền Đồng Bằng (Thái Bình) và Kiếp Bạc (Hải Dương), nơi thờ Vua Cha Bát Hải và Đức Thánh Trần.

    Cùng với Đức Thánh Trần, con trai, hai vương cô và các vị tướng của Ông cũng có thể giáng đồng, tuy những trường hợp như vậy rất hãn hữu. Con trai của Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Tảng thờ ở đền Cửa Ông (Quảng Ninh), tướng Phạm Ngũ Lão thờ ở đền Phù Ủng (Bắc Ninh), đặc biệt là người con gái là Vương Cô Đệ Nhất và Vương Cô Đệ Nhị được nhập vào hàng Cô của đạo Tứ Phủ, luôn luôn hầu cận hai bên Thánh Cha (5).

    *

    Ở phần trên, chúng tôi cố gắng hệ thống lại điện thần của Đạo Mẫu Tứ Phủ mang tính chung và ước lệ nhất. Tuy nhiên, với các địa phương thì trên cái khung chung đó, sự sai biệt mang sắc thái địa phương là một thực tế hiển nhiên. Nói chung, điện thần và phối tự trong các đền Mẫu ở Nam Bộ không có mấy sai biệt (ở đây chỉ nói đền thờ Mẫu Tứ Phủ, còn các đền thờ khác Mẫu khác như Bà Đen, Bà Chúa Xứ thì không thuộc hệ thống này) so với các đền thờ Mẫu ở Bắc Bộ. Có chăng trong điện thần ta thấy có thêm một số các vị Thánh địa phương, như Lê Văn Duyệt, được coi như là một vị Thánh hàng Quan, có vai trò trừ ma tà như Quan Tuần, Đức Thánh Trần ở ngoài Bắc. Bà Chúa Xứ cũng có lúc giáng đồng trong các đền thờ Mẫu Tứ Phủ, được coi như vị Thánh Mẫu hàng Chúa (Chầu)..

    Điện thần ở Điện Hòn Chén, trung tâm thờ Mẫu ở Huế cũng như một số ngôi đền khác, về cơ bản vẫn là Thờ Mẫu Tứ Phủ, tuy nhiên sắc thái địa phương thì thể hiện rõ rệt hơn. Trước nhất, nếu như trong điện thờ Tam vị Thánh Mẫu, Mẫu Thượng Thiên hay Mẫu Liễu ngồi chính giữa, thì trong tất cả các đền ở Huế thay bằng Thánh Mẫu Thiên Ya Na, một nữ thần nguồn gốc Chăm (Mẹ Xứ Sở) đã bị Việt hóa. Hai bên tả và hữu của Mẫu Thiên Ya Na là Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn. Có một số ít ngôi đền, trong đó có Hòn Chén thì có ban thờ Thánh Mẫu Liễu cùng với Quế Hoa và Quỳnh Hoa được thờ thấp hơn phía trước Tam vị Thánh Mẫu đã kể trên. Hàng các vị Thánh Bà (hàng Chầu) được gọi theo tên Ngũ Hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ: Đệ Nhất Kim Tinh thần nữ, Đệ Nhị Mộc Tinh thần nữ, Đệ Tam Thuỷ Tinh thần nữ, Đệ Tứ Hỏa Tinh thần nữ và Đệ Ngũ Thổ Tinh thần nữ. Trong hàng thất thánh (7 vị Thánh) tương đương như hàng quan thì ở Huế có thờ Vua Đồng Khánh, nguyên là tín đồ Đạo Mẫu, là vị vua đầu tiên thừa nhận tính chính thống của Đạo Mẫu, người bỏ tiền của ra để xây dựng và tôn tạo các điện Hòn Chén thờ Mẫu ở Huế. Trong khá nhiều ngôi đền, điện, bên cạnh tượng Ngọc hoàng như các đền ngoài Bắc, thì thường có thêm tượng Quan Thế Âm, ban thờ Quan Thánh, thậm chí có nơi còn thờ Bản Thổ Thành Hoàng..

    Như vậy là điện thần thờ Mẫu cao nhất ở Huế về cơ bản vẫn là Mẫu Tứ Phủ, nhưng vị Thánh Mẫu cao nhất, Thánh Mẫu Thiên Ya Na thì lại là kết quả của sự giao thoa văn hóa Việt - Chăm. Thực ra, ở người Việt, người Chăm, Khơme và nhiều dân tộc khác ở Việt Nam và Đông Á đều có nét văn hóa chung là tôn thờ nữ thần, tôn vinh vị thần cội nguồn của đất nước và dân tộc là Nữ thần, gọi là Thánh mẫu - Thần Mẹ. Nếu người Việt có Tam Tòa Thánh Mẫu, Mẫu Liễu được tôn vinh là Mẫu Nghi Thiên Hạ, thì người Chăm có vị thần xứ sở Pô Inư Nưgar, Thiên Ya Na. Khi vượt sông Gianh vào đất trung và nam Trung Bộ, người Việt đã tiếp thu và Việt hóa nhiều yếu tố văn hóa Chăm, trong đó có Nữ thần Xứ sở, Bà Mẹ xứ sở của Chăm thành Mẫu của người Việt. Tục thờ Mẫu ở Hòn Chén và Tháp Bà (Nha Trang) chính là thể hiện quá trình hỗn hợp dung và giao lưu văn hóa đó.

    *

    Ở miền Bắc cũng như trong Nam, bên cạnh các đền thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ phủ, mà điện thần của nó chúng tôi đã giới thiệu ở trên, thì còn tồn tại một hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu thần nằm ngoài hệ thống Mẫu Tam Phủ, được gọi với những tên, như Bà Chúa (Bà chúa Xứ), Bà Đen hay Linh Sơn Thánh Mẫu, thờ Bà (Tháp Bà ở Nha Trang) Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Động, Bà Thủy, Bà Hỏa, Bà Thiên Hậu, Tống Hậu, các đền thờ Vương Mẫu (Mẹ Thánh Gióng), Quốc Mẫu (đền thờ Mẹ Âu Cơ) và Thánh Mẫu khác (Ỷ Lan). Tuy với những tên gọi khác nhau, nhưng đều có nguồn cỗi chung từ tục thờ các Nữ thần. Tuy nhiên, không phải nữ thần nào cũng thành Bà, thành Chúa và đặc biệt là thành Mẫu. Chúng tôi cũng đã tiến hành khảo sát một số đền thờ Mẫu cũng thuộc loại trên ở miền Bắc, như Đền thờ Vương Mẫu (Mẹ Thánh Gióng) ở Phù Đổng, đền thờ Ỷ Lan Thánh Mẫu ờ Dương Xá, Gia Lâm, đền thờ Tống Hậu Quốc Mẫu ở Hải Hậu (Nam Định).. Trên cơ sở những khảo sát như vậy, bước đầu có nhận xét sau:

    - Việc thờ Mẫu kể trên nẩy sinh và phát triển trên cơ sở thờ Nữ thần, nó thuộc loại hình tín ngưỡng thờ thần mà có người gọi là Thần Đạo, một đạo mang bản sắc Việt Nam rõ rệt nhất.

    - Tuy không hoàn toàn thuộc Đạo Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ, một biến thể của đạo giáo Việt Nam, nhưng giữa tục thờ Mẫu này và đạo Mẫu Tứ Phủ có những nền tảng chung là tôn thờ Nữ thần và thờ Mẫu thần, có sự thâm nhập và ảnh hưởng qua lại, trong đó nổi bật là tục thờ Mẫu thần và Nữ thần đều tiếp thu ảnh hưởng trở lại của Mẫu Tam phủ, Tứ Phủ, thể hiện qua điện thờ, nghi lễ thờ cúng, tục lên đồng và lễ hội.

    Từ việc xem xét hệ thống điện thần đạo Mẫu có thể rút ra một số nhận xét sau:

    L. Hệ thống thần linh Tam phủ, Tứ Phủ gồm các Thiên thần và nhân thần, là các vị thần linh có nguồn gốc nhân thần hay thiên thần. Tuy nhiên, xu hướng" "nhân thần hóa" "và" "lịch sử hóa" "là xu hướng chính trong quá trình" "thêu dệt" "nên thần tích các vị Thánh này. Vị Thánh Mẫu Liễu Hạnh ra đời chậm trễ nhất trong số các Thánh Mẫu, nhưng thần tích của Bà cũng được người đời" "trần thế hóa"... "

    " Địa phương hóa" "và" "lịch sử hóa" "một cách khá trọn vẹn, để từ đó Bà bước lên ngôi thứ cao nhất trong điện thần Tứ Phủ. Còn biết bao vị thần khác đều có nguồn gốc xuất thân, lý lịch" "nhập thể" với bao công lao, kỳ tích, gắn liền với lịch sử giữ nước và dựng nước của dân tộc, tạo cho nó trờ thành một biểu tượng của lòng yêu nước mang đầy tính tâm linh. Cũng chính vì thế họ đều là các phúc thần, có thể xua đuổi các tà mà, mang lại tài, lộc, sức khoẻ cho con người.

    2. Các thần linh Tứ Phủ còn được phân thành một bên là các nữ thần và bên kia là nam thần, tuy thứ bậc chính của mỗi vị Thánh trong điện thần phụ thuộc vào việc họ thuộc hàng nào từ trên xuống dưới, như Thánh Mẫu - Vua Cha, các Quan, các Chầu, Ông Hoàng, các Cô Cậu hay thuộc phủ nào mà họ cai quản: Thiên phủ, Thuỷ phủ, Nhạc phủ hay Địa phủ. Về phương diện hữu thức là như vậy, nhưng nếu chúng ta đi sâu vào tầng vô thức thì việc phân chia trên lại bao hàm một ý nghĩa sâu xa nào đó.

    Tuy là đạo thờ Mẫu, và Mẫu là vị thần có quyền năng sáng tạo tối thượng, nhưng trong điện thần, các vị thần vẫn chia thành dòng Cha và dòng Mẹ. Thánh Mẫu với các hóa thân trực tiếp là các Chầu và những người giúp việc là các Cô. Còn bên kia là Vua Cha và thuộc dòng Vua Cha là các quan, các Ông Hoàng và Cậu. Tất nhiên, sau này trong quan niệm dân gian, tuy Mẫu là một, là" "nhất thể" "nhưng lại hóa thân thành" tam vị" "Thiên, Địa, Thuỷ, hay Vua Cha cũng chỉ có một, sau lại chia thành Vua Cha Thuỷ phủ, Vua Cha Nhạc phủ, Vua Cha Thiên phủ, Vua Cha Địa phủ. Nhưng cuối cùng, thuỷ tổ của Thánh Mẫu vẫn là dòng Tiên, còn thuỷ tổ của Vua Cha vẫn là dòng Long Vương - dòng Rồng, mà cái đó người Việt đã khái quát trong huyền thoại suy nguyên: Lạc Long Quân và Âu Cơ. Cũng bởi lẽ đó, hội thờ Đức Thánh Tiên Mẫu tức Giỗ Mẹ vào tháng ba, còn ngày hội Vua Cha tức giỗ Cha vào tháng Tám" Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ "

    Một khía cạnh khác của giới tính các thần linh trong điện thờ Tứ Phủ là số lượng các vị Thánh trong mỗi hàng. Thuộc dòng Mẫu - Mẹ, ta thường thấy Tứ vị Thánh Mẫu, Tứ vị Chầu Bà, rồi cũng có thể tăng lên Bát vị Chầu Bà, thậm chí 12 vị Chầu. Đối với hàng Cô, ta cũng thường gặp các con số 4, 6, 8, 12. Như vậy, thuộc dòng Thánh Mẫu, ta thấy số lượng các vị thần trong mỗi hàng là chẵn: 4, 6, 8, 12. Còn với dòng Vua Cha, Nam thần, thì có Ngũ vị tôn Ông, rồi Thập vị Tôn Ông, Ngũ vị Ông Hoàng hay Thập vị Ông hoàng, tức là con số lẻ và bội số của nó, tức 5 và 10..

    Có thể giải thích hiện tượng các con số này từ quan niệm dân gian về con số thiêng, trong đó con số lẻ là con số" "cơ" "(cố định) gắn với dương, đực, đàn ông, nam tính, còn con số chẵn là con số" "ngẫu" "(không cố định), gắn với âm, cái, nữ tính. Đây là những con số mang tính biểu tượng, thiêng liêng, thể hiện tính lưỡng phân lưỡng hợp giữa dòng vua Cha và các Nam thần, Thánh Mẫu và các Nữ thần.

    3. Từ việc xem xét hệ thống điện thần, tên gọi mỗi vị thần linh, cách thức bài trí thờ cúng trong các đền, điện, ta thấy toát lên những biểu tượng mang ý nghĩa vũ trụ quan, nhân sinh quan sâu sắc. Trước nhất, điện thần Tứ Phủ là một mô thức vũ trụ thu nhỏ với hai cặp Thiên - Địa, Rừng Núi - Sông Nước (Sơn - Thủy), trong đó cặp Thiên - Địa (dương - âm, đực - cái) là cặp trụ cột của hệ thống Tứ Phủ. Cũng từ đây gắn với các quan niệm về tứ phương, ngũ phương, ngũ hành (Bà Mộc, Bà Thủy, Bà Hỏa, Bà Kim, Bà Thổ). Trong một vũ trụ được quan niệm như vậy Mẫu - Mẹ, nữ tính thâu tóm quyền năng sáng tạo, sinh sôi và bảo trữ. Đó là một vũ trụ mang tính" "nhất nguyên" "(nguyên lý Mẫu) nhưng" "lưỡng cực" (âm - dương, nữ tính - nam tính). Ở đây một lần nữa chúng ta thấy việc thờ nữ thần chính là cách nhân hóa việc thờ các lực lượng tự nhiên.

    Ở tầm vĩ mô, Tam phủ, Tứ Phủ đồng nhất với vũ trụ, trời đất, còn ở tầm vi mô, Tứ Phủ lại mô phỏng như một gia tộc, theo quan niệm truyền thống" "nhân thân tiểu thiên địa" ". Hơn thế nữa, đó còn là một gia tộc đã được cung đình hóa. Cao nhất có Cha - Mẹ, Vua Cha - Thánh Mẫu, có các quan, các Chúa, các Ông Hoàng, có các Cô, các Cậu.. Lễ tiết thì có" tháng giỗ Cha, tháng giỗ Mẹ ". Cô, Cậu đều là các vị thánh hiển linh từ những chàng trai, cô gái chết trẻ, mà không phải khó khăn lắm để có thể nhận ra một hình thức thờ Bà cô, Ông mãnh của bất cứ gia tộc, dòng họ nào.

    Cung đình hóa một điện thần là điều dễ nhận biết nhất, thông qua cách thức bài trí, hệ thống xưng hô, trang phục của các linh tượng và của các vị Thánh khi giáng đồng. Đấy là chưa kể, các thần tích của khá nhiều vị Thánh đều được gắn cho các chức vị, nào là công chúa, hoàng tử của các triều đình kể từ thời Hùng Vương đến sau này, nào là các quan văn, quan võ lừng danh một thời. Cách bài trí nào" tam tòa "..."

    Lục viện" ", y hệt triều đình phong kiến nhà Nguyễn. Tất cả những cái đó đều nói lên một điều khi con người tạo ra thần thánh cho mình thì chính mô thức xã hội con người lại trở thành hệ quy chiếu cho" "xã hội" "thần thánh (6).

    - -

    Đạo thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian có từ lâu đời và đặc biệt là rất thuần Việt, nói đến Đạo Mẫu người ta có thể liên tưởng ngay đến việc tôn vinh những vị nữ thần tối cao là Thánh Mẫu hay Quốc Mẫu. Tuy nhiên, trong đạo thờ Mẫu không chỉ thờ riêng các vị Mẫu mà còn tôn thờ cả một hệ thống các vị Thánh (thường gọi là: Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn Linh) với một trật tự chặt chẽ mà trật tự này được thể hiện trong các giá hầu đồng thỉnh các vị Thánh Mẫu, Chúa Bà, Quan Lớn, Chầu Bà, Quan Hoàng, Tiên Cô, Thánh Cậu theo trật tự nhất định. Sau đây, Ad sẽ giới thiệu sơ qua hệ thống các vị thánh thần trong Đạo Mẫu

    1. PHỤ VƯƠNG ĐẠI THÁNH

    Trong các đền phủ của Đạo Mẫu, luôn có rất nhiều ban thờ các vị thần thánh, và trước tiên ta phải kể đến vị thần tối cao nhất là Ngọc Hoàng Đại Đế, tuy nhiên khi thỉnh đồng không thỉnh Ngọc Hoàng Đại Đế mà chỉ thờ cúng với hai vị quan ở hai bên là Nam Tào và Bắc Đẩu, tiếp theo là Vua Cha Bát Hải Động Đình với hai bà hầu hai bên.

    Các vị Phụ vương đại thánh gồm:

    - Ngọc Hoàng thượng đế (Thiên phủ)

    - Bát hải long vương (Thoải phủ)

    - Tản viên Sơn thánh (Nhạc phủ)

    - Thập diện minh vương (địa phủ)

    2. BẢO HỘ DÂN QUỐC THÁNH MẪU

    Bốn vị Thánh Mẫu là bốn vị Thánh tối cao nhất của đạo Mẫu, khi hầu đồng người ta phải thỉnh bốn vị Thánh Mẫu trước tiên rồi mới đến các vị khác, tuy nhiên có một điều là khi thỉnh mẫu người hầu đồng không bao giờ mở khăn phủ diện mà chỉ đảo bóng rồi xa giá, đó là quy định không ai được làm trái và hầu như thế người ta gọi là" hầu tráng mạn "hay các cụ đồng cao tuổi gọi là" Trải qua xem rạng ", sau giá Mẫu, từ hàng Trần Triều trở đi mới đựoc mở khăn hầu đồng; cũng theo sách cổ thì vì bốn giá Mẫu lại hóa thân vào bốn giá Chầu Bà từ Chầu Đệ Nhất đến Chầu Đệ Tứ, nên coi như Bốn giá Chầu Bà là hóa thân của Bốn giá Mẫu.

    - Mẫu đệ nhất (Thiên phủ) danh hiệu Thanh vân công chúa

    - Mẫu đệ nhị (Địa phủ) danh hiệu Liễu hạnh công chúa

    - Mẫu đệ tam (Thoải phủ) danh hiệu Xích lân công chúa

    - Mẫu đệ tứ (Nhạc phủ) danh hiệu Sơn lâm công chúa

    3. NGŨ VỊ TÔN QUAN

    - Quan lớn đệ nhất thượng thiên: Quyền cai Thiên phủ trên trời, là thần làm mưa làm gió, là quan trong cung điện Ngọc hoàng, mặc áo màu đỏ

    - Quan Lớn đệ nhị Thượng ngàn: Quyền cai rừng núi Lâm cung, lên rừng xuống biển tâu về Bát hải long vương, ông là vị giám sát trước để đánh trận xông pha, ông mặc áo màu xanh

    - Quan Lớn đệ tam thoải phủ: Là con vua Bát hải long vương, ông mặc áo bào màu trắng, cầm đôi bạch kiếm đi xông pha quỷ thế tà giới

    - Quan lớn đệ Tứ Khâm Sai: Là quan Địa linh quyền cai đất bằng, ông có trách nhiệm đi khâm sai các vùng dân, giữ an lành nước Việt, ông mặc áo màu vàng

    - Quan Lớn đệ Ngũ Tuần Tranh: Là quan lớn, mặc áo bào màu xanh biển, cầm thanh long đao to

    * Lục phủ tôn ông:

    - Đệ nhất vương quan. Danh hiệu Quan điều thất

    - Đệ thập vương quan. Danh hiệu Quan Hoàng triệu

    4. TỨ PHỦ CHẦU BÀ

    Tứ vị Thánh bà hay Tứ Vị Chầu Bà được coi là hóa thân phục vụ trực tiếp của Tứ Vị Thánh Mẫu. Tuy gọi là Tứ Vị Chầu Bà đại diện cho Tứ phủ, nhưng số lượng các vị thánh Chầu có thể tăng lên tới 12. Tuy nhiên trong số đó các Chầu bà từ Đệ Nhất tới Chầu Lục cùng Chầu bé thường hay giáng đồng, được biết đến rõ thần tích, có nơi thờ phụng riêng, còn các vị thánh khác ít giáng đồng và không mấy người biết tới

    - Chầu Đệ Nhất (hóa thân thánh mẫu Thượng Thiên). Thiên phủ

    - Chầu Đệ Nhị (Nhạc phủ) : Danh hiệu Ngôi kiều công chúa

    - Chầu Đệ Tam (hóa thân Mẫu Thoải) Thoải phủ: Danh hiệu Thủy Điện công chúa

    Chầu Thác Bờ (Thoải phủ, Nhạc phủ) : Có người hầu giá thứ 3, tức là chầu đệ tam, bà chúa Thác bờ.

    - Chầu Đệ Tứ khâm sai Tứ phủ (địa phủ) : Danh hiệu Chiêu dung công chúa. Đình Cốc thượng là nơi tôn thờ Chiêu dung công chúa Lý Ngọc Ba

    - Chầu Ngũ thờ ở Suối Lân, Lạng Sơn (Nhạc phủ) : Danh hiệu Suối Lân công chúa

    - Chầu Lục (Nhạc phủ) Danh hiệu Lục cung công chúa

    - Chầu Bảy (Nhạc phủ) Danh hiệu Tân la công chúa

    - Chầu Bát thờ ở Tiên La Thái Bình (Nhạc phủ) : Danh hiệu nữ tướng Bát nàn

    - Chầu Cửu (Cửu Huyền Thiên Nữ - Bỉm sơn - Thanh Hóa)

    - Chầu Mười ở Mỏ Ba (Đồng Mỏ - Chi Lăng) Nhạc phủ: Danh hiệu nữ tướng Đồng mỏ Chi lăng

    - Chầu bé ở Bắc Lệ (Nhạc phủ) Danh hiệu Chầu bé Bắc lệ

    - Chầu bà Bản đền: Danh hiệu thủ điện công chúa

    5. THẬP VỊ THỦY TẾ

    Trong dòng tranh dân gian Hàng Trống có một bức tranh vô cùng nổi tiếng trong loại tranh thờ đó là" Ông Hoàng cầm quân". Bức tranh đã miêu tả một vị thánh đại diện cho một hàng trong Tứ Phủ đó là các Ông Hoàng hay Quan Hoàng. Cũng như hàng Quan Lớn, các Ông Hoàng cũng đều là những hoàng tử hay danh tướng có tài giúp dân giúp nước nên được nhân dân thờ phụng. Hàng Ông Hoàng gồm

    - Ông Hoàng Cả (Thiên phủ) : Danh hiệu ông Hoàng quận, Lê Lợi

    - Ông Hoàng Đôi (Người Mán) : Nhạc phủ

    - Ông Hoàng Bơ thoải cung

    - Ông Hoàng Tư (Thoải phủ) Danh hiệu ông Hoàng khâm sai

    - Ông Hoàng Năm

    - Ông Hoàng Lục Thanh Hà

    - Ông Hoàng Bảy (Nhạc phủ) danh hiệu ông Hoàng Bảo Hà

    - Ông Hoàng Bát quốc (Thoải phủ) danh hiệu Ông Đệ bát đồng bằng sông diêm

    - Ông Chín Cờn (Thiên phủ) danh hiệu ông Cờn môn

    - Ông Hoàng Mười (địa phủ) danh hiệu ông Nghệ an

    6. TỨ PHỦ TIÊN CÔ

    Tứ Phủ Tiên Cô là một hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu, Chúa Mường, Chầu Bà. Các Tiên Cô đều là những cô gái đoan trang, gương liệt nữ, cũng có công với giang sơn xã tắc nên được nhân dân suy tôn và lập đền thờ phụng. Tứ Phủ Tiên Cô gồm

    - Cô cả Thượng Thiên (thiên phủ)

    - Cô Đôi Thượng Ngàn (Nhạc phủ)

    - Cô Bơ Hàn Sơn (Thoải phủ) tức là cô bơ bông, cô bơ Tây hồ

    - Cô Tư Ỷ La (địa phủ)

    - Cô Năm Suối Lân (nhạc phủ)

    - Cô Sáu Lục cung (Nhạc phủ)

    - Cô Bảy Kim Giao (nhạc phủ)

    - Cô Tám Đồi Chè (nhạc phủ)

    - Cô Chín thượng ngàn

    - Cô Chín Giếng (cô 9 Sòng)

    - Cô Mười Đông mỏ (nhạc phủ)

    - Cô bé:

    Cô bé Thượng ngàn

    Cô bé Đông Cuông (Nhạc phủ)

    Cô Bé Suối Ngang (Hữu lũng). Nhạc phủ

    Cô Bé Thoải phủ

    - Cô Bản đền bản cảnh:

    Cô cả núi Dùm

    Cô cả Bắc Ninh

    Cô đôi cam đường (nhạc phủ)

    Cô Bé Sa Pa

    Cô Bé Thạch Bàn

    Cô Bé Chín tư - cô bé lục cung

    Cô Bé Bắc Nga

    Cô Bé Tân An

    Cô Bé Xương Rồng, cô bé Xương Long

    Cô Bé Cấm Sơn, Lào Cai

    Cô bé Đèo Kẻng (Thất ô)

    Bé Tân An (Lào cai)

    Cô bé Cây xanh (Bắc Giang)

    Cô bé Nguyệt hồ (Bắc Giang)

    Cô bé Minh Lương (Tuyên Quang)

    Cô Bé Tây Hồ

    Cô bé Thác Bờ (hòa Bình) Thoải phủ

    Cô bé Thoải phủ (Thoải phủ)

    Cô bé Đồng Đăng

    Cô bé Mỏ Than

    Cô bé Bản Đền

    Cô bé Den (Cô bé Sóc) : Nhạc phủ

    7. THẬP VỊ TRIỀU CẬU

    Tứ phủ Thánh Cậu là những người chết trẻ, từ 1- 9 tuổi, hiển linh thành các bé Thánh. Người ta không biết rõ đầy đủ về 10 hay 12 vị thuộc hàng Cậu, họ là các phụ tá của các Ông Hoàng. Thường thì lần lên đồng nào cũng có giá Cậu bơ (ba) và Cậu bé. Đó là những giá đồng có tính cách phóng túng, nghịch ngợm, quần áo kỳ cục, lời nói ngọng ngiụ của trẻ con, kèm theo các điệu múa lân hay múa hèo khá sôi nổi

    Tứ phủ Thánh Cậu gồm có:

    Cậu Hoàng Cả Phủ Giầy (Thiên phủ)

    Cậu Hoàng Cả Sòng Sơn

    Cậu Hoàng Đôi (Nhạc phủ)

    Cậu Hoàng Bơ (Thoải phủ)

    Cậu Hoàng Tư

    Cậu Hoàng Năm

    Cậu Hoàng Bé Đồi Ngang (Cậu Hoàng Quận) Nhạc phủ

    Ngoài ra ở mỗi bản đền lại có một cậu bé coi giữ gọi là cậu bé bản đền, trong đó thường hay ngự đồng như: Cậu Bé Phủ Bóng, Cậu Bé Đông Cuông..

    8. NGŨ HỔ & ÔNG LỐT

    - Ngũ hổ:

    Trong điện thần Đạo Mẫu có thờ Ngũ Hổ, biểu tượng Sơn thần, trấn giữ Ngũ Phương.

    Tượng Ngũ Hổ thường được thờ ở Hạ Ban, tức bàn thờ phía dưới của ban thờ Công Đồng. Lễ vật dâng thường là thịt sống, Trứng vịt cũng có khi thần Ngũ Hổ nhập đồng.

    Hắc Hổ trấn giữ phương bắc

    Bạch Hổ trấn giữ phương tây

    Hoàng Hổ trấn giữ trung tâm

    Thanh Hổ trấn giữ phương đông

    Xích Hổ trấn giữ phương nam

    - Ông Lốt (rắn) :

    Là biểu tượng của Thuỷ Thần, thường là cặp rắn trắng (Bạch Xà) và rắn xanh (Thanh Xà), linh tượng lưỡng xà nằm vắt ngang phía trên ban thờ Công Đồng.

    Thanh Xà Đại tướng quân

    Bạch xà đại tướng quân

    [​IMG]
     
    Thùy Minh thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...