Đặc điểm của tinh thần yêu nước trong văn học trung đại Việt Nam thế kỉ X - XIV

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Ngân Ngân08, 12 Tháng năm 2023.

  1. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    178
    1. Mở đầu.

    Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói rằng: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta ." [5-tr. 24] . Dù là trong quá khứ hay là hiện tại và tương lai; dù bất cứ ai trong bất cứ hoàn cảnh nào, đều mang trong mình một tình cảm đặc biệt mà thiêng liêng vô cùng, đó chính là tấm lòng yêu nước. Tình cảm ấy khi thì nồng nàn, dạt dào, khi thì cháy bỏng, sôi sục. Trong văn học thế kỉ V đến thế kỉ XIV, tinh thần yêu nước được biểu hiện rất rõ trong các tác phẩm văn học.

    2. Nội dung

    2.1 Một số vấn đề khái quát.

    Chủ nghĩa yêu nước cùng chủ nhân đạo là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong văn học Trung đại Việt Nam, là nguồn cảm hứng bất tận cho các tác giả sáng tác.

    Theo Wikipedia, chủ nghĩa yêu nước có thể định nghĩa: "Chủ nghĩa yêu nước (hay chủ nghĩa ái quốc, lòng yêu nước, tinh thần yêu nước) là cảm xúc, tình cảm, tinh thần yêu thương, tích cực về quê hương, đất nước hay cội nguồn của một cá nhân hay tập thể, trong đó quê hương có thể là một vùng, một thành phố nhưng thông thường thì khái niệm này gắn với khái niệm quốc gia. Nó gồm những quan điểm như: Tự hào về thành tựu hay văn hóa của quê hương, mong muốn được cống hiến hết mình cho quê hương đất nước." [10-tr. 1] . Trong mỗi thời điểm khác nhau và mỗi người khác nhau sẽ có quan điểm riêng về tinh thần yêu nước, các tác giả trong các tác phẩm của mình cũng có cách nhìn nhận, đánh giá riêng về tinh thần yêu nước, và biểu hiện yêu nước trong các tác phẩm văn học của họ không giống nhau, độc đáo và ý nghĩa.

    Chủ nghĩa yêu nước hay tinh thần yêu nước biểu hiện rất phong phú và đa dạng trong văn chương từ thế kỉ V đến thế kỉ XIV qua nhiều phương diện khác nhau. Đây cũng là giai đoạn lịch sử đất nước ta xây dựng và bảo vệ vững chắc nền độc lập của dân tộc trước sự xâm lăng của các triều đại phong kiến Trung Quốc, bên cạnh tinh thần yêu nước trong thời kì chiến tranh còn có tinh thần yêu nước khi đất nước hòa bình.

    2.2 Khẳng định Đại Việt là một quốc gia độc lập, chủ quyền.

    Về phương diện khẳng định Đại Việt là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, trong văn học, có thể kể đến một vài tác phẩm tiêu biểu như Lĩnh nam chích quái, Nam quốc sơn hà, Chiếu rời đô.. Tác phẩm Lĩnh nam chích quái lục là một tác phẩm văn học dân gian đầu tiên của Việt Nam. Có ý kiến cho rằng Lĩnh nam chích quái có thể do Trần Thế Pháp soạn vào cuối thế kỉ XIV. Nội dung của tác phẩm chủ yếu nói về các thần thoại cổ như: Lạc Long Quân và Âu Cơ, Tiên Dung và Chử Đồng Tử, Mị Châu Trọng Thủy, Lý Ông Trọng.. các thần thoại cổ này trong Lĩnh nam chích quái tương đồng với số phận của nền văn hóa Đại Việt, nền văn hóa dân tộc. Bất luận những người biên soạn đầu tiên Lĩnh Nam chích quái theo một triết thuyết tôn giáo hay đạo đức xã hội nào, bất luận những người sao chép, tăng bổ, bình luận sau này suốt thời kì trung đại theo chính kiến nào, quy thức văn chương nào, thì tư tưởng thống soái của họ khi xây dựng, tiếp cận tác phẩm này đó là tư tưởng ái quốc. Trong sự tồn tại tổng thể của nó, Lĩnh nam chích quái chính là một tượng đài kì diệu cho tư tưởng yêu nước.

    Trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc, tư tưởng độc lập dân tộc được khởi phát từ khởi nghĩa Hai Bà Trưng (thế kỉ I), Bà Triệu (thế kỉ III) bắt đầu có thành quả bởi Lý Bôn (thế kỉ VI) và đã là hiện thực lịch sử chắc chắn với Ngô Quyền (thế kỉ X), đất nước ta bước vào kỉ nguyên Đại Việt với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc quốc gia phong kiến độc lập, lần lượt chiến thắng những thế lực xâm lược lớn nhất thời đại là Tống, Nguyên, Minh. Một đất nước có văn hiến, một nhân dân tự ý thức được quyền độc lập dân tộc đó là nhiệm vụ tư tưởng quan trọng bậc nhất của thời đại bấy giờ. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến và các cuộc khởi nghĩa vừa là điều kiện vừa là hệ quả của tư tưởng đó. Không có lịch sử thì không có dân tộc. Nói Lĩnh Nam chích quái là "sử trong truyện" chính là bao hàm ý nghĩa đó.

    Với 22 cốt truyện nhỏ, dù sắp xếp theo trình tự nào thì Lĩnh nam chích quái cũng trình diễn trước chúng ta ý thức về truyền thống lịch sử riêng của đất nước từ buổi hồng hoang đến những câu chuyện xảy ra ở thời đại nhà Trần. Sau này, các bậc túc nho giàu nhiệt huyết có bổ sung thêm bao nhiêu đi nữa thì vẫn theo tư tưởng đó: Đây là những câu chuyện được truyền ở cõi Lĩnh Nam, khác với Trung Hoa. Trong tác phẩm này, bên cạnh những truyền thuyết ở thời thái cổ kể về sự hình thành giống nòi như Truyện họ Hồng Bàng, gầy nước dựng non hay sự tích về những nhân vật mà sau này vẫn được nhắc đến trong các cuốn sách sử thời trung đại như Truyện rùa vàng, Truyện dưa hấu, Truyện Phù Đổng Thiên Vương.. ; còn có những câu chuyện gắn liền với sự ra đời của những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc được bảo lưu suốt ngàn đời nay như Truyện trầu cau, Truyện bánh chưng . Điều này chứng tỏ rằng từ rất lâu rồi, nước ta đã là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, văn hóa riêng, mang đậm đà bản sắc dân tộc.

    2.3 Khẳng định Đại Việt là quốc gia có lịch sử, văn hiến, nhiều nhân tài hào kiệt.

    Không chỉ có Lĩnh nam chích quái lục mà còn có rất nhiều tác phẩm khác trong thế kỉ V đến thế kỉ XIV đã khẳng định lịch sử, văn hiến cùng nhân tài hào kiệt như Việt điện u linh tập, Tam tổ thực lục, Thiền uyển tập anh.. Việt điện u linh tập là một tác phẩm rất có giá trị không nhỏ trong giới văn học, tác phẩm gồm nhiều câu chuyện nhỏ, nói về đế vương, phụ thần, hào khí anh linh.

    Trước hết, tác giả đã biểu dương vĩ tích của những bậc đế vương đã thấu triệt nhiệm vụ của mình và đã hy sinh thân thế để mang lại hạnh phúc cho dân Việt. Ở trong truyện Hai bà trưng, Nhị Trưng cho dù là nữ nhi nhưng đã liên kết được với hào kiệt ở khắp nơi, đánh đuổi quân Hán xâm lược, Đến tác giả cũng phải thán phục mà nói rằng: "Một mai mà hạ năm mươi sáu thành, dũ xiêm Bách Việt, trở mặt phương nam mà xưng Cô, cùng với Triệu Vũ Đế, Lý Nam Đế không hơn không kém, khiến cho đời sau đều tôn xưng là Vương" [3-tr3] . Việc Nhị Trưng được Thượng đế sai xuống trần làm mưa chứng tỏ Nhị Trưng vẫn tiếp tục sứ mệnh thiêng liêng của mình đối với dân với nước sau khi mất, khi gặp vua, Trưng Nhị nói: "Thiếp là chị em Nhị Trưng đây, vâng mệnh Thượng đế xuống làm mưa ." [3-tr. 3] . Trong truyện Hiệp chính hựu thiện trinh liệt chân mãnh phu nhân (Chuyện Mỵ Ê) kể về vợ của vua nước Chiêm Thành tên là Mỵ Ê, khi vua Chiêm Thành bị vua Thái Tông nhà Lý bắt đến chầu ngự thuyền, Mỵ Ê mới phẫn uất nói rằng: "Vợ hầu mường mọi, y phục xấu xí, ngôn ngữ quê mùa, không giống các bậc phi tần Trung Hoa, nay quốc phá phu vong, chỉ nguyện có chết là thỏa lòng, nếu áp bức hợp loan sợ ô uế long thể) [3-tr. 2] . Mỵ Ê thà chết chứ không hầu hạ vua Thái Tông, nàng chết đi để bao vệ tiết hạnh, còn hơn vua tôi nhà Lý sống mà bị hối hận dày vò.

    Tiếp theo, là những chuyện kể về các lịch đại phụ thần, đó là những anh hùng tuấn kiệt, những nhân tài của Đại Việt, các vị ấy đã có đại công bảo vệ triều đình, bảo vệ quyền lợi của vua chúa, nhưng đa số các vị là những người đã hết lòng vì nước vì dân, hoặc lo cho dân chúng được có ruộng cày, hết lòng bảo vệ quyền lợi cho dân. Lý Thường Kiệt trong tập truyện Thái úy trung phụ dũng võ uy thắng công được khen là người có mưu lược, có tài tướng soái, phong tư tuấn nhã. Khi nhà Tống nhòm ngó, muốn cướp đất nước ta, Lý Thường Kiệt đã nói:" Đợi cho giặc đến mà đánh, bất nhược mình đánh trước đi cho chúng nhụt mất nhuệ khí thì hay hơn . "[3-tr. 6] . Vua sai ông chỉ huy đội quân, đánh phá ba châu Ung, Khâm, Liêm và bốn trại của Tàu, bắt sống người cùng của cải vô số.

    Cuối cùng là những bậc hạo khí anh linh. Đây những truyện về thần có nguồn gốc thần thoại như Hậu Thổ phu nhân, thần Đồng Cổ, thần Long Độ, thần Khai Nguyên, thần Phù Đổng, Sơn Tinh và Thủy Tinh.. Các thần đều một lòng sốt sắng cứu khổ phò nguy, thường sẵn sàng hiển linh báo mộng cho vua chúa biết đường lành phải theo, điềm dữ phải tránh; các thần lúc nào cũng tìm cơ hội để tham dự vào việc của triều đình, giúp cho nhà vua tránh được những bước khó khăn, cho dân chúng được ấm no sung sướng.

    Tóm lại, trong giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV, Đại Việt đã có không ít các bậc hào kiệt, khi sống giúp đỡ bách tính, đất nước, khi mất đi vẫn tiếp tục cống hiến cho nước nhà.

    2.4 Khẳng định Đại Việt có truyền thống văn hóa dân tộc: Tinh thần căm thù giặc, quyết tâm bảo vệ tổ quốc.

    Trong suốt quá trình hình thành và xây dựng đất nước, nhân dân Đại Việt còn phải thực hiện một nhiệm vụ khác quan trọng không kém đó chính là đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Tinh thần căm thù giặc, quyết tâm bảo vệ tổ quốc ở giai đoạn nào cũng có, được thể hiện trong văn học rất phong phú, tiêu biểu phải kể đến: Hịch tướng sĩ, Cảm hoài, Thuật hoài.. Vào thế kỉ XIII, đế chế Nguyên Mông với tham vọng mở rộng địa bàn xuống phía Nam đã ba lần mang quân xâm lược Đại Việt. Với số tổng quân ba lần lên đến một triệu quân, có thể nói rằng quân ta khó có thể đánh bại sự xâm lược của quân Nguyên Mông. Tuy nhiên, với tấm lòng sục sôi yêu nước, hai lần đầu tiên vào năm 1258 và 1285 khi quân Mông Nguyên kéo xuống nước ta chúng đã bị đánh tơi bời. Không chịu thua cuộc, vào năm 1287 và 1288, quân Mông Nguyên tiến vào nước ta với lực lượng rất mạnh, trước tình hình khó khăn đó Trần Quốc Tuấn (1232 – 1300) đã viết Hịch tướng sĩ để khích lệ sự đồng lòng của toàn nhân dân. Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra thực trạng của đất nước trước tham vọng của đoàn quân phương Bắc: " sứ giặc đi nghênh ngang ngoài đường "," sỉ mắng triều đình "," đòi ngọc lụa " [6-tr. 57], đến cả Trần Quốc Tuấn còn phải thốt lên" Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói "[6-tr. 67] . Với tư cách là người đứng đầu của một quốc gia, khi thấy đất nước lăm le, Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ nỗi phấn uất, căm hận " chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. " [6-tr. 57] . Tinh thần yêu nước khiến cho Trần Quốc Tuấn cảm thấy lòng đau như cắt, quên ăn, quên ngủ, dường như quá sức chịu đựng. Tinh thần yêu nước rực cháy mạnh mẽ trong trái tim của Hưng Đạo đại vương, tinh thần ấy thôi thúc ông quyết tâm đánh bại kẻ thù. Ông tiếp tục nói về bổng lộc mà mình đã dành cho quân lính, đất nước đã dành ưu ái cho bản thân mình thì đã đến lúc đền đáp lại cho nhân dân, cho đất nước. Cuối cùng, Trần Quốc Tuấn đã khẳng định:" Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung . "[6-tr. 58] . Thái độ dứt khoát này có tác dụng tập hợp lực lượng, thống nhất ý chí, tình cảm và sức mạnh của toàn quân. Khi đất nước cần, sẵn sàng sung phong đi bảo vệ tổ quốc khỏi quân thù. Hịch tướng sĩ là tác phẩm chính luận sục sôi nhiệt huyết và tràn đầy cảm xúc về văn chương hùng biện trong văn học Việt Nam thời Trung đại.

    2.5 Niềm tin vào tương lai của đất nước, tin vào hòa bình được lập lại.

    Bên cạnh việc đấu tranh để bảo vệ sự bình yên cho đất nước, các tác phẩm văn học thời kì này đã phản ánh niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước, tin vào hòa bình được lập lại sau khi đánh đuổi quân xâm lược. Trong tác phẩm Tụng giá hoàn kinh sư, Trần Quang Khải viết:

    " Đoạt sáo Chương Dương độ,

    Cầm Hồ Hàm Tử quan

    Thái bình tu trí lực

    Vạn cổ thử giang san. " [5-tr. 65]

    Những động từ mạnh" đoạt "–" cầm ", đăng đối với nhau được đưa lên hàng đầu nhằm khắc họa tượng đài người anh hùng thời Trần trong thế đối đầu bọn xâm lăng: Cướp giáo, bắt giặc! Những hình ảnh ấy có sức cô đọng. Nó bất tử hòa, vĩnh viễn hóa những khoảnh khắc lịch sử kì vĩ của con người Việt Nam" Hào khí Đông A ". Chương Dương độ và Hồ Hàm Tử là hai địa danh nổi tiếng mà quân Nguyên Mông đã bị đánh tan tành. Bài thơ vừa tổng kết một chặng đường của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược với những chiến công oanh liệt, vừa xác định ý thức trách nhiệm to lớn của mỗi cá nhân trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước:" Thái bình tu chí lực ". Câu thơ cuối cùng là lời khẳng định đất nước hòa bình với tương lai tốt đẹp, trên đất nước sạch bóng quân thù, nước non trường tồn mãi mãi với thời gian:" Vạn cổ thử giang san ".

    2.6 Thiên nhiên đất nước hùng tráng, nhiều địa danh làm nên lịch sử.

    Có rất nhiều địa danh lịch sử gắn liền với những chiến công chống giặc vang dội đã đi vào thơ ca với một cảm hứng tự hào được miêu tả bằng những hiện tượng kì vĩ. Năm 938, Ngô Quyền đã đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt hơn một nghìn năm Bắc thuộc cho dân tộc Việt. Sông Bạch Đằng hay sông Vân Cừ đã trở thành một chứng nhân lịch sử quan trọng khi là nơi quá nửa quân Nam Hán chết đuối ở đây. Trương Hán Siêu (? – 1354) là một người giữ chức vụ quan trọng trong triều đình cũng như cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên. Ông đã viết bài Bạch Đằng giang phú để ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ của con sông lịch sử cũng như ca ngợi chiến công lừng lẫy ở địa danh này. Trương Hán Siêu đã xây dựng hình tượng các bô lão để tái hiện về sông Bạch Đằng với những chiến công vang dội:

    Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,

    Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao".

    Đương khi ấy:

    Thuyền tàu muôn đội,

    Tinh kì phấp phới.

    Hùng hổ sáu quân,

    Giáo gươm sáng chói.

    Trận đánh được thua chửa phân,

    Chiến luỹ bắc nam chống đối.

    Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

    Bầu trời đất chừ sắp đổi.

    Kìa:

    Tất Liệt thế cường,

    Lưu Cung chước dối.

    Những tưởng gieo roi một lần,

    Quét sạch Nam bang bốn cõi.

    Thế nhưng:

    Trời cũng chiều người,

    Hung đồ hết lối

    Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,

    Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

    Đến nay sông nước tuy chảy hoài,

    Mà nhục quân thù khôn rửa nổi. "
    [2-tr1] .

    Khách và các bô lão nhìn ngắm dòng sông, những con sóng nhấp nhô giống như sống lại những năm tháng lịch sử hào hùng. Từng hình ảnh về trận chiến trên sông Bạch Đằng như hiện ra trước mắt mọi người với sự hùng tráng, oai hùng. Các bô lão dùng ngôn ngữ giàu tính gợi tả để miêu tả lại trận chiến khốc liệt:" Thuyền tàu muôn đội "," Tinh kì phấp phới "," hùng hổ sáu quân "," Giáo gươm sáng chói " . Vào đầu tháng tư năm 1288, trận thủy chiến diễn ra ác liệt trên Bạch Đằng giang, xung quanh khói lửa mù mịt, tiếng quân reo, tiếng gươm đao vang khắp đất trời, đến nỗi" Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ "và" Bầu trời đất chừ sắp đổi ". Quân đội của ta đứng giữa đất trời, sẵn sàng hy sinh bản thân mình để đánh đuổi quân Nam Hán và Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi đất nước. Những tưởng những đội quân lớn đến từ phương Bắc sẽ dễ dàng" Quét sạch Nam bang bốn cõi " nhưng không, quân và dân ta luôn có trong mình một tinh thần yêu nước mãnh liệt, tinh thần quật khởi không thua kém gì bất cứ một dân tộc nào khác. Họ sẵn sàng ra đi để bảo vệ đất nước, cho dù lực lượng chênh lệch quá lớn. Trời cũng chiều lòng người, những người đi cướp từng mảnh đất thiêng liêng của dân tộc ta đã phải nếm chịu mùi thất bại, một đi không trở lại. Nước sông vẫn chảy hoài ra biển lớn nhưng những vết tích năm đó, những chiếc cọc nhọn, vết nhơ trong lịch sử thì còn mãi với thời gian. Đoạn văn miêu tả dòng sông, đoạn kể lại trận thủy chiến là đặc sắc nhất. Màu sắc tráng lệ, hình ảnh kỳ vĩ, phép đối được vận dụng rất tài tình để biểu lộ niềm tự hào dân tộc và sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam. Tác giả đã bày tỏ một quan niệm về đất hiểm và nhân tài về vinh và nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh hằng.. trong cuộc đời và trong lịch sử. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả một cách tráng lệ, nên thơ, tạo nên vẻ đẹp văn chương của" Bạch Đằng giang phú ".

    " Sông Đằng một dải dài ghê,

    Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông.

    Những người bất nghĩa tiêu vong,

    Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh
    . "[2-tr. 1]

    2.7 Nghệ thuật văn chương nhiệt huyết, khí thế.

    Nghệ thuật văn chương giai đoạn này sử dụng những điển cố về nhân vật lịch sử, hình tượng nghệ thuật lớn lao, kì vĩ và sử dụng những từ ngữ mạnh, khí thế.

    Trong cuốn Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX của Lại Nguyên Ân và Bùi Văn Trọng Cường, điển cố được hiểu như sau:" Thuật ngữ của giới nghiên cứu nhằm mô tả một trong những đặc điểm nổi bật của văn học trung đại Việt Nam, vốn chịu ảnh hưởng văn học cổ và trung đại Trung Hoa. Do những nguyên nhân khác nhau, đã hình thành một tâm thế, một phong cách của những người làm văn: Trong hành văn thường hay nhắc đến một sự tích xưa hoặc một vài câu thơ, câu văn cổ để diễn tả ý mình, nhưng đây không phải là trích dẫn nguyên văn, mà là lối dùng lại vài chữ cốt gợi nhớ được đến tích cũ ấy, câu văn cổ ấy. Lối này được gọi chung là dùng điển cố, bao gồm phép dùng điển và dùng chữ ". [4-tr. 142 - 143] . Điển cố có tính hình tượng và cô đọng hàm súc, tính liên tưởng và tính đa dạng, linh động. Tính hình tượng của điển cố qua ngòi bút của Trần Quốc Tuấn được vận dụng ở bài Hịch tướng sĩ đã mang những nét đặc sắc và độc đáo riêng, góp phần biểu hiện sự mới mẻ cho văn xuôi yêu nước chính luận trong nền văn học Trung đại Việt Nam. Trong câu:" Dẫu cho trăm thây này phơi đồng nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa thì ta cũng vui lòng "[10-tr. 57] Hưng Đạo đại vương đã sử dụng điển cố" da ngựa bọc thây "của Mã Viện thời nhà Hán, ý nói rằng bậc trượng phu nên chết ở nơi chiến trường, lấy da ngựa mà bọc thây. Đó là hình tượng sinh động, mang màu sắc oai hùng, bi tráng về cái chết nơi chiến trận, không hề bi lụy hay đau thương. Qua việc sử dụng điển cố trên, ta càng thêm nể phục lòng dũng cảm, chấp nhận hy sinh vì đất nước mà không hề ca thán bất cứ một lời.

    Ngôn ngữ trong các tác phẩm văn chương được sử dụng rất khi thế, hào hùng, nhiệt huyết sục sôi. Nguyễn Trung Ngạn (1289 – 1370), ông là một nhà chính trị, một nhà thơ lớn thời Trần. Đặc điểm dễ nhận thấy nhất trong thi pháp Nguyễn Trung Ngạn là ngôn ngữ thơ, bên cạnh ngôn ngữ thơ cổ kính, sang trọng, giàu hình ảnh và gợi tả thì ngôn ngữ thơ của Nguyễn Trung Ngạn cũng gay gắt và hùng tráng. Trong bài thơ Lũ tuyền, ông viết:

    " Sơn trường giang nhiễu nhất chinh an,

    Trước cước Cù Đường, Diệm Dự gian.

    Cố ảnh trướng nhiên hoàn tự phạ,

    Lưỡng hồi sinh nhập Quỷ Môn quan. " [8-tr2] .

    Hình tượng nghệ thuật lớn lao, kì vĩ được thể hiện rất rõ trong bài Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão:" Hoành sóc giang san cáp kỉ thu "[7-tr. 115] ." Hoành sóc " là một tư thế cầm ngang ngọn giáo. Đây là một tư thế hiên ngang của quân dân nhà Trần đang trấn giữ non sông đất nước." Giang san "là một không gian kì vĩ mà rộng lớn, mở ra theo chiều rộng của non sông đất nước. Hình ảnh người tránh sĩ đứng trên cao, ở vị trí trung tâm của trời đất mới đẹp làm sao! Hình ảnh con người ấy tuy nhỏ bé so với không gian bao la, rộng lớn nhưng chính điều đó lại làm nổi bật lên hình ảnh người tránh sĩ với tư thế hiên ngang mang tầm vóc vũ trụ.

    3. Kết luận.

    Tinh thần yêu nước là một dạng tình cảm đặc biệt kết tinh trong trái tim mỗi con người chúng ta. Trong thời kì Trung đại nói chung và giai đoạn thế kỉ X đến thế kỉ XIV nói riêng, tinh thần yêu nước, tư tưởng ái quốc thể hiện rất đa dạng và phong phú trong các tác phẩm văn chương.

    Ở trong xã hội hiện đại, tinh thần yêu nước được biểu hiện bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong văn học thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, văn học vẫn là vũ khí chiến đấu đắc lực, không chỉ biểu hiện tinh thần yêu nước của mọi người dân mà đó còn là nguồn cổ vũ, khích lệ quan trọng cho toàn quân, toàn dân đứng lên bảo vệ tổ quốc với khẩu hiệu" Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ". Hiện nay, tinh thần yêu nước trong thời bình được biểu hiện qua việc gắn bó với gia đình, quê hương; tích cực học tập, sản xuất, tham gia vào việc xây dựng đất nước; phát huy truyền thống văn hóa tích cực của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới; phê phán, xóa bỏ những tư tưởng lỗi thời, lạc hậu và hội nhập với thế giới.

    4. Tài liệu tham khảo.

    1. Book hunter - Link

    2. Giỏi văn – Giỏi Văn - Tác phẩm: Bạch Đằng giang phú

    3. Hội khoa học lịch sử Bình Dương - Việt Điện U Linh Tập

    4. Lại Nguyên Ân – Bùi Văn Trọng Cường (2018) – Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, NXB Văn học.

    5. Nhiều tác giả (2011) – Sách Ngữ Văn 7 tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam.

    6. Nhiều tác giả (2011) – Sách Ngữ Văn 8 tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam.

    7. Nhiều tác giả (2011) – Sách Ngữ Văn 10 tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam.

    8. Tài liệu - Diện mạo thơ sứ trình trung đại Việt Nam và thơ đi sứ của Nguyễn Trung Ngạn

    9. Tuần báo văn nghệ TPHCM - Link

    10. Wikipedia - Chủ nghĩa yêu nước – Wikipedia tiếng Việt

    11. Xem tài liệu - Tìm hiểu việc sử dụng điển cố trong tác phẩm hịch tướng sĩ của trần quốc tuấn

    Xemtailieu
     
    LieuDuong thích bài này.
  2. Đăng ký Binance
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...