Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi

Thảo luận trong 'Thơ Ca' bắt đầu bởi Sưu Tầm, 5 Tháng bảy 2018.

  1. Sưu Tầm The Very Important Personal

    Bài viết:
    665
    Bình Ngô đại cáo (chữ Hán: 平吳大誥) là bài cáo viết bằng văn ngôn do Nguyễn Trãi soạn thảo sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông buộc phải giảng hòa, rút quân về nước vào mùa xuân năm 1428. Nguyễn Trãi thừa lệnh Bình Định Vương Lê Lợi viết Đại cáo Bình Ngô để tuyên cáo về việc giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập của nước Đại Việt. Đây được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam, sau bài Nam quốc sơn hà.

    Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn, là một bản cáo trạng với lập luận chặt chẽ, xác đáng, dẫn chứng hùng hồn đã tố cáo tội ác mà giặc Minh đã gây ra cho dân tộc ta. Dù chúng bạo ngược, gian ác như thế nào thì cũng phải thua lòng nhân nghĩa. Bởi vì theo lẽ trời thì cường bạo chưa bao giờ chiến thắng. Đại cáo bình Ngô cũng kể lại quá trình chinh phạt gian khổ, nằm gai nếm mật của cuộc kháng chiến, và đồng thời cũng là bản tuyên ngôn độc lập tuyên bố chủ quyền dân tộc, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.

    [​IMG]

    Bình Ngô Đại Cáo

    Nguyên văn chữ Hán

    平吳大告

    代天行化皇上若曰.

    蓋聞:

    仁義之舉, 要在安民,

    弔伐之師莫先去暴.

    惟, 我大越之國,

    實為文獻之邦.

    山川之封域既殊,

    南北之風俗亦異.

    自趙丁李陳之肇造我國,

    與漢唐宋元而各帝一方.

    雖強弱時有不同

    而豪傑世未常乏.

    故劉龔貪功以取敗,

    而趙禼好大以促亡.

    唆都既擒於鹹子關,

    烏馬又殪於白藤海.

    嵇諸往古,

    厥有明徵.

    頃因胡政之煩苛.

    至使人心之怨叛.

    狂明伺隙, 因以毒我民;

    惡黨懷奸, 竟以賣我國.

    焮蒼生於虐焰,

    陷赤子於禍坑.

    欺天罔民, 詭計蓋千萬狀;

    連兵結釁稔惡殆二十年.

    敗義傷仁, 乾坤幾乎欲息;

    重科厚歛, 山澤靡有孑遺.

    開金場塞冒嵐瘴而斧山淘沙,

    採明珠則觸蛟龍而緪腰汆海.

    擾民設玄鹿之陷阱,

    殄物織翠禽之網羅.

    昆虫草木皆不得以遂其生,

    鰥寡顛連俱不獲以安其所.

    浚生靈之血以潤桀黠之吻牙;

    極土木之功以崇公私之廨宇.

    州里之征徭重困,

    閭閻之杼柚皆空.

    決東海之水不足以濯其污,

    罄南山之竹不足以書其惡.

    神民之所共憤,

    天地之所不容.

    予:

    奮跡藍山,

    棲身荒野.

    念世讎豈可共戴,

    誓逆賊難與俱生.

    痛心疾首者垂十餘年,

    嘗膽臥薪者蓋非一日.

    發憤忘食, 每研覃韜略之書,

    即古驗今, 細推究興亡之理.

    圖回之志,

    寤寐不忘.

    當義旗初起之時,

    正賊勢方張之日.

    奈以:

    人才秋葉,

    俊傑晨星.

    奔走先後者既乏其人,

    謀謨帷幄者又寡其助.

    特以救民之念, 每鬱鬱而欲東;

    故於待賢之車, 常汲汲已虛左.

    然其:

    得人之效茫若望洋,

    由己之誠甚於拯溺.

    憤兇徒之未滅,

    念國步之遭迍.

    靈山之食盡兼旬,

    瑰縣之眾無一旅.

    蓋天欲困我以降厥任,

    故與益勵志以濟于難.

    揭竿為旗, 氓隸之徒四集

    投醪饗士, 父子之兵一心.

    以弱制彊, 或攻人之不備;

    以寡敵眾常設伏以出奇.

    卒能:

    以大義而勝兇殘,

    以至仁而易彊暴.

    蒲藤之霆驅電掣,

    茶麟之竹破灰飛.

    士氣以之益增,

    軍聲以之大振.

    陳智山壽聞風而;褫魄,

    李安方政假息以偷生.

    乘勝長驅, 西京既為我有;

    選兵進取, 東都盡復舊疆.

    寧橋之血成川, 流腥萬里;

    窣洞之屍積野, 遺臭千年.

    陳洽賊之腹心, 既梟其首;

    李亮賊之奸蠹, 又暴厥屍.

    王通理亂而焚者益焚,

    馬瑛救鬥而怒者益怒.

    彼智窮而力盡, 束手待亡;

    我謀伐而心攻, 不戰自屈.

    謂彼必易心而改慮,

    豈意復作孽以速辜.

    執一己之見以嫁禍於他人,

    貪一時之功以貽笑於天下.

    遂靈宣德之狡童, 黷兵無厭;

    仍命晟昇之懦將, 以油救焚.

    丁未九月柳昇遂引兵猶邱溫而進,

    本年十月木晟又分途自雲南而來.

    予前既選兵塞險以摧其鋒,

    予後再調兵截路以斷其食.

    本月十八日柳昇為我軍所攻, 計墜於支稜之野;

    本月二十日柳昇又為我軍所敗, 身死於馬鞍之山.

    二十五日保定伯梁銘陣陷而喪軀,

    二十八日尚書李慶計窮而刎首.

    我遂迎刃而解,

    彼自倒戈相攻.

    繼而四面添兵以包圍,

    期以十月中旬而殄滅.

    爰選貔貅之士,

    申命爪牙之臣.

    飲象而河水乾,

    磨刀而山石鈌.

    一鼓而鯨刳鱷斷,

    再鼓而鳥散麇驚.

    決潰蟻於崩堤,

    振剛風於稿葉.

    都督崔聚膝行而送款,

    尚書黃福面縛以就擒.

    僵屍塞諒江諒山之途,

    戰血赤昌江平灘之水.

    風雲為之變色,

    日月慘以無光.

    其雲南兵為我軍所扼於梨花, 自恫疑虛喝而先以破腑;

    其沐晟眾聞昇軍所敗於芹站, 遂躪藉奔潰而僅得脫身.

    冷溝之血杵漂, 江水為之嗚咽;

    丹舍之屍山積, 野草為之殷紅.

    兩路救兵既不旋踵而俱敗,

    各城窮寇亦將解甲以出降.

    賊首成擒, 彼既掉餓虎乞憐之尾;

    神武不殺, 予亦體上帝孝生之心.

    參將方政, 內官馬騏, 先給艦五百餘艘, 既渡海而猶且魂飛魄散;

    總兵王通, 參政馬瑛, 又給馬數千餘匹, 已還國而益自股慄心驚.

    彼既畏死貪生, 而修好有誠;

    予以全軍為上, 而欲民之得息. 非惟謀計之極其深遠,

    蓋亦古今之所未見聞.

    社稷以之奠安,

    山川以之改觀.

    乾坤既否而復泰,

    日月既晦而復明.

    于以開萬世太平之基,

    于以雪天地無窮之恥.

    是由天地祖宗之靈有,

    以默相陰佑而致然也!

    於戲!

    一戎大定,

    迄成無兢之功;

    四海永清,

    誕布維新之誥.

    播告遐邇,

    咸使聞知.

    Phiên âm Bình Ngô đại cáo


    Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết.

    Cái văn:

    Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,

    Điếu phạt chi sư mạc tiên khử bạo.

    Duy, ngã Đại Việt chi quốc,

    Thực vi văn hiến chi bang.

    Sơn xuyên chi phong vực ký thù,

    Nam bắc chi phong tục diệc dị.

    Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc,

    Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.

    Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,

    Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.

    Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,

    Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.

    Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,

    Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.

    Kê chư vãng cổ,

    Quyết hữu minh trưng.

    Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.

    Chí sử nhân tâm chi oán bạn.

    Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;

    Ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.

    Hân thương sinh ư ngược diệm,

    Hãm xích tử ư họa khanh.

    Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;

    Liên binh kết hấn nẫm ác đãi nhị thập niên.

    Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỷ hồ dục tức;

    Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu kiết di.

    Khai kim trường tái mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,

    Thái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải.

    Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,

    Điển vật chức thuý cầm chi võng la.

    Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,

    Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.

    Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;

    Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.

    Châu lý chi chinh dao trọng khốn,

    Lư diêm chi trữ trục giai không.

    Quyết Đông Hải chi thuỷ bất túc dĩ trạc kỳ ô,

    Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.

    Thần dân chi sở cộng phẫn,

    Thiên địa chi sở bất dung.

    Dư:

    Phấn tích Lam Sơn,

    Thê thân hoang dã.

    Niệm thế thù khởi khả cộng đới,

    Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.

    Thống tâm tật thủ giả thuỳ thập dư niên,

    Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.

    Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,

    Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.

    Đồ hồi chi chí,

    Ngộ mị bất vong.

    Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,

    Chính tặc thế phương trương chi nhật.

    Nại dĩ:

    Nhân tài thu diệp,

    Tuấn kiệt thần tinh.

    Bôn tẩu tiên hậu giả ký phạp kỳ nhân,

    Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.

    Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;

    Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.

    Nhiên kỳ:

    Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,

    Do kỷ chi thành thậm ư chửng nịch.

    Phẫn hung đồ chi vị diệt,

    Niệm quốc bộ chi tao truân.

    Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,

    Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.

    Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,

    Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.

    Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;

    Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.

    Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;

    Dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

    Tốt năng:

    Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,

    Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.

    Bồ Đằng chi đình khu điện xế,

    Trà Lân chi trúc phá hôi phi.

    Sĩ khí dĩ chi ích tăng,

    Quân thanh dĩ chi đại chấn.

    Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,

    Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.

    Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;

    Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.

    Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;

    Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.

    Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;

    Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.

    Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,

    Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.

    Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;

    Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.

    Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,

    Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.

    Chấp nhất kỷ chi kiến dĩ giá họa ư tha nhân,

    Tham nhất thì chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ.

    Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;

    Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.

    Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,

    Nản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.

    Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,

    Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.

    Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế truỵ ư Chi Lăng chi dã;

    Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã An chi sơn.

    Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,

    Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.

    Ngã toại nghênh nhận nhi giải,

    Bỉ tự đảo qua tương công.

    Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,

    Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.

    Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,

    Thân mệnh trảo nha chi thần.

    Ẩm tượng nhi hà thuỷ càn,

    Ma đao nhi sơn thạch khuyết.

    Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,

    Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.

    Quyết hội nghĩ ư băng đê,

    Chấn cương phong ư cảo diệp.

    Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,

    Thượng thư Hoàng Phúc diện phọc dĩ tựu cầm.

    Cương thi tái Lượng Giang Lượng Sơn chi đồ,

    Chiến huyết xích Xương Giang Bình Than chi thuỷ.

    Phong vân vị chi biến sắc,

    Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.

    Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;

    Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân sở bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.

    Lãnh Câu chi huyết chử phiếu, giang thuỷ vị chi ô yết;

    Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.

    Lưỡng lộ cứu binh ký bất toàn chủng nhi câu bại,

    Các thành cùng khấu diệc tướng giải giáp dĩ xuất hàng.

    Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;

    Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.

    Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;

    Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.

    Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;

    Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.

    Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,

    Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.

    Xã tắc dĩ chi điện an,

    Sơn xuyên dĩ chi cải quan.

    Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,

    Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.

    Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,

    Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.

    Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu,

    Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã.

    Ô hô!

    Nhất nhung đại định,

    Hất thành vô cạnh chi công;

    Tứ hải vĩnh thanh,

    Đản bố duy tân chi cáo.

    Bá cáo hà nhĩ,

    Hàm sử văn tri.

    Bản dịch của Ngô Tất Tố


    Thay trời hành hóa, hoàng thượng chiếu rằng,

    Từng nghe:

    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;

    Như nước Đại Việt ta từ trước,

    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

    Nước non bờ cõi đã chia,

    Phong tục Bắc Nam cũng khác;

    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;

    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;

    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,

    Song hào kiệt thời nào cũng có.

    Cho nên:

    Lưu Cung tham công nên thất bại;

    Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;

    Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

    Việc xưa xem xét.

    Chứng cứ còn ghi.

    Vừa rồi:

    Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

    Để trong nước lòng dân oán hận

    Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn

    Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh

    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

    Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế

    Gây thù kết oán trải mấy mươi năm

    Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị

    Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.

    Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,

    Ngán thay cá mập thuồng luồng.

    Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,

    Khốn nỗi rừng sâu nước độc.

    Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.

    Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

    Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

    Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.

    Thằng há miệng, đứa nhe răng,

    Máu mỡ bấy no nê chưa chán,

    Nay xây nhà, mai đắp đất,

    Chân tay nào phục dịch cho vừa?

    Nặng nề những nổi phu phen

    Tan tác cả nghề canh cửi.

    Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

    Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!

    Lòng người đều căm giận,

    Trời đất chẳng dung tha;

    Ta đây:

    Núi Lam Sơn dấy nghĩa

    Chốn hoang dã nương mình

    Ngẫm thù lớn há đội trời chung

    Căm giặc nước thề không cùng sống

    Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

    Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

    Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

    Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ

    Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

    Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi

    Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

    Chính lúc quân thù đang mạnh.

    Lại ngặt vì:

    Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

    Nhân tài như lá mùa thu,

    Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,

    Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,

    Tấm lòng cứu nước,

    Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,

    Cỗ xe cầu hiền,

    Thường chăm chắm còn dành phía tả.

    Thế mà:

    Trông người, người càng vắng bóng,

    Miịt mù như nhìn chốn bể khơi.

    Tự ta, ta phải dốc lòng,

    Vội vã hơn cứu người chết đói.

    Phần vì giận quân thù ngang dọc,

    Phần vì lo vận nước khó khăn,

    Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

    Lúc Khôi Huyện quân không một đội.

    Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

    Ta gắng trí khắc phục gian nan.

    Nhân dân bốn cõi một nhà,

    Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới

    Tướng sĩ một lòng phụ tử,

    Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.

    Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,

    Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

    Trọn hay:

    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

    Lấy chí nhân để thay cường bạọ

    Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,

    Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.

    Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh.

    Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

    Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.

    Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,

    Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.

    Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm

    Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

    Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu

    Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.

    Vương Thông gỡ thế nguy,

    Mà đám lửa cháy lại càng cháy

    Mã Anh cứu trận đánh

    Mà quân ta hăng lại càng hăng.

    Bó tay để đợi bại vong,

    Giặc đã trí cùng lực kiệt,

    Chẳng đánh mà người chịu khuất,

    Ta đây mưu phạt tâm công.

    Tưởng chúng biết lẽ ăn năn

    Nên đã thay lòng đổi dạ

    Ngờ đâu vẫn đương mưu tính

    Lại còn chuốc tội gây oan.

    Giữ ý kiến một người,

    Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,

    Tham công danh một lúc,

    Để cười cho tất cả thế gian.

    Bởi thế:

    Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng

    Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy

    Đinh mùi tháng chín,

    Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại

    Năm ấy tháng mười,

    Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.

    Ta trước đã điều binh thủ hiểm,

    Chặt mũi tiên phong

    Sau lại sai tướng chẹn đường

    Tuyệt nguồn lương thực

    Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

    Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu

    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong

    Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.

    Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá

    Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau

    Lại thêm quân bốn mặt vây thành

    Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc

    Sĩ tốt kén người hùng hổ

    Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh

    Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

    Voi uống nước, nước sông phải cạn.

    Dánh một trận, sạch không kình ngạc

    Đánh hai trận tan tác chim muông.

    Cơn gió to trút sạch lá khô,

    Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.

    Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

    Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.

    Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường

    Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước

    Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,

    Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.

    Bị ta chặn ở Lê Hoa,

    Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật

    Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,

    Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.

    Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,

    Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc

    Thành Đan Xá, thây chất thành núi,

    Cỏ nội đầm đìa máu đen.

    Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,

    Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng

    Tướng giặc bị cầm tù,

    Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng

    Thần vũ chẳng giết hại,

    Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh

    Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,

    Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,

    Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,

    Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

    Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng

    Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

    Chẳng những mưu kế kì diệu

    Cũng là chưa thấy xưa nay

    Xã tắc từ đây vững bền

    Giang sơn từ đây đổi mới

    Càn khôn bĩ rồi lại thái

    Nhật nguyệt hối rồi lại minh

    Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu

    Muôn thuở nền thái bình vững chắc

    Âu cũng nhờ trời đất tổ tông

    Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

    Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,

    Nên công oanh liệt ngàn năm

    Bốn phương biển cả thanh bình,

    Ban chiếu duy tân khắp chốn.

    Xa gần bá cáo,

    Ai nấy đều hay.

    Chú thích

    Triệu, Đinh, Lý, Trần Theo quan điểm ngày trước, nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam. Có sách in là "Đinh, Lê, Lý, Trần", bỏ nhà Triệu đi, không rõ là do dịch giả hay biên tập viên, nhưng như vậy không tôn trọng nguyên tác.

    Hai câu này Nguyễn Trãi nhầm, thực ra Toa Đô bị chém chết, còn Ô Mã Nhi bị bắt sống. Cũng có sách in là:

    Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô,

    Sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã.


    Như vậy cũng không tôn trọng nguyên tác.

    [​IMG]

    Hiểu về từ Bình Ngô



    Chu Nguyên Chương, người sáng lập ra nhà Minh là người Hào Châu, xưa thuộc đất Ngô, đó là đất tổ của nhà Minh. Năm 1356, Chu Nguyên Chương xưng Ngô Quốc Công, 8 năm sau ông cải xưng Ngô Vương. Bởi vậy Ngô ở đây vừa là tước hiệu của Chu Nguyên Chương, vừa là nguồn gốc, quê cha đất tổ của Chu Nguyên Chương. Bình Ngô là bình tận gốc gác, giống nòi của giống họ Chu – Thái Tổ nhà Minh.

    Hiểu về từ Đại cáo



    Theo sách giáo khoa Văn học 10: Bình Ngô đại cáo dịch cho sát nghĩa là: tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên giặc Ngô ; rồi bổ sung thêm: bài này viết theo thể cáo .

    Theo sách giáo khoa Văn học 9: Bình Ngô đại cáo là bài cáo có quy mô lớn, nói việc dẹp yên giặc Ngô.

    Theo Nguyễn Đăng Na trong bài viết Bình Ngô đại cáo, một số vấn đề về chữ nghĩa:

    Hán ngữ đại từ điển giải thích: đại cáo [大誥] là tên một thiên trong sách Thượng Thư. Lời tựa thiên Đại cáo có đoạn: Vũ vương mất, Tam Giám cùng Hoài di làm phản. Chu Công giúp Thành Vương trừ bỏ nhà Ân, viết Đại cáo. Khổng truyện rằng, Trình bày đại đạo [大道] để cáo [誥] với thiên hạ (trần đại đạo dĩ cáo thiên hạ), nên lấy làm tên thiên, sau dùng để phiếm xưng những bài văn có tính chất điển cáo [典誥] . Như vậy, ban đầu, đại cáo [大誥] do hai chữ mang ý nghĩa quan trọng nhất trong mệnh đề trần đại đạo dĩ cáo thiên hạ ghép lại, dùng để gọi tên một thiên trong Kinh Thư, rồi thành từ cố định chỉ loại đặc biệt của thể cáo. Đấy là nghĩa thứ nhất gắn với thời Tây Chu của Trung Hoa cổ đại.

    Theo ý này, Nguyễn Trãi nhân dịp chiến thắng quân Minh bày tỏ cho thiên hạ thấy cái đại đạo - đạo lý lớn nhất của Việt Nam là đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo . Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài Bình ngô đại cáo; vừa là mục đích mà thiên Đại cáo ở sách Thượng thư hằng dương cao. Khi đi đánh Vũ Canh, Chu Thành Vương truyền Đại cáo, bình xong quân Minh, Lê Thái Tổ cũng tuyên đại cáo, tác giả muốn so sánh Lê Thái Tổ với Chu Thành Vương và muốn bài bình Ngô của thời đại vua Lê Thái Tổ mang ý nghĩa ngang tầm với thiên Đại cáo đánh Vũ Canh thời Tây Chu của Trung hoa cổ đại.

    Đại cáo còn có nghĩa thứ hai gắn với đương đại thời Minh. Nghĩa này cũng không kém phần quan trọng: Văn kiện pháp luật ban bố năm Hồng Vũ thứ 18 thời Minh gọi là Đại cáo. Hồng Vũ [洪武] là niên hiệu Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương [朱元璋] – người khai sáng ra nhà Minh, làm hoàng đế Trung Hoa những năm 1368 – 1398.

    Nguyễn Trãi muốn thiên hạ thấy rằng, bài cáo là một văn kiện mang tính pháp luật, có ý nghĩa trọng đại, ngang với văn kiện pháp luật mà Minh Thái Tổ ban bố. Văn kiện của Chu Nguyên Chương tượng trưng cho uy quyền và công cụ bảo vệ nhà Minh, ở Việt Nam, Nguyễn Trãi thay lời vua Lê Thái Tổ dùng Đại cáo để tuyên bố bình Ngô thắng lợi và khẳng định sự độc lập của Đại Việt. [1]

    Bối cảnh



    Năm 1427, quân khởi nghĩa Lam Sơn đánh tan 2 đạo viện binh của quân Minh do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy. Lê Thái Tổ sai người mang viên tướng bị bắt sống Hoàng Phúc, hai cái hổ phù, hai dấu đài ngân của quan Chinh Lỗ Phó Tướng Quân về thành Đông Quan cho Vương Thông biết. Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan biết viện binh đã bị thua, hoảng sợ viết thư xin hòa.

    Lê Thái Tổ chấp thuận, sai sứ giả mang tờ biểu và vật phẩm sang nhà Minh, vua Minh sai quan Lễ Bộ Thị Lang là Lý Kỳ đưa chiếu sang phong cho Trần Cảo làm An Nam Quốc Vương[4], bỏ tòa Bố Chính và triệt quân về Tàu. Tháng chạp năm Đinh Mùi, Vương Thông theo lời ước với Bình Định Vương Lê Lợi, đem bộ binh qua sông Nhị Hà, còn thủy quân theo sau. Vì quân Minh tàn bạo, có người khuyên Lê Lợi đem quân mà giết hết đi, Lê Lợi không chấp thuận, cấp lương thảo và vật dụng cho quân Minh trở về. Năm 1428, Lê Lợi dẹp yên quân Minh, liền sai Nguyễn Trãi thay lời ngài làm tờ báo cáo cho thiên hạ biết. [5]

    Tờ cáo là một thông báo cho người dân trong nước về việc đánh bại nhà Minh và sự khẳng định sự độc lập của Đại Việt. Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo không chỉ tuyên bố độc lập, mà còn khẳng định sự bình đẳng của Đại Việt với Trung Quốc trong lịch sử từ trước đến nay và thể hiện nhiều ý tưởng về sự công bằng, vai trò của người dân trong lịch sử và cách giành chiến thắng của quân khởi nghĩa Lam Sơn. Ngoài ra, Nguyễn Trãi sử dụng Bình Ngô đại cáo để chứng minh tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và trả lời câu hỏi tại sao quân khởi nghĩa Lam Sơn có thể chiến thắng quân đội nhà Minh đó là chính sách dựa vào nhân dân.
     
    Cute pikachu thích bài này.
    Last edited by a moderator: 26 Tháng chín 2022
  2. Đăng ký Binance
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...