Tên nick/ bút danh: Thiên An Vy Tuổi/ Cung hoàng đạo: 33 - Cung cự giải Sở thích: Nữ công, nấu ăn, đan móc đặc biệt thích đọc sách trồng rau trồng hoa Sở đoản: Kiếm tiền Đôi lời: Đầu óc hay tưởng tượng nên viết truyện thỏa đam mê là phụ, kiếm tiền mua hạt giống là chính Link tất cả sách sáng tác: Xuyên Không - Tấm - Ta Trùng Sinh Rồi - Thien An Vy
Chào bạn. Nội dung này Xuyên Không - Tấm - Ta Trùng Sinh Rồi - Thien An Vy Bạn chọn viết về xuyên không kiểu Việt Nam thì không nên dùng các từ như: Gia mẫu, tỷ tỷ.. Kiểu phim Trung Quốc bạn nhé. Về cơ bản thì nó không phù hợp nha.
Chào bạn, cảm ơn bạn đã đóng góp ý kiến. Mình cũng mới viết truyện và muốn viết về truyện dân tộc chứ không phải dịch hay cop. Vì truyện Việt Nam thể loại này mình chưa thấy mọi người viết nên chưa có nhiều nguồn tham khảo. Mình có đọc cũng khá nhiều tài liệu về cách xưng hô thời phong kiến cũng như cách dùng ngày tháng. Tuy nhiên cũng chưa thực sự rõ ràng. Trong tác phẩm nguyên bản cũng chỉ xưng chị, em và mẹ giống như hiện nay. Thiết nghĩ dùng những từ đó không mang lại hiệu quả tốt cho truyện nên sau khi cân nhắc mình vẫn dùng gia mẫu, tỷ muội.. Thật tốt nếu bạn cũng có những tìm hiểu và thấy rằng nó không phù hợp. Bạn có thể đề xuất cách xưng hô phù hợp hơn được không, để tất cả cùng nghiên cứu và những tác phẩm sau sẽ mang màu sắc dân tộc mình nhiều hơn nữa. Cảm ơn nhiều
Đoán thời điểm lịch sử ra đời Tấm Cám (hay thời điểm chuyện có kết cấu, chi tiết hoàn chỉnh) là thời Lý. Việt Nam thời xưa không hoàn toàn dùng chữ Hán trong xưng hô: Người thì cho rằng, "thời đó (đầu đời Lý) chúng ta hoàn toàn dùng chữ Hán". Thực ra thì không phải như thế vì, nói chung, trong suốt thời kỳ phong kiến tự chủ, ta chỉ sử dụng chữ Hán làm quốc gia văn tự, nói rõ ra là chỉ dùng nó trên văn kiện và trong sách vở mà thôi. Dân ta vẫn nói tiếng Việt với nhau; mà vua quan trong triều đình cũng thế. Nhưng do ảnh hưởng của nhiều thế kỷ bị người Tàu cai trị nên từ vựng của tiếng Việt đã chứa đựng nhiều yếu tố gốc Hán, trong đó có gần như hầu hết những từ chỉ quan hệ thân tộc, như chúng tôi đã chứng minh trong bài "Từ nguyên của những từ chỉ quan hệ thân tộc", trên Năng lượng Mới số 70 (11/11/2011). Những từ này đã có mặt từ lâu trong từ vựng của tiếng Việt, như có thể thấy trong "Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa" (khoảng thế kỷ XVII). Trong tác phẩm này, "Nhân luân bộ đệ tam" là chương thứ ba, đã dùng nhiều từ quen thuộc đối dịch với các danh từ chỉ quan hệ thân tộc và xã hội bằng tiếng Hán. Những từ, ngữ trong "Cách xưng hô ở Trung Quốc" thực chất là một bảng từ vựng chỉ quan hệ thân tộc bằng tiếng Hán chứ thực ra thì, nói chung, những "nghĩa huynh", "biểu ca", "nghĩa tỷ", "biểu tỷ", v. V.. trong đấy cũng chỉ là những yếu tố dùng trong văn bản bằng Hán văn Việt Nam chứ chẳng phải là những từ, ngữ quen thuộc dùng trong tiếng Việt hằng ngày của dân chúng. Dân chúng thì xưng hô với nhau giản dị và tự nhiên, chẳng hạn giữa vợ chồng, thì chồng có thể gọi vợ là "mình", "bà nó", "mẹ nó", "bu nó", "bủ nó", "bầm nó", "má nó", "mạ nó", "mợ nó". Vợ có thể gọi chồng là "mình", "ông nó", "bố nó", "ba nó", "cha nó", "cậu nó". Còn giữa trai, gái thì "anh" và "em" : Đời xưa, đặc biệt từ thế kỷ 17-18 trở về trước, người Việt Nam xưng hô với nhau như thế nào, hiện giờ còn là một vấn đề chưa được nghiên cứu, chưa được biết rõ. Có lẽ chính vì vậy mà trong các tiểu thuyết lịch sử, kịch lịch sử, phim lịch sử của chúng ta ngày nay.. các nhân vật khi đối thoại với nhau, họ xưng hô rất tùy tiện theo ý chủ quan của nhà văn, nhà biên kịch với những ngôn ngữ không mang dấu ấn lịch sử, dấu ấn dân tộc. Dưới đây là những từ xưng hô phổ biến trong giao tiếp của người Việt Nam (vùng đồng bằng Bắc Bộ) ở các thế kỷ 15, 16, 17, 18: – Cha gọi: Là áng – Bác (là chú, bác như ngôn ngữ hiện đại). – Mẹ (như ngôn ngữ hiện nay), nhưng mẹ còn gọi là nạ. – Tôi, ta gọi là min, là mỗ, giáp. – Nó, hắn gọi là nghĩ. – Chúng bay gọi là phô bay. – Chúng tôi, chúng ta gọi là phô min giáp. – Tôi, tao, mày. Ta. Vợ. Bà phu nhân. Ngươi. Mi, chúng mi. Thiếp, chàng. Tiên sinh. – Vua gọi là Đức hoàng thượng. – Chúa gọi là Đức bề trên.. (Trích lược) Cre: Theo học giả An Chi Theo Tạ Ngọc Liễn (Văn nghệ trẻ)