Đề bài: Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích sau: "Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng rồi bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.. Cho tới lúc trời tang tảng từ rồi không biết sáng từ bao giờ" . Từ đó, nhận xét về sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Bài Làm Nam Cao đã từng khẳng định: "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có". Đối với nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng, sáng tạo là yếu tố then chốt để quyết định sự sống còn của người nghệ sĩ. Hiểu được điều đó, Tô Hoài đã xây dựng cho mình một phong cách độc đáo, một gương mặt khác lạ trên văn đàn Văn học Việt Nam. Trích đoạn "Vợ Chồng A Phủ" chính là một trong những mình chứng cho phong cách độc đáo ấy của Tô Hoài. Đặc biệt hơn khi qua đoạn trích "Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng rồi bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.. Cho tới lúc trời tang tảng từ rồi không biết sáng từ bao giờ", tác giả đã cho ta thấy rõ hơn về sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị, sức sống tiềm tàng của những con người luôn khát khao tìm đến tự do, hạnh phúc. Tô Hoài là một nhà văn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông sáng tác theo xu hướng hiện thực, thiên về phản ánh những sự thật của cuộc sống đời thường trong những trang viết bình dị, tinh tế đầy chất thơ. Sau hơn hai mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau: Dế Mèn phiêu lưu kí (truyện, 1941) ; O Truyện (tập truyện, 1942).. Hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có, nhiều khi rất bình dân và thông tục, nhưng nhờ cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người đọc. Truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ được sáng tác vào năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc (1953). Tác phẩm chính là kỉ niệm là tấm lòng của Tô Hoài dành tặng cho những người dân Tây Bắc, và nó cũng chính là kết quả của chuyến đi cũng bộ đội vào giai phóng Tây Bắc năm 1952. Đây là chuyến đi thực tế kéo dài 8 tháng sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng của nhà văn. Chuyến đi dài này đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc với những tình cảm tốt đẹp của nhà văn với con người miền Tây Bắc. Tô Hoài tâm sự: "Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi 8 tháng ấy là đất nước và con người Miền Tây để thương để nhớ cho tôi nhiều quá. Tôi không bao giờ quên.. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dung cảm lúc nào cũng có trong tâm trí tôi. Vì thế, tôi viết truyện Tây Bắc". Qua câu chuyện về cuộc đời của Mị và A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã khẳng định: Người dân miền núi dù có bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người, bị vùi sâu dưới đáy Xã Hội nhưng trong lòng họ vẫn âm ỉ ngọn lửa của lòng ham sống yêu đời, khao khát tự do hạnh phúc chỉ chờ cơ hội là bùng cháy lên mạnh mẽ; đồng thời thể hiện lòng cảm thông và sự trân trọng những khao khát tự do và ý thức tự giải phóng của họ. Mị là một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc nhưng bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Lúc đầu suốt mấy đêm tháng ròng, lúc nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngọn tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không thể chết. Đành phải sống một cuộc sống tủi cực trong nhà thống lí; làm việc quần quật hơn trâu ngựa và lúc nào cũng "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết Mị lại nhớ mình hồi còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng lại bị A Sử chồng của Mị trói đứng vào cột nhà. Để từ đây, ta thấy được sống sức tiềm tàng của nhân vật Mị Khát vọng của Mị không chỉ tồn tại trong suy nghĩ, trong tâm trạng, trong cảm xúc mà nó còn tồn tại trong cả hành động của Mị. "Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng, Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị lại quấn tóc, Mị với lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách" "Mị rút thêm cái áo" chuẩn bị đi chơi. Ở đây tác giả đã sử dụng một loạt các động từ như "đến" "xắn" "bỏ" "đi chơi" "cuốn" "lấy" và "rút", những hạnh động đó đã thể hiện cái khát vọng trào sôi, khát vọng được tự do hạnh phúc của Mị. Những động từ đó đã làm cho hành động của Mị trở nên mạnh mẽ và cương quyết, táo bạo hơn, đó là lúc mà ngọn lửa khao khát tự do đang cháy lên trong Mị, cái khao khát được hòa mình với cuộc sống tươi sáng, mới mẻ hơn. Vừa là những hạnh động đấu tranh lặng lẽ, âm thầm, tự phát nhưng thật quyết liệt với số phận của Mị. Bất chấp sự hiện diện của A Sử - cái bóng đêm của cường quyền bạo ngược của thần quyền giờ đây không thể vùi dập Mị bởi khát vọng tự do của Mị lúc này lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Một lần nữa cái sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị tiếp tục được bùng cháy ngay cả trong hoàn cảnh bị vùi dập thật độc ác. Khi bị A Sử trói, Mị cũng không biết mình đang bị trói, Mị vẫn sống trong cái ảo giác của hạnh phúc – thứ ảo giác do men tình và men rượu mang lại. Hiện thực và ảo giác hòa trộn, Mị lúc mê lúc tỉnh, Mị mông di, Mị ảo giác. Cũng chính lúc này đây thì sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong con người lao động được bộc lộ sâu sắc và mãnh liệt nhất. Chính sức sống ấy đã làm cho Mị quên đi cái nỗi đọa đày, khổ nhục, quên cả đớn đau về thể xác. Câu văn mở ra một hình ảnh tội nghiệp của Mị "Trong bóng tối. Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói". Cái sự im lặng như không biết mình đang bị trói ấy không phải là sự vô cảm, sự nhẫn nhục thường thấy ở người đàn bà này mà đây chính là lúc mà thể xác của Mị đã không còn cảm nhận được nỗi đau. Bởi thể xác của Mị nằm đây giữa bốn cái bức tường lạnh lẽo nhưng tâm hồn của Mị thì vẫn đang ở ngoài kia – ngoài thế giới của thiên đường mênh mông tiếng sáo gọi bạn tình và men rượu còn chưa tan. Men rượu còn nồng nàn còn trong Mị cho nên hương rượu đã quyện hòa trong hương thơm của men tình dặt dìu theo tiếng sáo. Nếu trước đó, tiếng sáo là tác nhân đã phá tan cái lớp băng vô cảm đã mở toang cái cánh cửa trải tim của Mị để đón nhận hương đời thì nay tiếng sáo lại trao cho Mị chiếc chìa khóa vàng để khát khao sống khát khao yêu của Mị được dịp bùng cháy. Đây là lúc trong cơn say tiếng sáo lại một lần nữa đến bên Mị, cứu rỗi linh hồn Mị, dìu Mị đi trong những cuộc chơi những đám chơi, tình yêu của Mị dành cho tuổi trẻ trong cuộc đời vẫn còn nồng nàn, lại được tiếng sáo nâng đỡ dìu dắt khiến cho tình yêu ấy càng trở nên đắm say ngày ngất. Tiếng sáo đã không còn lửng lơ bay ngoài đường nữa mà còn nhập vào hồn Mị, tâm hồn Mị như cùng rung lên cũng nhịp sáo "Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nàa, em bắt pao nào.." . Có thể nói tiếng sáo chính là chi tiết hay nhất trong đêm tình mùa xuân, và đây cũng chính là "hạt bụi vàng" của tác phẩm. Nhờ có chi tiết đó mà người đọc chúng ta có thể nhìn thấy được cái cảm xúc, cái tâm trạng cũng như cái sự hồi sinh mạnh mẽ mãnh liệt của Mị. Tiếng sáo là biểu tượng cho thế giới tự do; là hiện thân tài năng của tuổi trẻ kí ức tươi đẹp của Mị. Chính vì thế mà tiếng sáo là âm thanh hay nhất, lay động nhất tới sự hồi sinh của nhân vật Sức mạnh tiếng sáo và giấc mơ tự do khiến Mị quên đi cái thực tại ê chề, lúc mê thì Mị sống trong hơi rượu tỏa, còn lúc tỉnh thì lại nồng nàn tha thiết nhớ, lúc mê lại đi theo tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình và đúng như Tô Hoài từng nhận định: "Tiếng sáo kia quá tha thiết quá mạnh mẽ, nó dìu dắt hồn Mị bay lên trên hoàn cảnh, đó là biểu tượng niềm khát sống khát khao yêu. Ở đây là lòng khát khao tự do nữa và tâm hồn Mị như đang thăng hoa cùng với tiếng sáo gọi bạn tình, và đó chính là cái thế giới nội tâm là cái ảo giác hạnh phúc và cơn mộng du đẹp đẽ của Mị". Nhưng cũng chính tiếng sáo chính là cái tác nhân khắc sâu thêm cái bi kịch của Mị. Bởi khi tiếng sáo đã nhập hồn Mị, nó đã làm cho Mị quên đi cái thực tại đau buồn, khi nghe tiếng sáo thì "Mị vùng bước đi". Bốn chữ "Mị vùng bước đi" thật ngắn gọn nhưng nó hàm chứa trong đó là cái sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Câu văn quả thật được viết rất tinh tế và sâu sắc, nó gợi cho ta ra biết bao nhiều suy tưởng về Mị, làm sao Mị có thể vùng bước đi khi đang bị trói bằng cả thúng sợi đay? Nhưng ở đây Mị đã vùng bước đi thật, Mị không có ý thức được hoàn cảnh thực tại bởi Mị là kẻ mộng du đang lang thang với giấc mơ tự do của mình. Chi tiết Mị vùng bước đi nó đã mình chứng cho ta thấy cái sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị, đó không còn là một cô Mị cúi mặt buồn rười rượu mà đó là một cô Mị giàu năng lượng sống. Mị vùng bước đi nghĩa là Mị không sống trong thực tại, Mị đang sống trong men trong những giai âm tiếng sáo gọi bạn yêu. Tâm hồn ấy đang đến với tự do đang tràn trề nỗi yêu đương cửa tuổi trẻ, chỉ khi tay chân đau không cựa quậy được Mị mới thoát khỏi cơn mộng du của mình. Lúc này, chỉ còn nghe thấy tiếng chân ngựa, tiếng chân ngựa đạp vào vách, nhai cỏ, gãi chân là những âm thanh của thực tại, đưa Mị trở lại với sự liên tưởng đau đớn bởi kiếp sống không bằng con ngựa của mình. Vậy mà, dù đã trở lại với thực tại tàn nhẫn, suốt đêm mùa xuân ấy, quá khứ vẫn nồng nàn tha thiết trong nỗi nhớ của Mị với hơi rượu tỏa, tiếng sáo rập rờn, tiếng chó sủa xa xa.. Mị phải sống trong giằng xé đau đớn giữa những khát khao cháy bỏng vừa hồi sinh và thực tại phũ phàng đang hiện hữu ngay trong sợi day trói và căn buồng giam đầy bóng tối. Sức sống cũng những khát vọng đã trở lại và cũng bị vùi dập tàn nhẫn, nhưng sau đêm hội mùa xuân ấy, có lẽ nó sẽ mãi còn ám ảnh, thao thức trong lòng Mị, dù chỉ là mơ hồ, xa thoảng. Sau bao nhiều năm tháng, Mị đã tỉnh táo nhận ra thân phận trâu ngựa của mình, đã thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa nhà thống lí. Khi nhận ra sự khổ ải, cảm nhận sự khổ ải sẽ càng thấm thía. Từ nay, có lẽ Mị không thể yến ổn với những suy nghĩ buông xuôi, cam chịu của mình để tiếp tục sống cảnh trâu ngựa cho đến chết. Khát vọng hạnh phúc, khát vọng tình yêu trong tuổi tre đã hồi sinh, đã bị vùi dập và đang chờ đợi một ngọn gió thổi bùng lên lần thứ hai. Như vậy rõ ràng là cường quyền và thần quyền tàn bạo không thể dập tắt nổi khát vọng hạnh phúc, tình yêu nơi Mị. Cuộc nổi loạn tuy không thành công những nó đã cho người đọc thấy sức mãnh liệt trong những người nông dân tưởng chừng như nhỏ bé, khốn nhổ nhất. Bút pháp miêu tả tâm lí sắc sảo, tinh tế, cách dẫn dắt tình tiết khéo léo tự nhiên. Giọng văn trần thuật của tác giả hòa vào những cuộc độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp nửa đặc sắc. Cách nhìn mới mẻ, tin yêu về người nông dân cho thấy tài năng quan sát, miêu tả thiên nhiên, phong tục tập quán, đặc biệt là khả năng diễn tả quá trình phát triển tình cách nhân vật hợp lí, phức tạp mà sâu sắc, phù hợp với quy luật phép biện chứng tâm hồn của nhà văn – người có duyên nợ với mảnh đất và con người Tây Bắc. Tô Hoài đã dựng lên sức sống hình tượng của nhân vật Mị một cách thuyết phục khiến đọc giả không nào quên được. Nhà văn Sê-khốp từng khẳng định: Nhà văn chân chính là phải nhân đạo từ trong cốt tủy. Quả đúng như vậy, văn là người, cho nên con người như nào thì văn chương cũng sẽ như vậy. Nhà chân chính phải đứng trong lao khổ cuộc đời để đón những vang vọng cuộc đời. Chính vì thế, văn học phải hướng tới cuộc sống, phải khơi gợi được những tình cảm nhân văn cao đẹp, đánh thức được lòng trắc ẩn đang ngủ sâu trong trái tim mỗi người đọc. Văn chương phải giúp ta người hơn. Từ những điều trên, ta có thể khẳng định nhà văn Tô Hoài đã hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn chân chính khi tạo ra những trang viết chan chứa giá trị nhân đạo. "Vợ Chồng A Phủ" đã lên án tố cáo các thế lực tàn bạo cướp đoạt quyền sống quyền làm người của người dân miền núi Tây Bắc. Nhà căn đã cho ta thấy rõ được sự tủi nhục của nhân dân ta, và điển hình như nhân vật Mị, sống là người nhưng bị đày đọa, bóc lột như "kiếp trâu ngựa", khốn khổ, nhục nhã ê chề. Hiện thực rõ về số phận người nông dân khi bị bọn thực dân phong kiến đọa đầy. "Văn học là cuộc đời.. Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học", mỗi người nghệ sĩ lớn đều ý thức được đucợ mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và đời sống. Đời sống là nguồn đề tài không bao giờ vơi cạn cho những sáng tác đầy nảy nở, bước đi trên từng nẻo đường là một giọt chắt chiu tư tưởng được hình thành. Qua tác phẩm "Vợ Chồng A Phủ", ta thấy không chỉ cáo lũ quan lại phong kiến bị lên án tố cáo, Tô Hoài còn phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất và khát vọng tự do hạnh phúc, cùng sức sống mãnh liệt trong tâm hồn người lao động. Đó chính là chủ nghĩa nhân đạo Cách Mạng, gắn tình yêu thương với đấu tranh, gắn niềm tin vào tưởng lai đầy triển vọng của con người. Đó chính là sự diễn tả hợp lí những nghịch cảnh, những diễn biến phức tạp trong tâm hồn Mị, giúp nhà văn phần nào đạt đến cái gọi là "phép biện chứng tâm hồn. Cùng với cốt truyện sáng tạo, tình huống truyện độc đáo hấp dẫn, nghệ thuật kể chuyện giản dị," Vợ chồng A Phủ"vẫn giữ nguyên vẹn sức hấp dẫn của mình qua hàng nghìn thế kỉ.