Cảm nhận các đoạn thơ việt bắc – tố hữu

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Azur Phạmm, 29 Tháng năm 2021.

  1. Azur Phạmm

    Bài viết:
    6
    I. MỞ BÀI:

    "Chín năm làm một Điện Biên

    Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng"

    Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Sự kiện này cũng đã khơi nguồn cảm hứng cho nhiều thi sĩ viết nên những tác phẩm bất hủ, mang tầm vóc lịch sử, mang giá trị thời đại sâu sắc. Việt Bắc - Tố Hữu cũng được thai nghén trong bối cảnh hào hùng của thắng lợi này. Tố Hữu – cánh chim đầu đàn của thơ ca Cách mạng Việt Nam. Thơ ông thể hiện lí tưởng, lẽ sống của con người Việt Nam hiện đại, nhưng vẫn thấm đẫm chất dân tộc, truyền thống. Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, một thi phẩm xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Bài thơ vừa là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp, vừa là khúc tình ca nghĩa tình Cách mạng Việt Nam.

    II. THÂN BÀI:

    1. Cách dẫn dắt, khái quát:

    Đã nhiều lần ta bắt gặp trong văn chương cuộc chia tay đầy luyến lưu, bịn rịn. Lần Thúy Kiều tiễn Thúc Sinh "muôn dặm một mình xa xôi" trong Truyện Kiều của Nguyễn Du để lại lòng người nỗi xót xa, day dứt. Cuộc "tống biệt" trong khúc "Tống biệt hành" của Thâm Tâm gợi nỗi buồn man mác và sự quyết tâm trong tim chàng thanh niên ra đi tìm lí tưởng cuộc sống. Chia tay với người đi, kẻ ở đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các thi sĩ xưa nay.

    "Việt Bắc" cũng tái hiện lại một cuộc chia tay. Đây là cuộc biệt li giữa những người đã từng gắn bó "mười lăm năm ấy", nay cùng ôn lại những kỉ niệm thời kháng chiến, khẳng định đạo lí sống ân nghĩa, ân tình, cùng hướng về tương lại. Diễn biến tâm trạng của kẻ ở, người đi được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, có lời hỏi, lời đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng, đồng vọng.

    Chuyện ân tình Cách mạng đã được Tố Hữu thể hiện thật khéo léo như chuyện tình yêu, đôi lứa. Hỏi và đáp ở đây chỉ là một thủ pháp nghệ thuật để khơi gợi, bộc lộ tâm tư, tình cảm của tác giả, của những người kháng chiến.

    2. Cảm nhận từng đoạn thơ trong bài thơ Việt Bắc:

    * Đoạn thơ: "Mình về mình có nhớ ta.. Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"

    Ngay từ những dòng thơ mở đầu, Tố Hữu đã mở ra khung cảnh chia li đầy xót xa, bịn rịn. Tâm trạng kẻ ở (đồng bào Việt Bắc) và người đi (người cán bộ về xuôi) từ đó cũng được bộc lộ thật cụ thể, tinh tế.

    Những dòng thơ trữ tình êm ái đưa người đọc vào một không gian thơ đặc sắc. Bốn dòng thơ đầu là lời ướm hỏi của người ở lại (đồng bào Việt Bắc). Khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, một mầm sống xanh non đang dần nhú lên trên quê hương Việt Bắc, đồng bào miền núi nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay đã lên tiếng trước, gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó trong "mười lăm năm ấy".

    "Mình về mình có nhớ ta

    Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

    Mình về mình có nhớ không

    Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?"

    Tâm trạng băn khoăn trở đi trở lại như một niềm day dứt trong lòng người ở lại. Một câu hỏi gợi nhắc về thời gian: "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng"... "

    Mười lăm năm ấy" là một quá trình gắn bó dài lâu, được tính từ khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940) cho đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, hòa bình lập lại, Việt Bắc đã làm tròn sứ mệnh của một căn cứ địa Cách mạng vững chắc. Trong khoảng thời gian ấy, biết bao ân tình sâu nặng mà đồng bào Việt Bắc đã dành cho Cách mạng và lháng chiến, trong giây phút chia tay, kỉ niệm gắn bó suốt mười lăm năm ấy hiện về với bao điều muốn nói nhưng cũng không thể nào nói hết.

    Một câu hỏi gợi nhắc về không gian: "Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn". Cây, núi, sông, nguồn gợi nhớ một vùng căn cứ địa Cách mạng đã từng chở che, bảo bọc cho con người, đó là không gian của nguồn cội, nghĩa tình. Làm sao không khỏi xốn xang khi nghe được những lời thiết tha pha lẫn chút lo âu của người Việt Bắc: "Mình có nhớ ta", "mình có nhớ không"? "Mình", cái tiếng ấy sao thật dịu dàng, ngọt ngào và trĩu nặng yêu thương đến lạ. Cái tình của bài thơ được bộc lộ từ chính cách xưng hô "mình – ta".

    Dường như trong bài thơ này, bao giờ người Việt Bắc cũng sợ nhịp sống hiện đại phố thị sẽ khiến người cán bộ về xuôi quên mình, quên cả nghĩa tình, cả buồn vui một thuở. Đây là nét tâm lí thường tình, một chút dỗi hờn, một chút luyến lưu, đong đầy thương nhớ:

    "Mình về thành thị xa xôi

    Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng

    Phố đông còn nhớ bản làng

    Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng"

    Như nghe được tiếng lòng của người ở lại, người đi cũng cảm thấy "Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi", người ra đi giờ đây bâng khuâng lưu luyến như chẳng muốn rời xa:

    "Tiếng ai tha thiết bên cồn

    Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

    Áo chàm đưa buổi phân li

    Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.."

    Trong giờ phút chia li nay, người ra đi cũng dâng trào cảm xúc, im lặng để tri âm. Lời thơ tái hiện không khí chia tay xúc động giữa người cán bộ về xuôi và đồng bào Việt Bắc. Trong không gian im ắng của núi rừng, bất chợt một "tiếng ai" thân quen từ từ ngân vang, đi sâu vào lòng mình thật trọn vẹn, đầy đủ. "Tiếng ai" vọng lại bên cồn nghe sao tha thiết quá! Chính sự hô ứng trong ngôn từ đã tạo được sự đồng vọng trong lòng người, người ra về biết bao lưu luyến, bịn rịn không nỡ rời chân: "Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi."

    Hình ảnh của tấm "áo chàm" – sắc áo chàm thân quen của những con người Việt Bắc đã trở thành điểm nhớ thân thương gắn bó với lòng người ra đi qua cách sử dụng nghệ thuật hoán dụ độc đáo của nhà thơ. Cùng với "áo chàm", người ở kẻ về không nỡ rời tay, họ chỉ biết lặng lẽ "Cầm tay nhau" nhưng "biết nói gì". Nói gì đây, bởi lẽ có nói bao nhiêu cũng chưa đủ, chưa thỏa lòng người bởi bấy nhiêu năm gắn bó bên nhau với bao kỉ niệm ân tình. Đoạn thơ khép lại bằng cái "cầm tay" trao truyền hơi ấm, cầm tay để hồi tưởng những tháng năm vất vả mà hào hùng, cầm tay để dặn nhau đừng bao giờ quên nhau dẫu cuộc sống có đổi thay, lòng người có thay đổi. Có lẽ vì vậy mà đoạn thơ đã khái quát trạng thái tâm lí của con người trước lúc xa nhau, lo âu, buồn tủi.. đó là điều không thể nào tránh khỏi.

    * Đoạn thơ: "Mình đi có nhớ những ngày.. Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa"

    Tố Hữu đã phân thân mình thành kẻ ở - người đi để hỏi và đáp – cái cớ để bộc lộ, giải bày xúc cảm, nhắc nhớ những kỉ niệm suốt chừng ấy năm "ta" với "mình" đã gắn bó bên nhau, cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ. Ở đây, Tố Hữu mượn lời của người ở lại để khơi gợi, nhắc nhớ những kỉ niệm ở Việt Bẵ trong những năm Cách mạng và kháng chiến. Mỗi lời thơ đều gợi ra những nét rất tiêu biểu trong kí ức về Việt Bắc mà người ra đi sẽ không thể nào quên.

    Người ở lại nhạy cảm với hoàn cảnh thay đổi tiếp tục cất lên tiếng nói gợi nhắc những kỉ niệm, những nghĩa tình thiết tha trong suốt "mười lăm năm ấy" cùng gắn bó, sẻ chia. Có lẽ trong giờ phút chia tay này, người ở lại có biết bao điều cần nhắn nhủ, giãi bày.. vì thế, những câu thơ trong đoạn thơ này mang hình thức của câu nghi vấn, những câu hỏi không gắn với những gì chung chung, bao quát mà rất gần gũi cụ thể. Mỗi câu đều gắn với một hình ảnh, một kỉ niệm kháng chiến nào đó như: Rừng núi, măng mai, trám bùi..

    Bốn câu đầu gợi nhắc những kỉ niệm về một thời kháng chiến gian khổ, khi đó, "ta" cùng "mình" chia ngọt sẻ bùi, cùng đồng cam cộng khổ:

    "Mình đi có nhớ những ngày

    Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

    Mình về có nhớ chiến khu

    Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai"

    Trong lúc chia xa, có rất nhiều cảm xúc đang dâng lên trong lòng người đưa tiễn khi kỉ niệm cứ lũ lượt ùa về. Cảm xúc dâng trào bởi trong mười lăm năm ấy tình cảm giữa "ta" và "mình" được dệt nên từ những yêu thương, từ gian khổ, thiếu thốn và sự chung sức chung lòng. Nhớ Việt Bắc là nhớ nhớ về một thời kháng chiến gian khổ. Ở đó, "ta" với "mình" cùng chia sẻ những khó khăn. Thời tiết Việt Bắc đôi khi thật khắc nghiệt, dữ dội, mai này ra về làm sao người cán bộ quên được cảnh "mưa nguồn suối lũ" – những cơn mưa dầm dề, những cơn lũ dữ rầm rộ giữa đại ngàn hùng vĩ. Làm sao quên được cảnh "những mây cùng mù" – mây giăng tứ phía, sương mù dày đặc và cả cái rét ngọt thấu xương. Ở Việt Bắc, họ dằn lòng cam chịu những thử thách của thiên nhiên. Chính trong cái cảnh dữ dội của gió núi, mưa nguồn, suối lũ.. nghĩa tình quân dân thêm bền chặt, thắm thiết.

    Nhớ chiến khu, những người kháng chiến làm sao quên được một thời cùng dằn lòng với "Miếng cơm chấm muối"? Đó là sự thiếu thốn về mặt lương thực, miếng cơm chấm muối đơn sơ cũng đủ để người Việt Bắc và đồng chí cán bộ no lòng. Họ cùng chung một mối thù "nặng vai" đối với bọn thực dân man rợ hung tàn. Một khởi đầu gian nan của Cách mạng, từ thuở ấy bên "ta" đã có "mình", bên "mình" đã có "ta", thử hỏi sao không chất chứa những tình cảm thiết tha, đầy lưu luyến?

    Bốn câu tiếp là lời gợi nhắc về nghĩa tình sâu nặng của đồng bào đối với Cách mạng và kháng chiến:

    "Mình về rừng núi nhớ ai

    Trám bùi để rụng, măng mai để già

    Mình đi có nhớ những nhà

    Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son."

    Người về khiến núi rừng cũng trống vắng khôn khuây. Nỗi trống vắng ấy không gì khỏa lấp được trong lòng người dân Việt Bắc. Khi những người cán bộ đã về xuôi, rừng núi ngẩn ngơ thương nhớ, trám bùi chín ngọt, măng mai già nua không ai hái. Khoảng trống ấy không chỉ xuất hiện trong lòng người ở lại mà còn là khoảng trống của núi rừng, nỗi buồn của miền sơn cước khi người thương trở về thủ đô phồn hoa rực rỡ. Người Việt Bắc nghèo cực mà chân tình, rộng mở, chí nghĩa chí tình. Hình ảnh "Hắt hiu lau xám" gợi tả vùng đất tiêu sơ hoang dã, chướng khí nặng nề. Trong khung cảnh đó, sự thiếu thốn, đói khổ đó, người Việt Bắc vẫn ngời lên tấm lòng son sắt đậm đà. Tình sâu nghĩa nặng, sự đùm bọc cưu mang trọn vẹn rộng lớn của đồng bào mãi mãi là điểm sáng trong tình cảm của những người kháng chiến. Lời thơ khẳng định tấm lòng sắt son trong sáng, nhân hậu thủy chung của nhân dân VB, đồng bào VB trong cuộc CM.

    Từ trong gian lao thử thách, Cách mạng đã trưởng thành. Nhớ về Việt Bắc là nhớ về cái nôi của Cách mạng và kháng chiến:

    "Mình về, còn nhớ núi non

    Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh

    Mình đi, mình lại nhớ mình

    Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa."

    Theo dòng hồi tưởng, người ở lại nhắc về thuở ban đầu gây dựng nền móng Cách mạng. Lúc đó, Cách mạng Việt Nam vẫn còn "trứng nước", non trẻ. Về sau, "lửa thử vàng gian nan thử sức", Cách mạng Việt Nam từ đó đã đã trưởng thành, nhân dân đứng lên chiến đấu và chiến thắng, dệt nên những trang sử vàng cho dân tộc. Giọng thơ đầy sự tự hào, nỗi niềm xúc động. Một thời kháng chiến hào hùng gắn liền với những địa danh lịch sử: "Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào". Đây là nơi Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam được thành lập. Nơi quốc dân Đại hội phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Lời thơ gợi nhớ, nhắc nhở mọi người đừng quên Việt Bắc – quê hương Cách mạng kiên cường, bền bỉ, góp phần xây dựng nền Cộng hòa cho Tổ quốc Việt Nam.

    Đoạn thơ là dòng cảm xúc dâng trào trong lòng người đưa tiễn lúc chia xa. Qua đó bộc lộ nghĩa tình gắn bó sâu nặng của nhân dân Việt Bắc đối với cán bộ kháng chiến. Cái hay, cái đẹp của đoạn thơ là những câu thơ lục bát với giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, xây dựng nhiều hình ảnh chọn lọc, có sức gợi cảm: Rừng núi, măng mai, trám bùi, lau xám.. Điệp từ "nhớ" trong đoạn thơ góp phần diễn tả nỗi nhớ mênh mông, da diết, làm sống dậy những kỉ niệm nghĩa tình và khơi dòng cảm xúc tuôn trào của tình kháng chiến, tình nhân dân, tình đất nước. Đoạn thơ đồng thời cũng là tình cảm, là lời nhắn nhủ người ra đi chớ nên quên Việt Bắc. Như cây có cội, như nước có nguồn, Cách mạng có lịch sử. Đó không chỉ là đạo lí Cách mạng mà còn là đạo lí của dân tộc, lẽ sống của con người. Đoạn thơ thể hiện được sự cộng hưởng trong chiều sâu tâm hồn những dòng thơ Việt Bắc.

    * Đoạn thơ: "Nhớ gì như nhớ người yêu.. Chày đêm nện cối đều đều suối xa"

    Đoạn thơ ghi lại những tình cảm sâu nặng, những nỗi nhớ da diết của người cán bộ về xuôi với phong cảnh thiên nhiên, hình ảnh con người và sinh hoạt ở chiến khu suốt "mười lăm năm ấy"

    Sáu dòng thơ đầu bộc lộ nỗi nhớ da diết về những cảnh vật đơn sơ, những sinh hoạt thường nhật, những địa danh quen thuộc ở chiến khu Việt Bắc:

    Nhớ gì như nhớ người yêu

    Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

    Nhớ từng bản khói cùng sương

    Sớm khuya bếp lửa người thương đi về

    Nhớ từng rừng nứa bờ tre

    Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

    Qua dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, cảnh vật Việt Bắc hiện lên thật bình dị, thật đẹp, thật thơ mộng, hiền hòa, mang đặc trưng của núi rừng Việt Bắc: Một vầng trăng thấp thoáng nơi đầu núi. Ánh nắng ban chiều lấp ló lưng nương. Cách so sánh "Nhớ gì như nhớ người yêu" càng làm cho nỗi nhớ thêm sâu sắc, thấm thía.

    Cuộc sống ở chiến khu Việt Bắc với những sinh hoạt quen thuộc, gần gũi của đồng bào cũng để lại một dấu ấn không phai mờ trong lòng người Cách mạng. Hoài niệm thiết tha làm sống dậy những kỉ niệm về Việt Bắc, nơi đó có những bản làng của đồng bào bồng bềnh thực hư trong sương khói, những bếp lửa hồng thấm đượm trong đêm khuya. Ở đó có bóng dáng người thương cần mẫn đi về. Những con người Việt Bắc gần gũi mà bình dị, giàu ân tình, ai ai cũng trở thành "người thương" trong nỗi nhớ của đồng chí cán bộ về xuôi.

    Những tên sông, tên suối rất đỗi bình dị, thân quen gắn liền với một thời Cách mạng máu lửa cũng vang lên một lần nữa trong lòng người kháng chiến. Đó là dòng Ngòi Thia, con sông Đáy, suối Lê – những địa danh quen thuộc. Tất cả là thời gian, không gian lung linh trong kỉ niệm. Có thể nói trong nỗi nhớ thiết tha của người cán bộ về xuôi khắc sâu ấn tượng về thiên nhiên Việt Bắc, chính vì thế mà thiên nhiên hiện ra với những nét đẹp vừa hiện thực vừa lãng mạn, thơ mộng. Gợi rõ những nét riêng biệt, độc đáo khác hẳn với những miền quê đẹp khác trên dải đất hình chữ S. Chỉ có những người đã từng sống ở Việt Bắc, xem Việt Bắc là thân thiết của mình mới có thể cảm nhận sâu sắc, thấm thía đến vậy.

    Đậm nét trong nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi là hình ảnh con người và cuộc sống ở chiến khu Việt Bắc:

    Ta đi ta nhớ những ngày

    Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi

    Thương nhau chia củ sắn lùi

    Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

    Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

    Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

    Việt Bắc là căn cứ địa Cách mạng, trong "mười lăm năm ấy", đồng bào Việt Bắc đã che chở, đùm bọc những người kháng chiến, sự cưu mang ấy thật trọn vẹn, rộng lớn. Xa Việt Bắc về lại Hà Thành, những người Cách mạng nhớ nhất là nghĩa tình sâu nặng của đồng bào: "Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi". "Mình" và "ta" nào có thể những "đắng cay ngọt bùi", những gian khổ khó nhọc mà cả hai cùng chịu đựng trong thời kì kháng chiến.

    Những câu thơ tiếp diễn tả cụ thể nghĩa tình sâu nặng, thấm thía mà đồng bào Việt Bắc đã dành cho Cách mạng:

    "Thương nhau chia củ sắn lùi

    Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng

    Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

    Điệu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô"

    Ở chiến khu Việt Bắc, người cán bộ và đồng bào cùng sẻ chia những khó khăn, chia nhau "củ sắn lùi" đơn sơ, bình dị, cùng "sẻ nửa" bát cơm, "đắp cùng" tấm chăn trong những đêm giá lạnh. Tất cả đã lột tả sâu sắc tình quân dân gắn bó thắm thiết, ân tình của đồng bào Việt Bắc dành cho Cách mạng. Trong khó khăn, tình nghĩa càng được đậm tô.

    Nhớ về nghĩa tình của những con người Việt Bắc, người ra đi hồi tưởng lại bóng dáng bà mẹ Việt Bắc tảo tần chắt chiu, lam lũ, chịu thương chịu khó. Dưới cái nắng "cháy lưng", người mẹ vẫn địu con lên nương bẻ bắp, âm thầm lao động cống hiến sức lực của mình trong công cuộc nuôi quân phục vụ cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai nhòa trong kí ức người ra đi.

    Cuộc sống, sinh hoạt ở chiến khu Việt Bắc qua hoài niệm của tác giả hiện lên thật thanh bình, yên ả, tràn đầy niềm lạc quan:

    Nhớ sao lớp học i tờ

    Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

    Nhớ sao ngày tháng cơ quan

    Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

    Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

    Chày đêm nện cối đều đều suối xa

    Sáu dòng thơ dựng lại những khung cảnh quen thương với những hình ảnh, âm thanh hết sức tiêu biểu cho sinh hoạt ở núi rừng Việt Bắc. Một lớp học tình thương, cán bộ dạy chữ cho người nghèo trong bản. Buổi liên hoan sáng rực ánh đuốc giữa đồng khuya. Không khí vui tươi, ấm áp, tràn đầy tinh thần lạ quan yêu đời của những người kháng chiến dù cuộc sống vẫn còn rất nhiều khó khăn, gian khổ: "Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo".

    Âm thanh của tiếng ca cuộc đời vang dội khắp núi đèo. "Tiếng mõ rừng chiều" và tiếng "chày đêm nện cối đều đều suối xa" là âm thanh đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, phản ánh nhịp sống, sinh hoạt, sự yên ả thanh bình miền sơn cước hữu tình.

    Qua nỗi nhớ của người ra đi, đoạn thơ đưa người đọc về những kỉ niệm bâng khuâng. Đó là hình ảnh thân thuộc, gần gũi, thiên nhiên và con người mang đậm chất Việt Bắc. Những con người gắn bó gần gũi, thân thương trong lòng người Cách mạng, họ là "người yêu", "người thương" trong hoài niệm. Qua đây khẳng định tình cảm thủy chung đối với quê hương Cách mạng. Đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ Tố Hữu: Thể thơ lục bát, cách gieo vần, ngắt nhịp làm cho đoạn thơ mang màu sắc dịu ngọt êm ái. Các biện pháp tu từ được sử dụng, hình ảnh chọn lọc, mang tính tượng trưng cao.

    * Đoạn Bức tranh tứ bình:

    Nhà thơ đã tái hiện cảnh sắc và con người Việt Bắc qua bốn mùa thật sinh động, độc đáo. Tố Hữu chỉ gợi chứ không thiên về tả, cốt yếu là ghi lại cái hồn của thiên nhiên và phẩm chất tốt đẹp của con người trong lao động thường nhật. Đoạn thơ quả là bức tranh tứ bình nhiều gam màu, nhiều sắc thái, nhắc lại những kỉ niệm thân thiết về cảnh và người Việt Bắc trong nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi.

    Hai dòng thơ đầu, Tố Hữu đã thâu tóm cảm xúc chung của cả đoạn thơ, đó là nỗi nhớ da diết, chân tình về cảnh vật và con người nơi núi rừng Việt Bắc.

    Ta về mình có nhớ ta

    Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

    "Mình có nhớ ta" là lời của người cán bộ về xuôi hỏi người ở lại là đồng bào Việt Bắc. Kết cấu của đoạn thơ này cũng như ở toàn bào thơ là kết cấu theo lối đối đáp thường gặp trong ca dao, dân ca. Nội dung đối đáp là để bộc lộ tình cảm lưu luyến với quê hương Cách mạng. Trong nỗi nhớ của người ra đi, người ra đi bộc bạch, giãi bày nỗi nhớ da diết một cách chân thành, cụ thể: "Nhớ những hoa cùng người". Như vậy, trong hoài niệm ấy cảnh vật và con người Việt Bắc hòa quyện với nhau tạo thành một thể thống nhất.

    Tám dòng thơ còn lại tràn ngập ánh sáng, sắc màu, đường nét. Tố Hữu đã tạo được một bức tranh độc đáo về Việt Bắc theo chủ đề "tứ quý". Cứ câu lục tả cảnh thì câu bát tả người, nhất quán xuyên suốt tám dòng thơ.

    Nhớ mùa đông Việt Bắc, người cán bộ về xuôi nhớ cảnh:

    Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

    Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

    Giữa cái bạt ngàn của núi rừng xanh thẳm, hiện lên màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ làm cho cảnh ngày đông ấm nóng lên, sáng tươi, rực rỡ, thiên nhiên dường như sinh sôi, nảy nở giữ mùa đông rét buốt. Sự sống tuôn tràn, lòng người ấm lại. Trên cái nền cảnh ấy, hình ảnh người lao động với "dao gài thắt lưng" đi lặng lẽ trên đèo cao, càng tăng thêm vẻ sống động, đậm chất miền núi.

    Mùa xuân tràn lên Việt Bắc, sắc màu đổi khác, núi rừng hiện lên với vẻ đẹp thật lãng mạn:

    Ngày xuân mơ nở trắng rừng

    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

    Cả núi rừng tràn ngập trong màu trắng tinh khôi của hoa mơ "mơ nở trắng rừng". Hai chữ "trắng rừng" diễn tả sức sống của mùa xuân, đem lại cảm giác ngây ngất trong lòng người ngắm cảnh. Làm đẹp cho cảnh ngày xuân còn có hình ảnh con người cần mẫn, đang lặng lẽ "chuốt từng sợi giang", đan nón – công việc nhẹ nhàng, khỏe khoắn, khoan thai.. con người là chủ nhân của mùa xuân, là người đang điểm tô cho sắc xuân của đất trời thêm lộng lẫy.

    Khi Việt Bắc đã sang hè, thiên nhiên rực rỡ đã để lại ấn tượng sâu sắc, đậm nét trong kí ức người kháng chiến:

    Ve kêu rừng phách đổ vàng

    Nhớ cô em gái hái măng một mình

    Mùa hè Việt Bắc rộn rã tiếng ve ngân vang gọi hạ. Màu vàng tươi đẹp của rừng phách đang đổ lá, dưới nắng hè tạo nên những mảng màu vàng tươi chói lọi ngỡ như cả cánh rừng Việt Bắc đang "đổ vàng". Câu thơ mang vẻ đẹp cổ điển, chỉ có sáu tiếng mà gợi lên cả âm thanh, ánh sáng, màu sắc, đường nét, diễn tả rất đắt sự chuyển đổi của thiên nhiên và sự vận động của thời gian. Hình ảnh cô gái Việt Bắc đang "hái măng một mình" trên rừng vắng làm cho bức tranh thêm phần duyên dáng, gần gũi.

    Mùa thu Việt Bắc để thương, để nhớ trong lòng người kháng chiến rất đỗi ân tình:

    Rừng thu trăng rọi hòa bình

    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

    Đêm trăng thu thanh tĩnh, dịu mát giữa rừng khuya, êm đềm, hiền hòa như một bức tranh tuyệt vời của đất nước. Tiếng hát ân tình thủy chung của ai đó vang lên thật ấm lòng, làm tăng vẻ thi vị, hấp dẫn của cảnh, trở thành bức tranh kỉ niệm không thể nào phai nhòa trong kí ức của người ra đi.

    Nhà thơ gợi tả thành công vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc qua bốn mùa, mỗi mùa một vẻ đẹp thi vị, độc đáo. Gắn bó với khung cảnh thiên nhiên là vẻ đẹp của con người bình dị, khỏe khoắn, làm chủ núi rừng. Họ cần cù, chịu thương chịu khó trong lao động và thủy chung trong nghĩa tình. Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé ấy đã góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính nghĩa tình của nhân dân đối với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui.. Tất cả đã làm cho Việt Bắc thêm ngời sáng trong tâm trí của nhà thơ.

    Tóm lại, cảnh thiên nhiên Việt Bắc qua nỗi nhớ của nhân vật trữ tình được tái hiện ở cả 4 mùa với màu sắc và vẻ đẹp khác nhau: Mùa đông tươi tắn, ấm áp; Mùa xuân trong sáng, tinh khôi; Mùa hè rực rỡ, sôi động; Mùa thu lãng mạn, yên ả, thanh bình. Con người Việt Bắc hiện lên thật đẹp: Cần cù, chăm chỉ, ân tình, luôn là chủ thể trong bức tranh. Con người và cảnh vật hòa quyện, gắn bó với nhau. Âm điệu thơ ngọt ngào, tha thiết, cách xưng hô mình – ta gần gũi, quen thuộc.

    Đây là đoạn thơ hay của bài thơ, thể hiện rất rõ phong cách thơ Tố Hữu. Đoạn thơ mở ra thế giới của cái đẹp: Thiên nhiên đẹp, con người đẹp, tấm lòng đẹp. Đó là sức cuốn hút, chinh phục của đoạn thơ cũng như của cả bài thơ "Việt Bắc".

    * Đoạn thơ: "Nhớ khi giặc đến giặc lùng.. Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà"

    Nếu âm hưởng bao trùm trong các đoạn thơ trước là ngọt ngào, thiết tha, sâu lắng như lời ru, vỗ về con người vào nhịp nhớ đều đặn của những kỉ niệm thì đoạn thơ này khắc họa cuộc sống, chiến đấu nơi Việt Bắc lại mang âm hưởng mạnh mẽ, dồn dập, sôi nổi. Hình ảnh thơ hoành tráng, đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn bay bổng. Một hình tượng "Đất nước đứng lên" như sống dậy trong mỗi câu thơ. Cả con người và thiên nhiên đã thống nhất thành một trận tuyến chống quân thù.

    Đoạn thơ là nỗi nhớ da diết của người ra đi về thiên nhiên Việt Bắc và con người miền núi trong chiến đấu, qua đó bộc lộ niềm tự hào của tác giả về một Việt Bắc anh dũng, kiên cường.

    Theo dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, lời thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu hào hùng trong không gian núi rừng rộng lớn:

    Nhớ khi giặc đến giặc lùng

    Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

    Câu thơ "Nhớ khi giặc đến giặc lùng" nhắc lại một thời điểm không thể nào quên trong "mười lăm năm ấy". Những ngày lực lượng Cách mạng ta còn non yếu, quân giặc lùng sục bắt bớ, không từ một tội ác nào để đàn áp nhân dân, bóp chết Cách mạng của ta khi còn trong "trứng nước". Quân dân Việt Bắc đã quật khởi chiến đấu, cả núi rừng chung sức cùng con người "đánh Tây". Nhân dân Việt Bắc, bộ đội, dân công, rừng cây, núi đá, tất cả đã thống nhất thành một trận tuyến chống giặc. Từ lúc "giặc đến giặc lùng" đến khi "Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây" là cả bước trưởng thành của Cách mạng, lời thơ chan chứa niềm tự hào của con người dấn thân vào cuộc kháng chiến trường kì gian khổ.

    Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, mù mịt của núi rừng, khơi dậy sức sống mạnh mẽ của con người và thiên nhiên Việt Bắc. Thiên nhiên đã góp phần to lớn vào cuộc kháng chiến.

    Núi giăng thành lũy sắt dày

    Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

    Vẫn là "rừng cây, núi đá" vô tri ấy thôi nhưng giờ đây, dường như chúng không còn là thứ thiên nhiên vô tri, vô giác nữa mà chúng chuyển mình, vận động trong cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc, cũng đứng lên, cầm vũ khí chiến đấu. Những dãy núi trùng điệp đã trở thành thàng lũy kiên cố, ngăn chặn quân thù, rừng chở che cho bộ đội, rừng bao vây quân thù. Thiên nhiên đã trở thành người chiến sĩ nhờ vào hình ảnh nhân hóa đầy ấn tượng: "Núi giăng- Rừng che- Rừng vây".

    Một lần nữa, Tố Hữu nhấn mạnh tinh thần đoàn kết chiến đấu của quân dân Việt Bắc, chung sức, chung lòng vì cuộc kháng chiến:

    Mênh mông bốn mặt sương mù

    Đất trời ta cả chiến khu một lòng

    Thiên nhiên Việt Bắc chìm đắm trong làn sương mù hư thực, như chở che cho quân ta, cản lối quân thù. Câu thơ "Đất trời ta cả chiến khu một lòng" nhấn mạnh tinh thần đoàn kết quân dân, sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, tất cả cùng hướng về cuộc chiến đấu chung, hướng về sứ mệnh bảo vệ quê hương, đất nước.

    Người ra đi nhớ về những địa danh Việt Bắc gắn liền với những chiến công vang dội:

    Ai về ai có nhớ không?

    Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

    Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng

    Nhớ từ Cao- Lạng, nhớ sang Nhị Hà.

    Lời hỏi "Ai về ai có nhớ không?" Là hỏi chính lòng mình. Hỏi là cái cớ để khẳng định "Ta về, ta nhớ", người cán bộ về xuôi làm sao quên được những trận đánh, những chiến công đáng tự hào ấy. Chính sức mạnh làm nên chiến công, làm nức lòng nhân dân. Mỗi địa danh gắn liền với một sự kiện trọng đại của đất nước.

    Đoạn thơ là nỗi nhớ da diết của người ra đi về Việt Bắc, là niềm tự hào của tác giả về Việt Bắc anh hùng, kiên cường, về mảnh đất "Địa linh nhân kiệt". Bên cạnh đó, đoạn thơ cũng mang đậm phong cách thơ Tố Hữu: Thể thơ lục bát, hình ảnh, từ ngữ chọn lọc, phép tu từ nhân hóa, điệp từ.. được sử dụng triệt để.

    * Đoạn thơ: "Những đường Việt Bắc của ta.. Vui lên Việt Bắc, Đèo De, núi Hồng"

    Trong bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã phác họa chân thật bức toàn cảnh lịch sử hoành tráng một thời như một sử gia tài giỏi đầy mẫn cảm. Với cảm hứng lịch sử mãnh liệt như ngọn lửa luôn thắp đỏ tâm hồn, Tố Hữu đã cảm nhận cuộc đời một cách hết sức thấm thía và sâu sắc trong mọi diễn biến của tiến trình hiện thực. Bằng ngòi bút đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn, Tố Hữu đã tái hiện lại khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong chiến đấu – dấu ấn đậm nét không thể nào phai nhòa trong trí nhớ của người cán bộ về xuôi. Đoạn thơ trên mang âm hưởng anh hùng ca, phác họa hình tượng "Đất nước đứng lên", Tổ quốc hiên ngang trong bom đạn quân thù.

    Trước hết, Tố Hữu đã phác họa bức tranh toàn cảnh quân và dân ta ra trận chiến đấu với khí thế hào hùng, sôi nổi, khẩn trương:

    "Những đường Việt Bắc của ta - Đêm đêm rầm rập như là đất rung".

    Hai dòng thơ gợi ra không gian rộng lớn (những đường Việt Bắc), thời gian đằng đẵng (đêm đêm) của cuộc chiến đấu vĩ đại, trường kì. Khí thế xung trận được cảm nhận bằng từ láy tượng thanh "rầm rập" - bước bước chân mạnh mẽ, rắn chắc nhịp độ khẩn trương, gấp gáp của một số lượng người đông đảo cùng hành quân một hướng. Tất cả tạo thành một sức mạnh tổng hợp làm rung chuyển cả đất trời. Hình ảnh so sánh cường điệu: "Đêm đêm rầm rập như là đất rung" nêu bật sức mạnh đoàn kết của quân và dân ta, quyết tâm chiến đấu, bảo vệ độc lập tự do. Qua không gian rộng lớn, thời gian đằng đẵng và khí thế hào hùng, có thể thấy rõ cuộc kháng chiến chống Pháp là trường kì, gian khổ, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn kiên cường, chung sức, chung lòng đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

    Hai câu tiếp miêu tả cụ thể hình ảnh bộ đội ta hành quân ra mặt trận, vừa hào hùng, vừa lãng mạn:

    "Quân đi điệp điệp trùng trùng - Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan".

    Từ láy "điệp điệp trùng trùng" đã khắc họa đoàn quânđông đảo, bước đi mạnh mẽ như những đợt sóng dâng trào, đọt này nối tiếp đợt kia tưởng chừng kéo dài đến tận chân trời. Hình ảnh "ánh sao đầu súng" vừa là hình ảnh tả thực trong đêm tối, vừa là hình ảnh ẩn dụ: Ánh sao của lí tưởng chỉ đường dẫn lối cho chiến sĩ đánh đuổi quân thù.

    Cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc kháng chiến của toàn dân, nhân dân hăng hái góp sức. Trên núi rừng Việt Bắc đêm khuya, cùng hành quân với bộ đội là những đoàn dân công tiếp lương, tải đạn:

    "Dân công đỏ đuốc từng đoàn- Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay".

    Những bó đuốc đỏ rực soi đường đã làm bật lên hình ảnh dân công tiếp lương, tải đạn, đảm bảo sức mạnh vật chất cho bộ đội ta chiến đấu và chiến thắng. Hình ảnh cường điệu: "Bước chân nát đá" khẳng định ý chí phi thường, sức mạnh to lớn của nhân dân kháng chiến. Cuộc kháng chiến là của toàn dân, của cả dân tộc, chiến đấu vì chính nghĩa, vì thế ta nhất định thắng.

    Trước sức mạnh và khí thế ấy, cả núi rừng bừng tỉnh. Hai câu thơ tiếp khẳng định niềm lạc quan, tin tưởng về cuộc kháng chiến sẽ đi tới thắng lợi:

    "Nghìn đêm thăm thẳm sương dày- Đèn pha bật sáng như ngày mai lên".

    Hai câu thơ tạo được sự tương quan giữ ánh sáng và bóng tối, ánh đèn pha rực sáng của ô tô kép pháo xuyên thủng màn đêm dày đặc, xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng. Hình ảnh thơ còn có ý nghĩa tượng trưng, câu thơ khắc họa bóng đêm đen tối thăm thẳm, gợi kiếp sống nô lệ của cả dân tộc dưới ách nô lệ của kẻ thù, câu dưới lại bừng lên ánh sáng của niềm tin vào một xu thế tất thắng, tương lai tươi sáng của dân tộc. Câu thơ được viết bằng cảm hứng lãng mạn bay bổng, dựng lên một hình tượng "Đất nước đứng lên" (tên một tác phẩm của Nguyên Ngọc).

    - Bốn dòng thơ sau cùng nói tới những tin thắng trận từ mọi nơi dồn dập về chiến khu Việt Bắc, niềm vui chiến thắng, niềm tự hào dân tộc.

    "Tin vui chiến thắng trăm miền

    Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

    Vui từ Đồng Tháp, An Khê

    Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng"

    Nhịp thơ dồn dập, vui tươi, náo nức, phấn khởi, mỗi địa danh là một nốt nhạc vui trong bản hùng ca chiến thắng. Niềm vui chiến thắng của ta không chỉ gặt hái được những chiến công ở Việt Bắc, quân và ta còn làm nên niềm vui chiến thắng "trăm miền", từ Tây Nam Bộ, Tây Nguyên cho tới Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên.. Các từ "vui về", "vui từ", "vui lên" đã đặt Việt Bắc vào tâm điểm của mọi tin vui, khẳng định vị trí của Việt Bắc, của quê hương Cách mạng đầu não của cuộc kháng chiến.

    Nghệ thuật đặc sắc của đoạn thơ: Thể thơ lục bát nhịp điệu uyển chuyển vừa trầm hùng vừa tha thiết; Biện pháp so sánh, ẩn dụ thể hiện hình ảnh đoàn quân ra trận mạnh mẽ, phi thường; Hình ảnh, địa danh gần gũi, chân thực gợi những kỉ niệm sâu sắc.

    3. Một vài kiến thức dùng để nhận xét:

    - Về tác giả, phong cách: Trong đội ngũ các thi sĩ của nền thơ Cách mạng Việt Nam, Tố Hữu là người viết sử bằng thơ sớm và đầy đủ nhất. Ông được ca ngợi là nhà biên niên sử, là người ghi lại trung thành những bước đường lịch sử hiện đại: "Khi dân tộc nhịp bước cùng thời đại". Trong thơ Tố Hữu, có những dấu vết nóng bỏng của thời đại – của ba dòng thác cách mạng, của lịch sử dân tộc với những chặng đường lớn, nhỏ qua các thời kỳ cách mạng. Đặc trưng trong phong cách thơ Tố Hữu là tính trữ tình – chính trị sâu sắc; thơ mang đậm chất sử thi; giọng điệu ngọt ngào, tâm tình tha thiết, chan chứa yêu thương như những làn điệu dân ca êm đềm xứ Huế và mang đậm tính dân tộc, truyền thống.

    - Về tính dân tộc: Tố Hữu là người con xứ Huế thơ mộng với giọng hò khoan thai, da diết mà trĩu nặng ân tình: "Huế ơi, quê mẹ của ta ơi! - Nhớ tự ngày xưa thuở chín mười - Mây núi hiu hiu chiều lặng lặng - Mưa nguồn, gió biển, nắng xa khơi", từ nhỏ đã được mẹ hát ru bằng điệu hò xứ Huế. Huế- "quê mẹ" thân yêu trong lòng thi sĩ. Âm điệu thơ Tố Hữu đậm đà hương vị dân tộc: Ngọt ngào, tha thiết, mượt mà, uyển chuyển, đằm thắm như lời ru của mẹ bằng lối đối đáp ân tình. Chất nhạc trong thơ Tố Hữu ngoài tài nghệ phối thanh còn ở cách gieo vần. Nhà thơ giàu từ ngữ và luôn am hiểu sâu sắc luật thơ tiếng Việt. Tính dân tộc đậm đà, hương vị dân tộc đã phản phất trong nhiều bài thơ của Tố Hữu.

    * * *

    III. KẾT BÀI:

    (gợi ý).. Quả thật, thơ Tố Hữu là "tiếng gọi đàn". Là tiếng nói của tâm hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu "." Việt Bắc"đậm đà tính dân tộc. Ý kiến trên thật xác đáng khi nhận xét về chiều sâu tư tưởng của bài thơ.
     
    Admin thích bài này.
    Last edited by a moderator: 6 Tháng mười một 2023
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...