Cảm nhận của em về người anh hùng áo vải Quang Trung trong hồi thứ 14 trích Hoàng Lê Nhất Thống Chí

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Hạ Như Phong, 17 Tháng mười 2021.

  1. Hạ Như Phong Hạ Như Phong

    Bài viết:
    71
    "Hoàng Lê nhất Thống Chí" là tác phẩm của Ngô Gia Văn phái - một tập thể tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, Hà Tây cũ. Đây là dòng họ nổi tiếng đỗ đạt cao và có tài văn chương. "Hoàng Lê Nhất Thống Chí" là tác phẩm văn xuôi chữ Hán. Tác phẩm tái hiện chân thực bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam đầy biến động khoảng 30 năm cuối thế kỷ XVIII và mấy năm đầu thế kỷ XIX. Hồi thứ 14 kể lại chiến công oanh liệt của Quang Trung - Nguyễn Huệ tiêu diệt 20 vạn quân Thanh.

    Mở đầu hồi 14 kể về tình trạng quân tướng của Tôn Sĩ Nghị chị lo chơi bời tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân, quân lính thì tự tiện bỏ cả đội ngũ đi lại lang thang, không còn có kỷ luật gì cả. Thái Hậu nghe tin, lo sợ nói với Lê Chiêu Thống. Vua hoảng sợ xin tôn Sĩ Nghị xuất quân bị hắn mắng vào mặt. Vua sợ bị trách lần nữa nên lại lui về. Trong đoạn trích hình tượng Nguyễn Huệ nổi lên sáng ngời phẩm chất người anh hùng.

    Trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ luôn thể hiện là một con người có hành động một cách xông xáo nhanh gọn có chủ đích và rất quả quyết. Nghe tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long, chiếm cả một vùng đất đai rộng lớn. Nguyễn Huệ vẫn không hề nao núng, định thân chinh cầm quân đi ngay. Rồi sau đó chỉ trong vòng một tháng (từ ngày 24 tháng 11 đến 30 tháng chạp), Nguyễn Huệ đã làm được bao việc lớn: Tế cáo trời đất lên ngôi hoàng đế, đốc suất đại binh ra Bắc gặp gỡ người "cống sĩ ở huyện La Sơn" Nguyễn Thiếp, tuyển mộ binh lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ định kế hoạch hành quân đánh giặc và kế hoạch đối phó nhà Thanh sau chiến thắng.

    Ông còn là người có trí tuệ sáng suốt, sâu sắc và nhạy bén. Sáng suốt đầu tiên của ông là lên ngôi hoàng đế, thể hiện một niềm tự tôn dân tộc. Dân tộc ta sánh ngang với phong kiến phương Bắc, đối chính vị hiệu, dẹp yên lòng kẻ phản trắc. Muốn nói với kẻ thù rằng, nước Nam là đất nước có chủ, kẻ nào xâm lược kẻ ấy chịu thất bại. Trí tuệ ấy còn được biểu hiện trong việc xét đoán và dùng người. Khi đến Tam Điệp, gặp Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân đều mang gươm trên lưng và xin chịu tội, Nguyễn Huệ đã xử trí vừa có lý vừa có tình. Ông đã tha tội và khen: "Các ngươi đã biết nín nhịn để tránh mũi nhọn, bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho địch kiêu căng, kế ấy là rất đúng." Ông biết dùng Ngô Thì Nhậm - người khéo lời lẽ để ngoại giao với nhà Thanh sau chiến thắng. Ông rất hiểu sở trường sở đoàn của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người đúng việc. Trí tuệ ấy biểu hiện trong việc phân tích tình hình thời cuộc và tương quan ta - địch. Trong lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An, vua Quang Trung khẳng định chủ quyền dân tộc ta và hành động xâm lăng phi nghĩa trái đạo trời của giặc (đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng), nêu bật dã tâm của giặc (bụng dạ bụng dạ ắt khác, giết hại nhân dân, vơ vét của cải), nêu cao truyền thống đánh giặc ngoại xâm của dân tộc ta từ xưa. Kêu gọi quân lính đồng tâm hiệp lực, ra kỷ luật nghiêm minh. Lời phủ dụ như một bài hịch ngắn gọn mà ý tưởng thật phong phú, sâu xa có tác dụng kích thích lòng yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc.

    Không những vậy Quang Trung - Nguyễn Huệ là người có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng. Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà vua Quang Trung đã tuyên bố chắc chắn như đinh đóng cột "phương được tiến đánh đã tính sẵn, lại có tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng một nước lớn gấp 10 nước mình để có thể dẹp việc binh đao cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng".

    Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ là người có tài dùng binh như thần. Đến tận hôm nay, chúng ta vẫn còn kinh ngạc vì cuộc hành quân thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn do vua Quang Trung chỉ huy. Ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất quân ở Phú Xuân Huế, ngày 29 đã tới Nghệ An vượt khoảng 350km qua Núi qua đèo. Đến Nghệ An, vừa tuyển quân, tổ chức đội ngũ, vừa duyệt binh chỉ trong vòng một ngày. Hôm sau tiến quân ra Tam Điệp (cách khoảng 150 km) và đêm 30 tháng chạp đã lập tức lên đường tiến quân ra Thăng Long, mà tất cả đều là đi bộ. Có sách còn nói vua Quang Trung sử dụng biện pháp dùng võng khiêng, một người được nằm nghỉ, luân nhau suốt ngày từ Tam Điệp ra Thăng Long (khoảng hơn 150 km). Vừa hành quân vừa đánh giặc mà vua Quang Trung định hoạch chỉ trong vòng 7 ngày, mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn Tết ở Thăng Long. Trên thực tế đã thực hiện kế hoạch sớm hơn 2 ngày. Trưa mùng 5 đã vào Thăng Long. Hành quân xa liên tục như vậy thường đội quân sẽ mệt mỏi rã rời nhưng nghĩa binh Tây Sơn cơ nào đội ấy vẫn rất chỉnh tề. Đó là do tài tổ chức của người cầm quân, hơn một vạn quân mới tuyển đặt ở trung quân còn quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng ra thì bao bọc ở bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu.

    Hình ảnh vua Quang Trung lẫm liệt trong chiến trận là một hình ảnh rất tuyệt đẹp. Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng chỉ huy chiến dịch thực sự, hoạch định phương được tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh một mũi tiến công, cưỡi voi đi thúc xông pha tên đạn, bày mưu tính kế. Đội quân của vua Quang Trung không phải toàn là lính thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân thần tốc, không có thời gian nghỉ ngơi. Vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của vua Quang Trung đã đánh những trận thắng thật đẹp, thật hào hùng, thắng áp đảo kẻ thù, bắt sống hết quân do thám của địch ở Phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hà Hồi. Quân lính luân phiên nhau dạ ran làm cho quân lính trong đồn ai nấy rụng rời sợ hãi xin hàng. Công phá đồn Ngọc Hồi, lấy ván ghép phủ rơm dấp nước để làm mộc che, dàn trận tiếnn đánh, khi giáp lá cà thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa. Những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới. Khí thế của đội quân này làm cho kẻ thù phải khiếp vía. Thật là tướng ở trên trời rơi xuống, quân chui dưới đất lên và hình ảnh người anh hùng cũng được khắc họa thật lẫm liệt trong trận đánh đồn Ngọc Hồi. Giữa cảnh khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, nổi bật hình ảnh nhà vua cưỡi voi đi đốc thúc. Có sách ghi Quang Trung vào đến Thăng Long tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng.

    Tác phẩm tái hiện sự thật lịch sử vừa chính xác và sinh động. Các tác giả ghi tiếp các sự kiện lịch sử theo lối biên niên sử, không thuật lại khô khan, lạnh lùng mà sáng tạo. Chi tiết nghệ thuật độc đáo, cách trần thuật của tác phẩm thật đặc sắc. Không chỉ nhằm ghi lại sự kiện lịch sử, diễn biến gấp gáp, khẩn trương qua từng mốc thời gian mà còn chú ý miêu tả cụ thể từng hành động, lời nói của nhân vật chính. Từng trận đánh và những mưu lược tính toán, thế đối lập giữa hai đội quân (một bên thì nhát gan, một bên thì xông xáo, dũng mãnh, tổ chức nghiêm minh). Qua đó, hình ảnh người anh hùng được khắc họa khá đậm nét có tính cách quả cảm, mạnh mẽ, có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, có tài dụng binh như thần, là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại. Mỗi nhân vật được khắc họa bởi tài năng hơn người. Đọc hồi thứ 14 của "Hoàng Lê Nhất Thống Chí", người đọc như được sống trong thời trang sách với những chiến công lẫy lừng của Nguyễn Huệ - Quang Trung, một con người đi vào lịch sử của dân tộc, một con người tạo thành núi sông sáng ngời của dân tộc chính vị anh hùng áo vải này đã trở thành tượng đài của thế hệ những nhà cầm quân thao lược trong lịch sử Việt Nam. Lịch sử mãi mãi khắc ghi tên người anh hùng ấy Quang Trung Nguyễn Huệ:

    Vua Quang Trung vua Quang Trung

    Đệ nhất anh hùng trong anh hùng

    Đệ nhất quân vương trong quân vương

    Đệ nhất tướng tài trong danh tướng

    Kim khó bì, cổ cũng khó bì.​
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...