Cảm nhận chín câu đầu trong văn bản Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Whiskey, 19 Tháng mười 2021.

  1. Whiskey Whiskey

    Bài viết:
    45
    ĐỀ BÀI. Cảm nhận 9 câu đầu trong Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm.

    "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

    Đất Nước có trong những cái" ngày xửa ngày xưa.. "mẹ thường kể.

    Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

    Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

    Tóc mẹ thì bới sau đầu

    Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

    Cái kèo, cái cột thành tên

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

    Đất Nước có từ ngày đó.."

    BÀI LÀM:

    [Mở bài 1] Từ xưa đến nay, đề tài về đất nước là mảng đề tài rộng lớn nhất và được khai thác nhiều nhất. Mỗi một nhà văn, nhà thơ lại có trong mình một cách nhìn nhận về đất nước khác nhau. Nếu như trong cách nhìn nhận của Lý Thường Kiệt với những vần thơ thần được đọc trên sông Như Nguyệt trong bài "Sông núi nước Nam" đất nước hiện lên vô cùng thiêng liêng nhưng lại có phần quá đỗi cao siêu gắn liền với ngai vàng của nhà vua, với thiên thư là sách trời. Còn trong cách nhìn nhận của đại thi hào Nguyễn Trãi, trong kiệt tác của đời ông "Bình Ngô đại cáo" thì đất nước lại là sự tiếp nối của các triều đại phong kiến "Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập - Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương". Nhưng trong cách nhìn nhận của những người như Chu Mạnh Trinh hay là Nguyễn Khuyến thì đất nước này lại được nhìn nhận qua phong cảnh quê hương. Nằm trong mạch nguồn cảm xúc ấy, làm sao ta có thể quên được đó là đoạn trích "Đất Nước" thuộc chương V của trường ca "Mặt đường khát vọng" của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ông thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ của thơ ca thời kì kháng chiến chống Mỹ, cùng thời với những tên tuổi như Xuân Quỳnh, Lâm Thị Vỹ Dạ, Phạm Tiến Duật, Trần Đăng Khoa.. Và lần đầu tiên lại có một nhà thơ như Nguyễn Khoa Điềm, ông đem đến một tư tưởng đầy mới mẻ Đất nước này là của nhân dân, do nhân dân làm ra, do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời. Tư tưởng ấy được ông kết tinh trong trường ca "Mặt đường khát vọng". Đặc biệt, đoạn trích "Đất Nước" là sự kết tinh của những sáng tạo độc đáo, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:

    [Mở bài 2] Đất nước, đã từ lâu, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Được khơi nguồn từ đề tài quen thuộc ấy, khác với những nhà thơ trẻ của thơ ca thời kì kháng chiến chống Mỹ, cùng thời như Xuân Quỳnh, Lâm Thị Vỹ Dạ, Phạm Tiến Duật, Trần Đăng Khoa.. Lần đầu tiên lại có một nhà thơ như Nguyễn Khoa Điềm, ông đem đến một tư tưởng mới đầy mới mẻ Đất nước này là của nhân dân, do nhân dân làm ra, do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời. Như nhà thơ từng chia sẻ: "Đất Nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh hùng nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân". "Tôi cố gắng thể hiện hình ảnh Đất Nước giản dị, gần gũi nhất". Rút ra từ trường ca "Mặt đường khát vọng", đoạn trích "Đất Nước" là sự kết tinh của những sáng tạo độc đáo, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:


    "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

    * * *

    Đất nước có từ ngày đó.."

    [Giới thiệu chung thuộc thân bài] Thơ Nguyễn Khoa Điềm có lúc hùng tráng, sôi nổi, có lúc trữ tình tha thiết đầy hào khí nhưng tất cả đều toát lên vẻ đẹp nồng nàn với đời với người. Thơ ông có sự kết hợp nhuần nhị giữa chất trữ tình và chất chính luận, một giọng điệu riêng vừa đằm thắm tha thiết, da diết vừa suy tư đầy tính chiêm nghiệm. Bài thơ Đất Nước là một đoạn trích tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Hình tượng nổi bật trong thơ ông là những thanh niên trí thức, những người dân lao động cần lao với tấm lòng yêu nước nồng cháy. Trường ca mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị-Thiên vào 1971. Tác phẩm viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị miền Nam về non sông đất nước cũng như sứ mệnh của thế hệ mình để cùng hòa chung nhịp đập với cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Có thể nói chương V là chương hay nhất, thể hiện được một trong những tư tưởng cơ bản nhất, cốt lõi nhất của trường ca – nhận thức về đất nước. Đây là tư tưởng tiền đề có vai trò quan trọng, là điểm tựa cho sự phát triển của toàn bộ bản trường ca này. Đất nước hiện lên trong thơ ông mang một vẻ đẹp mộc mạc chân chất có sự hài hòa giữa con người và cảnh vật, giữa quá khứ thiêng liêng với thực tại anh hùng, giữa trách nhiệm và bổn phận của thanh niên với đất nước.

    Chương V mở đầu bằng một giọng điệu hết sức tình cảm thiết tha. Dòng thơ mở đầu đã khẳng định sự tồn tại lâu đời của Đất Nước ta, dân tộc ta.


    "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi"

    [Thân bài] Câu thơ mở đầu là lời khẳng định tự nhiên, giản dị: "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi". Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì "Đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng; đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác". Cho nên "khi ta lớn lên đất nước đã có rồi. Cách nói" Đất Nước đã có rồi "đã thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất Nước cũng như Trời và Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên đầu. Cũng như vậy, không biết Đất Nước có tự bao giờ nhưng khi ta lớn lên ta đã thấy Đất Nước của mình rồi, nó hiện diện quanh ta với những gì yêu thương nhất. Như vậy, Đất Nước tồn tại như một điều hiển nhiên, nó có chiều sâu cội nguồn cũng như sự hình thành và phát triển bao đời nay.

    Đứng trước một Đất Nước thiêng liêng như thế, lòng thơ dâng trào niềm xúc động và thành kính. Hai từ" Đất Nước "được viết hoa một cách trang trọng. Đó là cách mà nhà thơ thể hiện niềm tự hào và lòng thành kính trước Đất Nước của mình. Cụm từ" đã có rồi "mang ý nghĩa khẳng định xuất hiện đã xác nhận một điều rằng cội nguồn của hình tượng này được hình thành từ rất lâu và bắt nguồn từ những gì gần gũi thân thương nhất trong đời sống vật chất lẫn tinh thần hằng ngày, dễ dàng bắt gặp ở mọi nơi.

    Suy ngẫm về cội nguồn của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm bỗng phát hiện:


    " Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa.." mẹ thường hay kể.

    Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

    Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc "

    Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để diễn tả về Đất Nước. Đối với trẻ thơ, Đất Nước thân thương hiện qua qua lời kể" Ngày xửa ngày xưa "của bà của mẹ, là hình ảnh cô Tấm bị mẹ con Cám bắt nạt, là hình là nàng tiên bước ra từ quả thị.. Cụm từ" ngày xửa ngày xưa "thật quen thuộc và gần gũi với từng con người Việt Nam. Bởi, mỗi câu chuyện là mỗi bài học đạo lí dạy ta biết" ở hiền gặp lành ", biết thiện thắng ác, biết sống thủy chung.. Tác giả không dùng từ ngữ, hình ảnh hoa mĩ tráng lệ mang tính biểu tượng để thể hiện Đất Nước mà dùng cách nói giản dị, tự nhiên, dễ hiểu, dễ thấm vào lòng người. Tác giả giúp ta tìm hiểu Đất Nước có từ nền văn hóa dân gian cha ông ta để lại. Có nghĩa là Đất Nước đã có từ lâu đời. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ để lớn lên ta biết yêu thương đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết rằng:

    " Tôi yêu truyện cổ nước tôi

    Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa

    Thương người rồi mới thương ta

    Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần "

    (Truyện cổ nước mình)

    Suy ngẫm về cội nguồn của Đất Nước, bên cạnh những câu chuyện cổ tích, cái buổi ban đầu ấy còn được xác định qua một nếp sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ, người bà Việt Nam. Đó là phong tục ăn trầu:" Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn ". Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Tại sao Đất Nước lớn lao, kỳ vĩ sao lại chứa đựng trong một miếng trầu bé nhỏ? Hình thức câu thơ chứa đựng sự phi lí nhưng lại hoàn toàn hợp lí bởi tất cả những điều lớn lao đều bắt nguồn từ những điều bé nhỏ. Ví không có những dòng suối nhỏ sao trở thành dòng sông, ví như không có những dòng sông sao có thể trở thành biển cả. Cho nên nhắc đến" miếng trầu "chắc hẳn là nhắc đến một điều sâu thẳm. Câu thơ gợi nhớ về câu chuyện cổ tích" Sự tích trầu cau "được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Miếng trầu mang trong mình những giá trị văn hóa truyền thống, dân dã quen thuộc với người Việt Nam." Miếng trầu bà ăn "là miếng trầu tình nghĩa trong" sự tích trầu cau "khiến ta rưng rưng nước mắt về tình cảm vợ chồng, về tình nghĩa anh em gắn bó. Từ đó, hình ảnh" trầu cau "trở thành" miếng trầu là đầu câu chuyện ", trở thành thứ không thể thiếu được trong mọi sự kiện quan trọng của đời người, trong lễ cưới, tượng trưng cho tình nghĩa đằm thắm, thủy chung. Vì thế, từ hình tượng này, miếng trầu cũng được Nguyễn Khoa Điềm xem như là khởi thủy cho sự xuất hiện của Đất Nước trong tiềm thức con người Việt Nam, trở thành một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương, tình nghĩa đằm thắm và lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc.

    Đất nước còn gắn liền với vẻ đẹp truyền thống văn hóa lâu đời của đất nước, con người Việt Nam. Sự phát triển của đất nước còn gắn liền với ý thức chống giặc ngoại xâm. Điều ấy được thể hiện qua cụm từ" dân mình biết trồng tre mà đánh giặc ", gợi liên tưởng đến sự tích Thánh Gióng đứa trẻ 3 năm không nói không cười thế mà chỉ cần một lời gọi cứu nước của sứ giả đã vụt lớn lên. Đứa bé ấy đã vươn vai trở thành chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc. Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: Thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hòa bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc" Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ". Từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm." Lớn lên "chính là cách nói ẩn dụ về sức mạnh dân tộc – sức mạnh của cả thể chất, vật chất, tinh thần. Khi có giặc ngoại xâm mỗi người dân sẽ chiến đấu hết mình để bảo vệ tổ quốc thân yêu.

    Mỗi cuộc kháng chiến thành công đều có sự đóng góp to lớn của nhân dân. Vì vậy, trong cái nhìn lý giải của Nguyễn Khoa Điềm, quá trình đất nước hình thành và phát triển được nhìn nhận trong mối quan hệ với nhân dân. Quá trình phát triển ấy, từ" có "," bắt đầu ", đến" lớn lên "của đất nước không được nhìn nhận trong chiều dài các sự kiện lịch sử của các sử gia, không được nhìn nhận trong sự phát kiến mở rộng lãnh thổ của các nhà địa lý, cũng như không được nhìn nhận bằng sự thay đổi chế độ giai cấp của các chính trị gia mà được nhìn nhận ở một góc độ bình dị gần gũi nhất – đó là cuộc sống của nhân dân. Đất nước hình thành trong nhân dân, phát triển cùng cuộc sống của nhân dân.

    Như vậy, trong những cảm nhận ban đầu của Nguyễn Khoa Điềm, khởi nguyên của Đất nước chưa phải là những trang sử hào hùng với những chiến tích thuở hồng hoang vĩ đại mà là những huyền thoại, những truyền thuyết. Lịch sử lâu đời của Đất nước không được cắt nghĩa bằng sự nối tiếp của các triều đại hay các mốc son lịch sử chói lọi mà được nhìn trong chiều sâu văn hóa và văn học dân gian. Đây cũng chính là điểm mới trong cách tìm về nguồn cội Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm.

    Ở những dòng thơ sau, Nguyễn Khoa Điềm lại đưa đến một cách lý giải đặt biệt. Sự xuất hiện và tồn tại của Đất Nước được gắn liền với gia đình. Sự tồn tại ấy như một lẽ hiển nhiên. Xuyên suốt chiều dài bốn ngàn năm văn hiến của dân tộc, Đất Nước hình thành và phát triển.


    " Tóc mẹ thì bới sau đầu

    Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

    Cái kèo, cái cột thành tên

    Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng "

    " Tóc mẹ thì bới sau đầu "- đó là hình ảnh đặc thù của người phụ nữ Việt Nam, thùy mị, duyên sáng và thật đáng yêu. Nó gợi sự đảm đang tần tảo, hy sinh của mẹ. Đó là những đức tính truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Nét đẹp ấy làm ta gợi nhớ đến câu ca dao:

    " Tóc ngang lưng vừa chừng em búi

    Để chi dài bối rối lòng anh "

    Câu thơ như thể hiện niềm tự hào, nét đẹp văn hóa của con người Việt Nam. Dù người Việt nam đã trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm chống Pháp, chống Mĩ thì người phụ nữ VN vẫn giữ mái tóc kiên cường ấy ở sau gáy.

    Không những chỉ là những cảm nhận ở trên về Đất Nước mà Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận Đất Nước trong vẻ đẹp tình yêu của cha mẹ với lối sống nặng tình nặng nghĩa như" gừng cay muối mặn ".


    " Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn "

    Cha mẹ đến với nhau bằng tình yêu thương, sống với bằng sự thủy chung son sắt." Gừng cay muối mặn "gợi sự gian nan khó khăn, những giọt nước mắt đắng cay, vất vả lo toan trong cuộc sống thường nhật. Đây cũng là điểm tựa cho sự phát triển của một gia đình. Dù gian nan, dù cay đắng nhưng cha mẹ vẫn đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để tình cảm thêm mặn nồng, thắm thiết. Hình ảnh thơ gợi ta nhớ câu ca dao:

    " Tay bưng đĩa muối, chén gừng

    Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau "

    Hay

    " Muối ba năm muối đang còn mặn

    Gừng chin tháng vẫn hãy còn cay

    Đôi ta tình nặng nghĩa đầy

    Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa "

    Thành ngữ" gừng cay muối mặn "được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời. Quy luật của tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn. Quy luật trong tình cảm con người là con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu.. đi vào năm tháng.

    Gia đình là một tế bào xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Cách ứng xử trong gia đình cũng ảnh hưởng đến cách cư xử của con người trong mối quan hệ với đất nước. Có thể thấy rằng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã rất tinh tế khi đưa ra chất triết lý này.

    Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến" Cái kèo cái cột thành tên ". Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Cũng vì vậy mà bắt đầu xuất hiện tục đặt tên gần với những dụng cụ hằng ngày, khiến con người càng ngày càng gắn bó chặt với cuộc sống xung quanh, khiến họ có trách nhiệm giữ gìn, vun đắp vào ánh lửa của tổ ấm gia đình. Đặt tên là Kèo, là Cột tuy bình dị mà lại ẩn chứa nhiều suy nghĩ sâu xa. Phải chăng khi viết về Đất Nước, tác giả đã dồn nén cảm xúc ngọt ngào và suy tư sâu lắng để làm nên những câu thơ hay?

    Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó:


    " Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng ".

    Thành ngữ" Một nắng hai sương "một lần nữa đưa ta về với miền đất trù phú của văn học dân gian, cũng đặc tả sự khó nhọc, vất vả của người dân khi làm ra hạt ngọc trời. Để làm ra một bát cơm thơm, một hạt gạo trắng, là cả một quá trình đầu lo âu và vất vả, người nông dân phải dầm sương, dãi nắng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Quá trình" xay, giã, giần, sàng "được liệt kê một cách đầy đủ khiến ta hình dung được nối tiếp nhau vừa gợi ra được một chuỗi hành động liên tiếp nhau vừa cho thấy được sự lao động hăng say, miệt mài không ngơi tay của người nông dân ra quá trình làm ra hạt gạo, đó quả là một hành trình đầy gian nan vất vả, cũng chính vì vậy đã đặc tả lại rõ nét đức tính cần cù, chăm chỉ. Phép liệt kê các hành động" xay, giã, giần, sàng "nối tiếp nhau vừa gợi ra được một chuỗi hành động liên tiếp nhau vừa cho thấy được sự lao động hăng say, miệt mài không ngơi tay của người nông dân trong bhịp thơ nhanh, vui tươi như một khúc ca lao động đầy yêu đời.

    Câu thơ đánh dấu sự chuyển biến từ thời kì hái lượm tự nhiên sang thời kì trồng cấy để hình thành nền văn minh lúa nước. Lấy hạt gạo làm kho báu của chính mình, bởi vậy hạt gạo được gọi là niềm sống đầy trân trọng và nâng niu, câu thơ gợi nhắc bài ca dao:


    " Cày đồng đang buổi ban trưa

    Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

    Ai ơi bưng bát cơm đầy

    Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. "

    Câu thơ cuối cùng khép lại bằng một lời khẳng định về thời điểm hình thành của Đất Nước với niềm tự hào:

    " Đất Nước có từ ngày đó.. "

    " Ngày đó "vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khú vừa là một phép thế đại từ. Đó là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa" Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca". Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.

    Dòng thơ cuối với dấu ba chấm tạo độ ngân vang cho cả câu thơ gợi sự suy tưởng: Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh thiêng biết mấy.

    [Đánh giá chung] Có thể nói, chỉ trong một đoạn thơ rất ngắn. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rất tài tình và hiệu quả chất liệu văn hóa, văn học dân gian. Nhà thơ không chỉ ra một bài nào cụ thể, cũng không trích nguyên văn một câu nào trọn vẹn mà chỉ dẫn ra, gợi ra một vài từ ngữ, hình ảnh tiêu biểu. Nhưng từng đó cũng đủ để nhà thơ vừa đạt được mục đích của mình là thể hiện một đất nước dung dị, gần gũi, đời thường vừa gọi dậy trong tâm thức người đọc cả một bề dày và chiều sâu văn hóa nghìn đời của dân tộc với những nét rất đặc thù, rất đáng tự hào. Nén trong từ câu chữ là vốn sống, vốn văn hóa văn học dân gian và những cảm nhận phong phú về đất nước. Ngôn từ bình dị tựa như lời ăn tiếng nói hằng ngày nhưng chứa đựng trong đó là cả một sức gợi mạnh mẽ. Giọng điệu vui tươi, tự nhiên nhưng tràn đầy sức sống, chính vì gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày mà những câu thơ dễ chạm vào trái tim người đọc hơn bao giờ hết. Tất cả đã làm nên thành công cho đoạn thơ nói riêng và cả trích đoạn Đất Nước nói chung.

    [Kết bài] Bằng cảm nhận rất đỗi thân thương, gần gũi. Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh Đất Nước bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp. Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình.

    NOTE: Mọi người có thể chọn một trong hai cách mở bài hoặc mở bài theo cách của bản thân đều được.
     
    Quách NgônAdmin thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...