Quan Lộc là cung trực tiếp về đời mình nên lấy Mệnh Thân làm căn bản. Ngoài các Cách, các Thế ở Mệnh, Thân cần phải hiểu nghĩa của các cung của Địa Chi. Cung Quan Lộc chỉ các khía cạnh sau: - Công danh, sự nghiệp nói chung. - Nghề nghiệp (loại nghề, các nghề liên tiếp trong đời), khả năng chuyên môn (năng khiếu) - Khoa bảng, quyền hành, thế lực từ sự nghiệp. Triển vọng của nghề nghiệp (sự đắc thời hay thất bại) - Người giúp việc trong sự nghiệp - Tư cách ước vọng của mỗi người về nghề nghiệp - Thời kỳ thịnh suy, những may rủi trong nghề nghiệp - Tiền bạc từ quan trường mà có Rất quan trọng đối với phái nam, cung Quan kém quan trọng hơn đối với phái nữ. Trong xã hội hiện tại, phái nữ vì gánh vác nhiều nên cung Quan đối với họ phải được xem là cung cường như đối với phái nam. Đối diện với cung Quan, cung Phu Thê cũng có thể nói lên 1 nghề nghiệp thứ hai, của vợ hay chồng. Cũng như các cung khác, cung Quan phải được khảo sát trong bối cảnh của Mệnh, Thân, Phúc, Tài mới xác định được kết luận sau cùng. Mặt khác, giáp cung Quan là cung Nô và cung Điền, trong đó cái hay cái dở đều có ảnh hưởng đến sự nghiệp. Ngoài ra, đối với người có hai đời vợ, chồng, cung Quan tượng trưng cho đời vợ hay đời chồng thứ hai. 1. Tại Ngọ: Ngọ là Trung ương, là Đế Vị. Quan Lộ đóng ở Ngọ là vị trí trung ương, ở vị trí cao trên toàn lá số. Nó mang một ý nghĩa tích cực, lấn át các cung khác. Do thế rất mạnh và cần phải xem Mệnh tốt hay xấu, các sao chính tinh có đắc thế không. Nếu tốt đẹp thì nhất định sẽ có chức tước, hay nghề nghiệp cao sang, ở cấp chỉ huy và được giàu sang dễ dàng. Ngược lại, nếu xấu thì vất vả, cả đời cứ phải lo cơm áo, không mấy nghỉ ngơi. Nam giới dễ thành công hơn Nữ giới. Nữ giới cung Quan ở Ngọ thường vất vả về đường nhân duyên, phải làm lấy mà ăn, ít được nhờ chồng nhưng phần nhiều là người tài giỏi, vượng phu ích tử. 2. Tại Tý: Cũng như ở Ngọ và càn phải có chính tinh tốt, vì là bại địa, bị nhận chìm không ngóc đầu lên được. Bởi Tý là cung Thiên Môn, chầu vào Đế khuyết, rất cần Lộc Tồn, Tam Khoa và chính tinh đắc cách, hợp Mệnh. 3. Tại Mão: Mão là cung Thần, Phật, là vị trí của bậc quân tử, đạo đức. Nhưng cũng là cung Tuyệt, cung yếu, nghiêng về sự lười biếng, trước cần sau lăn. Mão vốn là cung Lôi Chấn, là bộc phát dữ dội ban đầu, vốn bốc nhanh và tàn nhanh. Đó là cung của các bậc giáo sư và học giả, các nhà mô phạm, tu hành đạo đức. Nếu gặp sao xấu hay vô chính diệu thì dễ trở thành bậc xử sĩ giang hồ khách. Đàn bà Quan ở đây dễ là người phúc đức hoặc hồng nhan đa lụy, đa sầu. 4. Tại Dậu: Dậu là cung Thiên Di thứ hai, nên là vị trí của bậc yếm thế, đa tình, phiêu bồng chi khách. Cũng y như cung Mão, nếu gặp sao tốt, thì nhẹ gót thanh vân, làm chơi mà ăn thật. Ngược lại, nếu sao yếu kém, thì phải về hậu vận, mà xuất ngoại mới tạo nên công nghiệp được. Đồng thời phải bôn ba, nay đây mai đó, sống đời lãng tử giang hồ khách. 5. Tại Thìn: Đây là cung Thiên La, tức là cái cửa ngõ khép kín, cần phải đạp cửa mà ra, nhảy một bước cao mới mong cá vượt vũ môn. Do thế đòi hỏi nhiều chiến đấu tinh, mà sự đắc cách tối đa là cách tranh bá đồ vương, bạch ốc phát công khanh. Bởi thế cần phải có Tuần hay Triệt mở cửa Thiên La, coi như chiếc cửa đã mở sẵn, chỉ khép hờ, thì mới mong bay bổng được. Nếu thiếu Tuần hay Triệt, thì phải có sao chính tinh đắc cách hay hung tinh. Vì thế nên mới có cách Tử Tướng làm Thìn. Tuất là cách làm bạo, cách mạng, đoạt quyền, chứ không có van lơn xin xỏ gì hết. Nếu không mà gặp văn tinh như Cơ Lương ở Thìn, Tuất, gọi là cách Tắc Hữu Cao Nghệ Tùy Thân, tức phải là người có xảo thuật, tài ba, mới vượt được cửa La Võng. Cũng do thế, sao Kình Dương ở Thìn, Tuất là rất đắc địa vì là thanh gươm chọc thủng màn La Võng. 6. Tại Tuất: Cung Tuất cũng như cung Thìn nhưng tốt hơn, bởi là cung Tru Long, do có Mệnh ở Ngọ. Mệnh đắc vị trí thì cung Quan ở Tuất là cung của Triều đình, để ra lệnh, thì Quan ở đó tốt hơn ở Thìn. Quan ở đây sẽ nhàn hạ hơn cách Bạch ốc phát công khanh ở Thìn, mà biến ra thành kho vựa, do thế nếu gặp Cơ Lương chẳng hạn, thì đó là cách giàu sang, buôn bán làm giàu dễ dàng. Nếu Mệnh xấu mà cung Quan cũng xấu, thì lệt bệt, chỉ có hư danh mà không có thực tế. Thường đảm nhiệm các chức vụ như chủ tịch một hiệp hội tôn giáo, một chức trùm đạo, một đoàn thể bí mật gì đó, mà không có thực lực. Đại để như vậy. 8. Tại Sửu: Đây là cung Mộ, nặng nề nhất trong tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi). Bởi vì nó đảm nhiệm vị trí Sinh đối với cung Sinh của Địa Chi là cung Tị (tức bắn ngược lên phía trên) nên rất nặng nề. Và do từ cung Dậu là cung Tuyệt thuộc loại Thiên Di thứ hai, nên có căn bản rất suy yếu. Cung Quan đóng ở đây, gặp cát tinh thì là người hiền lành, an phận thủ thường, làm các nghề vô hại như thầy giáo, công tư chức, mà gặp hung tinh thì thường hung bạo, tích cực đến điên cuồng. Nên quan ở Sửu dễ vất vả, vì căn bản Mệnh ở Dậu yếu. Và có Tài Bạch ở cung Sinh ở Tỵ coi như tuyệt địa nên kém. Người có Quan ở đây, phần nhiều có nghị lực và giỏi, và dễ bị ly khắc về đường nhân duyên, về hậu vận. Trước 30 tuổi phải vất vả, nếu giàu có sẵn thì cũng lên xuống gập ghềnh, dám làm bạo nhằm một mục đích cao siêu như phát minh khoa học, hay mở mang kỹ nghệ, dám làm bạo và thành công. Nếu gặp vô chính diệu hay sao xấu, thì mang hư vị, công việc dở dang, chỉ được nửa vời. 9. Tại Dần: Đây là cung Sinh thứ nhất (Đệ Nhất Tứ Hành Sinh) nên rất mạnh. Người có Quan ở đây, thì Tài cũng đóng ở Ngọ, là có chủ trương hết sức thiết thực, đầy tham vọng. Do thế, nên Quan ở Dần mà tốt, thì dám làm bạo và thành công lớn. 10. Tại Thân: Cũng như ở Dần, Quan ở đây thì Mệnh ở Thìn, đó là những người có tài, chủ trương táo bạo, phần nhiều thành công về kỹ thuật, quân sự, kinh tế, không nề hà tiểu tiết. 11. Tại Tỵ: Tỵ là cung Sinh của Địa Chi, nhưng lại là cung Bại địa, bởi vấp phải cung Ngọ ở trước mặt, nó như một bức tường thành chắn ngang. Do thế, là thế kẹt cần phải vươn lên mới mong ca vượt vũ cầu môn được. Người có cung Quan ở đây, phần nhiều là người cương quyết, dám liều, có nhiều anh hùng tính. Nếu gặp sao tốt, cách tốt thì đường công danh rất sáng lạn, coi như bậc cường thần làm đâu thì thắng đấy. Mà nếu sao xấu, kém thì sẽ đè nén, không ngóc đầu lên được, sẽ nghèo khó tối tăm. 12. Tại Hợi: Đây là tuyệt cung, coi như cái đáy, cung Quan ở đây khó nhất trong 12 cung. Nếu gặp cách tốt, sao tốt, thì là phi thường cách, thường đảm nhiệm các công tác khó khăn, người khác không làm nổi, mình làm nổi. Ngược lại, nếu sao xấu, cách xấu, thì phần nhiều là người ta thời mẫn thế, chán nản đường danh lợi, nghiêng về đạo giáo, có cái tự kiều kín đáo, mô phạm đạo đức ít ai bì, bởi có Mệnh lập ở Mùi là khách khanh của Đế cung Ngọ. Tóm lại, xem cung quan rất quan trọng. Ngày xưa chỉ có tứ giới: Sĩ, Nông, Công, Thương nên dễ gọi ra được. Ai ở cách Nhật Nguyệt là Sĩ, tức làm quan, làm bậc thầy nhưng ngày nay có cả trăm ngàn nghề. Cho nên định ra được một nghề chính xác là một điều khó khăn. Do thế, chỉ cần cái nội dung tương đồng là được. Thí dụ: Như một người cung Quan ở Tỵ có cách Liêm Tham thêm Kình Dương và Tam Hóa, thì rõ ràng là người về nghành tư pháp, quan tòa, có quyền bắt giam người, thế mà lại thành ra ông kỹ sư về nghành đánh cá.