CÁCH VIẾT ĐOẠN MỞ BÀI TRONG VĂN NGHỊ LUẬN THAM KHẢO 10 CÁCH MỞ BÀI Cách 1. Mở bài theo cách đưa ra một nhận định Mở bài bằng cách này, ta trích nhận định văn học vào mở bài, rồi dẫn dắt đến vấn đề nghị luận. Ví dụ 1: Trong "Trăng sáng", nhà văn Nam Cao từng gửi gắm quan niệm nhân sinh về nghệ thuật: "Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than". Đúng vậy, nghệ thuật chân chính luôn có điểm xuất phát từ cuộc đời và vì cuộc đời. Không chỉ Nam Cao, mà nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng luôn tâm niệm thiên chức "nâng giấc cho những kiếp người cùng đường tuyệt lộ" như vậy. Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" được Nguyễn Minh Châu viết từ những quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh đó. Nên không chỉ tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ qua phát hiện thứ nhất, nhà văn còn dựng lên bức tranh sần sùi, thô nhám về một lát cắt cuộc sống của gia đình hàng chài nghèo khổ qua phát hiện thứ hai (đoạn văn: "Ngay lúc ấy.. đã biến mất") . Qua đó nhà văn đã nói lên mối quan hệ khăng khít giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Ví dụ 2: Có một nhà văn đã nói rằng: "Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc sống viết ra". Cuộc chiến tranh chống Mĩ của dân tộc ta với biết bao câu chuyện đã trở thành huyền thoại được các nhà văn ghi lại như những câu chuyện cổ tích hiện đại. Trong số ấy phải kể đến "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng. Câu chuyện đã thể hiện thật cảm động tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Cách 2. Mở bài theo cách đưa ra một vấn đề lí luận. Mở bài theo cách này, ta dẫn ra một vấn đề lí luận văn học rồi dẫn dắt đến vấn đề nghị luận. Ví dụ 1: Thơ là lĩnh vực của sự độc đáo. Thơ không chỉ đơn thuần là ngắt nhịp, gieo vần, phối thanh.. theo luật thơ của từng thể loại. Thơ còn là sự tổng hòa của nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác. Người ta hay bàn đến những đặc điểm của thơ như "thi trung hữu họa", "thi trung hữu nhạc".. Ta có thể nhận thấy rất rõ những đặc điểm đó của thơ qua bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng . Ví dụ 2: Văn học bao đời nay đố kỵ sự trùng lặp nhưng lại không phủ nhận những kế thừa, cách tân giữa các thế hệ cầm bút. Bởi vậy mà thế kỷ XIII, đại thi hào Nguyễn Du đã khóc thương nàng Tiểu Thanh tài hoa mệnh bạc, Tố Hữu tiếc thương cụ Tiên Điền 200 năm sau và đến lượt Thanh Thảo, nhà thơ không khỏi xúc động cúi mình trước Lorca, thi sĩ bất hạnh xứ Tây ban cầm. Bài thơ "Đàn ghi ta của Lorca" ghi lại những cảm xúc của Thanh Thảo trước cuộc đời bi tráng của người nghệ sĩ Lorca. Cách 3: Nêu phản đề. Nêu phản đề có nghĩa là tạo tình huống đối lập, tương phản, ngược với vấn đề trong đề bài. So với cách giới thiệu trực tiếp thì cách mở bài này thường gây ấn tượng ngay với người đọc. Đồng thời tạo cho người đọc cảm giác thích thú, lôi cuốn khiến họ nhập tâm đọc ngay phần thân bài với toàn bộ chú tâm. Lợi thế dễ thấy của cách mở này là người viết nhanh chóng gây được thiện cảm cho người đọc. Đây là một điểm cộng cho người viết. Ví dụ 1: Chúng ta đã gặp không ít những số phận người phụ nữ bi thương trong các tác phẩm văn học Việt Nam, đó là một nàng Vũ Nương oan khuất, một nàng Kiều bi kịch, một Chị Dậu tủi hờn.. Nhưng khi tiếp cận với dòng văn học cách mạng, vẫn những người phụ nữ ngày xưa ấy lại trỗi dậy mạnh mẽ đứng dậy làm chủ đời mình. Một trong những nhân vật văn học nữ tiêu biêu biểu là Mị trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của Nhà văn Tô Hoài. Ví dụ 2: Trong cuộc sống dường như cái chết kết thúc cuộc đời vốn là cái thứ gì đó thật đáng sợ. Người ta coi cái chết như một thử thách đáng gờm mà không phải ai cũng dám đối mặt. Ấy thế mà có ý kiến cho rằng "Thử thách của cuộc đời không phải là dám chết mà là dám sống". Tưởng như sai lầm, những suy nghĩ thấu đáo, câu nói ấy lại thật ý nghĩa và sâu sắc. Cách 4: So sánh . So sánh là cách đối chiếu hai hoặc nhiều đối tượng với nhau ở phương diện giống nhau, khác nhau hoặc cả hai. Tác dụng của so sánh là giúp người đọc dễ thấy rõ bản chất của vấn đề đang nói trong tương quan với đối tượng khác. Mở bài theo cách so sánh không khó, vì vấn đề của nghị luận văn học trong trường THPT thường là trung tâm của đời sống văn học - tác phẩm. Ví dụ 1: "Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu" - có những tác phẩm chẳng thể hấp dẫn ta đọc đến trang cuối cùng, nhưng có những tác phẩm đọc đến trang cuối cùng vẫn còn đọng lại biết bao dư âm sâu lắng, ám ảnh khôn nguôi. Dư âm ấy khi như men say, mật ngọt khiến ta cảm nhận từng dòng chảy hân hoan, hạnh phúc trong tâm hồn, khi lại như móng vuốt sắc nhọn của một con vật nào đó chạm nhẹ trái tim ta, khiến ta thổn thức, nhói đau. Sức truyền cảm của một tác phẩm thực sự, bao giờ cũng lắng sâu như thế. "Vợ nhặt" của Kim Lân là một tác phẩm mang đến nhiều dư âm trong lòng người đọc. Ví dụ 2: Cùng thời, cùng rung cảm trước thân phận người phụ nữ đương thời đại, nếu Nguyễn Du thổn thức bên thân phận người phụ nữ tài năng nhưng bạc mệnh, Hồ Xuân Hương quan tâm đến giá trị sống, khát khao hạnh phúc, bản lĩnh sống, thì Trần Tế Xương chủ yếu viết về người vợ trong cuộc sống đời thường. Qua các bài thơ Tự tình - Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương, ta thấy rõ vẻ đẹp của người phụ nữ bấy giờ. Cách 5: Đi từ đề tài . Bất kì tác phẩm văn học nào cũng thuộc một đề tài nào đó. Hiểu điều này, cùng với kiến thức lí luận văn học "Đề tài là phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác phẩm", người viết nghị luận văn học sẽ dễ dàng giới thiệu vấn đề một cách rành mạch. Các nhà văn viết về mùa thu thì đề tài là mùa thu; viết về tình bạn, tình yêu, tình cảm gia đình thì đó cũng là đề tài. Ví dụ: Tình yêu có lẽ là thứ tình cảm thiêng liêng và kì diệu nhất của con người. Tình yêu cũng trở thành mạch nguồn cảm xúc dạt dào vô tận của sáng tác thi ca. Có biết bao nhiêu bài thơ tình nổi tiếng gắn với những tên tuổi lừng danh: Tagor, Puskin.. Những vần thơ viết về tình yêu luôn là những lời lẽ lay động tâm hồn con người, đặc biệt là giới trẻ nhiều nhất. Văn học Việt Nam thời chống Mĩ cũng ghi dấu ấn không ít những nhà thơ nổi tiếng viết về đề tài này. Trong đó, phải kể đến nữ sĩ Xuân Quỳnh với bài thơ Sóng . "Sóng" là một bài thơ tình rất đẹp. Bởi sóng không chỉ là sóng biển, sóng còn là sóng lòng - là tâm tình của người con gái trong tình yêu. Bốn khổ thơ đầu, nhân vật trữ tình ẩn mình vào sóng để tự nhận thức những đặc tính, những trạng thái tâm lý bí ẩn, riêng tư đầy nữ tính của một trái tim đang đắm say trong tình yêu: "Dữ dội và dịu êm [..] Khi nào ta yêu nhau" Cách 6: Đi từ chủ đề. Cũng như đề tài, bất kì tác phẩm văn học nào cũng có một hoặc hơn một chủ đề nào đó. Nếu đề tài là hiện thực cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm thì viết về đề tài đó nhà văn muốn gửi gắm thông điệp gì, viết để làm gì chính là chủ đề của tác phẩm văn học. Hiểu điều này, học sinh có thể làm mở đầu bài văn dễ như hát bài tủ. Ví dụ: Mượn sóng để bày tỏ tình yêu vốn là tứ thơ quen thuộc xưa nay. Ca dao từng mượn sự vĩnh hằng của sóng tỏa mặt ghềnh mà buông lời vàng đá: "Bao giờ cho sóng bỏ ghềnh/ Cù lao bỏ biển anh mới đành bỏ em". Chàng Xuân Diệu mê đắm, si tình cũng từng thổi hồn vào sóng: "Cho anh làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em" (Biển). Xuân Quỳnh cũng vậy, mượn con sóng rào rạt giữa biển xanh, nữ sĩ da diết bày tỏ những khát vọng tình yêu của trái tim phụ nữ rạo rực mà chân thành. Nét riêng của Xuân Quỳnh là tạo ra con sóng vừa nữ tính lại vừa mãnh liệt, vừa dịu dàng sâu lắng, lại vừa dữ dội, ồn ào. Bài thơ "Sóng" là minh chứng tiêu biểu cho điều đó. Cách 7: Đi từ tác giả. Làm sao để cách mở bài trực tiếp từ người sáng tạo tác phẩm vẫn súc tích, học sinh chỉ cần ghi nhớ điểm đặc biệt của nhà văn, nhà thơ. Nếu tác giả có phong cách thì đi từ phong cách của tác giả. Ví dụ, đề bài "Cảm nhận của em về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử?", học sinh có thể viết mở bài như sau: Trong phong trào Thơ Mới, nhắc đến hồn thơ có vẻ kì dị, bí ẩn, đau thương với cảnh thơ kết hợp chất hiện thực xen mộng ảo kì tài không ai không biết đó là Hàn Mặc Tử. Ngoài hàng chục, hàng chục chục bài thơ làm đẹp cho thiên nhiên đất trời bởi trăng vàng trăng ngọc, Hàn thi sĩ còn có một "hòn trăng" rất trăng không mang tên trăng mà mang tên Đây thôn Vĩ Dạ. Đây là một thi phẩm quen mà lạ. (Câu cuối "Đây là một thi phẩm quen mà lạ" có ý nghĩa như một câu chuyển ý. Muốn biết bài thơ quen mà lạ thế nào, người đọc hãy đọc phần thân bài). Đây là cách chuyển ý rất có duyên. Cách 8: Đi từ hoàn cảnh sáng tác . Hầu hết các tác phẩm văn chương đều có một "duyên cớ" khiến tác giả không thể không viết. Đi từ hoàn cảnh sáng tác, học sinh chỉ cần khéo léo lồng tên tác giả, tác phẩm vào và không quên vấn đề nghị luận là trọn vẹn. Ví dụ: Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới, một trong những cây đại thụ của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Nhớ đến Huy Cận, ta nhớ đến nhà thơ của nỗi sầu vạn cổ, thi sĩ của niềm khắc khoải không gian. "Tràng giang" là bài thơ xuất sắc in trong tập "Lửa thiêng" – tập thơ đầu tay và rất "chín" của Huy Cận. Bài thơ được gợi tứ từ sông Hồng, quãng bến Chèm vào mùa nước nổi (mùa thu 1939). Khi đó Huy Cận đang là sinh viên trường Cao đẳng Canh nông. Đối diện với cảnh sông nước mênh mông, nhà thơ càng thấm thía nỗi cô đơn, u sầu, số kiếp phù du lạc loài của con người giữa vũ trụ vô thủy, vô chung. Người đọc có thể cảm nhận được những những cảm xúc vũ trụ đó qua hai khổ đầu của bài thơ: "Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp .. Sông dài trời rộng bến cô liêu" Cách 9: Đi từ giai đoạn . Mỗi thời kì lịch sử, giai đoạn lịch sử lại có những bối cảnh xã hội khác nhau ảnh hưởng ít nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp đến giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Đi từ giai đoạn, thời kì văn học sẽ gắn hiện thực đời sống với nhà văn - tác phẩm - bạn đọc. Cách mở bài này dành cho những học sinh kiểu "triết học gia" ham tìm tòi, ưa lí luận nhờ đó dễ tạo điểm nhấn cho bài văn. Cách 10: Đi từ nhân vật hoặc hình tượng. Có nhiều cách để đi từ nhân vật, hình tượng hoặc một câu văn, câu thơ "đinh" của tác phẩm. Nhân vật đối với tác phẩm tự sự, hình tượng/ hình ảnh trong tác phẩm trữ tình có ý nghĩa như những chiếc đinh để tác giả treo lên đó những "lời gửi". Cách 11: Đi từ thể loại . Không có tác phẩm nào không thuộc một thể loại chính nào đó. Mỗi thể loại văn học lại có những đặc trưng riêng. Người viết dựa vào đặc trưng thể loại để giải mã nghệ thuật trong tác phẩm. Ví dụ, đề bài "Ánh sáng trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam?" (Văn học 11). Mở bài có thể là: Truyện ngắn hấp dẫn người đọc không chỉ ở cốt truyện giàu kịch tính, ở nhân vật điển hình cụ thể về hoàn cảnh sống và cụ thể về tính cách, sinh động về diễn biến tâm hồn. Thế nhưng, có nhà văn lại viết truyện ngắn theo một cách thức riêng, chỉ miêu tả những xao động tuổi mới lớn lại có sức nặng tựa ngàn cân. Đó là lối đi riêng của Thạch Lam trong tập Gió đầu mùa nói chung, truyện Hai đứa trẻ nói riêng. Truyện mong manh những ánh sáng lập lòe của hoàng hôn, của đèn dầu đêm khuya, của đom đóm, của sao trời.. nhưng ngời sáng lòng nhân hậu, giàu ước mơ ở hai đứa trẻ. Đối lập với bóng tối, ánh sáng là hình tượng giàu tính biểu tượng và đầy ám ảnh tưởng như vô tình nhưng Thạch Lam đã cố công xây dựng. Cách 12: Đi từ câu văn, câu thơ: Trích câu văn, câu thơ liên quan rồi dẫn dắt đến vấn đề nghị luận. Ví dụ: Là nhà văn của chủ nghĩa "xê dịch", luôn luôn có ý thức "thay thực đơn cho giác quan", Nguyễn Tuân đã tìm đến với sông Đà – con sông Tây Bắc với dòng chảy đầy cá tính: Chúng thủy giai đông tẩu Đà giang độc bắc lưu (Mọi con sông đều chảy về đông Riêng sông Đà ngược lên phía bắc) Phải chăng chính dòng chảy đầy cá tính chẳng giống với "chúng thủy" của Đà giang đã thu hút cái nhìn của người nghệ sĩ, để rồi người nghệ sĩ ấy say mê nó, tạc nó vào trang văn của mình như tạc một công trình mỹ thuật tuyệt vời của tạo hóa với hai vẻ đẹp đầy ấn tượng: Hùng vĩ, dữ dội và đằm thắm, trữ tình. Con sông của tạo hóa vốn đã độc lạ, con sông chảy qua trang văn Nguyễn Tuân còn độc lạ gấp nhiều lần. Với "Người lái đò sông Đà", ngòi bút Nguyễn Tuân như "tung hoành sảng khoái giữa dòng thác cuồn cuộn của ngôn từ, buộc ngôn từ dựng lên ghềnh thác, buộc nhịp điệu dựng lên sóng gió" khiến cho sự hung bạo dữ dằn của sông Đà khúc thượng nguồn hiện lên thật sống động và truyền cảm. Đoạn văn: "Còn xa lắm mới đến cái thác dưới [..] Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới" là minh chứng sinh động điều đó.