Toàn tập về bênh sỏi. Tài liệu cho các bạn tham khảo được mình tổng hợp có chọn lọc từ nhiều nguồn. Có thể chưa đầy đủ & một phần được viết lên từ suy nghĩ của mình cho nên câu từ hơi dân dã & có thể không đúng lắm về mặt chuyên nghành nhưng cũng mang lại cho bạn một cái nhìn dễ hiểu hơn về căn bệnh không những gây đau đầu mà còn gây đau cả.. trim.. cho những ai mắc phải. Tổng Quát Về Bệnh Sỏi Bệnh Sỏi được chia làm 4 loại theo vị trí viên sỏi nằm: Sỏi thận, Sỏi niệu quản, Sỏi bàng quang, Sỏi mật. Về mặt cấu tạo sỏi thận, niệu quản, bàng quang thực chất là 1 loại sỏi chỉ khác nhau ở vị trí. Riêng sỏi mật phức tạp hơn và tính chất cũng khác hoàn toàn mình sẽ trình bày về bệnh này ở một bài viết khác. Bài viết này chủ yếu nói đến bệnh sỏi phổ biến của 3 loại sỏi trên mà có thể gọi chung là sỏi thận. Các loại sỏi lại được chia ra làm nhiều loại theo hình dáng: sỏi cuội (sỏi trơn) - sỏi gai (sỏi san hô) - sỏi bùn (sỏi mật) Sỏi cuội trơn nên đỡ nguy hiểm hơn sỏi gai. Do trơn nên có khả năng di chuyển ra ngoài cao hơn, ít gây đau đớn do không bị cọ sát vào các vị trí bên trong cơ thể còn sỏi gai ngoài cọ sát gây đau nhiều còn có khả năng móc vào một vị trí nên khó có thể di chuyển được ra ngoài. Hoặc phân loại sỏi theo các chất hình thành lên nó: Sỏi canxi (80%), Sỏi struvite hay sỏi nhiễm trùng (10%), Sỏi axit uric (10%), Sỏi cystin (rất hiếm). Ở đây khi các bạn đi khám đa số kết luận sỏi các bạn sẽ nên hiểu là sỏi canxi. Các Nguyên Nhân Hình Thành Sỏi Sỏi được hình thành từ các chất có trong nước tiểu đáng lẽ phải được hoà tan và thoát ra ngoài thì vì một số nguyên nhân khiến chúng kết hợp lại với nhau lâu dần theo thời gian trở nên to & cứng không thể thoát ra và sau đây là các nguyên nhân chính. Do uống quá ít nước Việc uống quá ít nước làm cho cơ thể không thể đẩy được hết các chất lắng cặn ra ngoài lâu dần tích tụ với nhau hình thành nên sỏi. Nếu không tự bài tiết được thì thời gian càng lâu viên sỏi càng lớn. Đường tiểu có vấn đề Do chấn thương hay các bệnh khác có liên quan khiến cho đường bài tiết nước tiểu bị tổn thương, hẹp lại dẫn đến lưu thông không tốt, tạo ra các viên sỏi. Các bệnh có thể gây ra sỏi như: u xơ tiền liệt tuyến, dị dạng đường tiểu, mổ, đẻ, bị thương nằm một chỗ ít vận động, tiểu tiện khó khăn gây sỏi.. Đôi khi còn do việc vệ sinh cá nhân chưa sạch sẽ, sử dụng nguồn nước bẩn vệ sinh bộ phận sinh dục vi khuẩn bò vào gây nhiễm trùng bên trọng tạo mủ khiến các tạp chất bị dính vào lâu ngày tạo thành sỏi. Nguyên nhân này thường gặp ở nữ nhiều hơn nam và nhất là sau khi sinh con phải nằm 1 chỗ & bên trong bộ phận sinh dục bị tổn thương. Cơ thể bị dư thừa canxi 80% sỏi được hình thành từ canxi, do đó nguyên nhân này sẽ hình thành sỏi chủ yếu từ thói quen ăn uống quá nhiều chất canxi như tôm, cua.. uống quá nhiều sữa, ăn quá mặn, thường xuyên ăn một loại thức ăn chứa hàm lượng canxi và các chất dễ gây ra hiện tượng lắng đọng trong một thời gian quá dài: trứng, đậu, mì tôm, muối.. các loại thực phẩm có chứa hàm lượng cholesterol cao: nội tạng động vật, trứng cá, gạch cua, thức ăn nhiều dầu mỡ.. hoặc đôi khi do uống một số loại thuốc có chứa nhiều canxi, thuốc có tác dụng phụ ức chế hoạt động bài tiết của cơ thể vv.. Vị Trí Các Viên Sỏi Trong Cơ Thể Sự lắng đọng các tạp chất và hình thành nên sỏi đa số đầu tiên sẽ tập trung ở thận tạo thành sỏi thận, sau đó nếu rơi xuống niệu quản thì thành sỏi niệu quản, nếu thoát được ra khỏi niệu quản rơi xuống bàng quang sẽ thành sỏi bàng quang và từ bàng quang có thể tự bài tiết được ra ngoài hoặc ở lại luôn trong đó. Sỏi thận Là trường hợp hay gặp nhất do ở vị trí trên cùng đầu tiên & thận cũng có thể coi là bể lọc của cơ thể, sỏi thận khi mới hình thành không gây đau không có hiện tượng nhận biết rõ rệt nên người bệnh thường không tự phát hiện được nếu không đi siêu âm cho đến khi viên sỏi trở nên to, cọ sát vào thận gây đau, viêm nhiễm bên trong thận. Các vị trí viên sỏi thận bao gồm: sỏi vùng đài thận, sỏi vùng bể thận và sỏi bên trên niệu quản. Sỏi niệu quản Các chất lắng cặn tạo nên sỏi chỉ có một số ít là hình thành ngay từ niệu quản còn đa số là sỏi được hình thành sẵn từ thận và sau đó rơi xuống. Khi đi siêu âm, các bác sỹ sẽ cho bạn biết vị trí chính xác của viên sỏi là ở 1/3 niệu quản trên, ở giữa hay 1/3 niệu quản dưới. Càng gần xuống dưới thì khả năng rơi xuống bàng quang và có thể thoát ra ngoài được sẽ cao hơn tuy nhiên vị trí tiếp nối giữa niệu quản dưới & bàng quang hơi lắt léo nên đây có thể coi là vị trí chủ chốt quyết định. Các bạn xem hình bên dưới sẽ rõ. Dây nối từ thận xuống bàng quang gọi là niệu quản. Sỏi bàng quang Nếu sỏi tự thoát được ra khỏi niệu quản sẽ rơi xuống bàng quang, ở đây viên sỏi có thể sẽ được đẩy ra ngoài khi đi tiểu hoặc vì một lý do nào đó mà nó ở lại - ví dụ như sỏi của bạn là sỏi gai nó móc vào thành bàng quang và tiếp tục phát triển sinh sôi nảy nở thì sẽ phát triển thành sỏi bàng quang. Do cấu trúc bộ phận sinh dục của nữ & nam khác nhau nên nếu là sỏi đã rơi xuống bàng quang ở nữ sẽ dễ thoát ra ngoài hơn nam. Tuy nhiên như các bạn thấy bàng quang rất rộng nên viên sỏi nếu đã xuống bàng quang mà không ra ngoài thì nó có khả năng đạt được kích thước rất lớn. Kích Thước Các Viên Sỏi Do đường kính của đường niệu quản trung bình chỉ ~ khoảng 4mm cho nên chỉ những viên sỏi có kích thước tương đương là có khả năng tự đào thải ra ngoài mà không cần can thiệp. Do có sự co giãn nên nhưng viên sỏi to hơn vẫn có khả năng tự chui qua được nhưng càng to hơn tỉ lệ càng thấp. Sỏi < 4mm thì 80% có thể tự thoát ra ngoài. Sỏi 4- 6 mm thì 59% có thể tự thoát ra ngoài. Sỏi > 6 mm, tỷ lệ thoát ra ngoài chỉ còn 21%. Do vậy, sỏi < 5mm được coi là nhỏ, từ 6 - 9 mm là bình thường, trên 10mm là to. Đặc biệt có nhiều người sỏi có thể lên tới vài cm, thậm chí có trường hợp viên sỏi to như viên kim cương. Các Triệu Chứng Của Bệnh Sỏi - Cơn đau thận do sỏi gây tắc bể thận và niệu quản, gây đau vùng thắt lưng, lan xuống hố chậu, bìu, kèm nôn hay trướng bụng. - Cơn đâu âm ỉ vùng thắt lưng do sỏi không gây tắc. - Đái ra máu do sỏi gây tổn thương đường tiết niệu hay do nhiễm khuẩn gây tổn thương thận chảy máu. Những triệu chứng trên kết hợp sốt cao 38 – 39o, ớn lạnh, thận to đau, cảm giác bỏng rát, đau khi tiểu, nước tiểu đục do nhiễm khuẩn. Các phương pháp điều trị bệnh sỏi: 1. Điều trị nội khoa: Điều trị nội khoa: là điều trị hỗ trợ để đưa sỏi ra ngoài theo đường tự nhiên nên ưu điểm là có thể điều trị ngoại trú, rẻ tiền, hợp với sinh lý. Thông thường khi điều trị nội khoa, bác sĩ sẽ kê đơn cho bạn thuốc giảm đau, giãn cơ và hướng dẫn bạn chế độ vận động và uống từ 2-3 lít nước/ngày để tăng khả năng tống sỏi ra ngoài. Tuy vậy, điều trị nội khoa cũng phải có những điều kiện nhất định như sỏi nhỏ chỉ vài mm, không bị nhiễm khuẩn tiết niệu, thận còn tiết nước tiểu.. và không phải trường hợp nào cũng thành công. 2. Điều trị can thiệp Đối với các trường hợp không có khả năng điều trị nội khoa hay điều trị nội khoa thất bại - tính từ khi điều trị sau 2 tuần mà sỏi không tự thoát ra ngoài - thì bạn nên nhập viện để can thiệp, tránh để lâu gây nhiều biến chứng. Tán sỏi ngoài cơ thể: đẩy sỏi lên thận để tán bằng máy tán sỏi siêu âm. Tán sỏi qua da: đưa đầu tán qua da vào thận sau đó xuống niệu quản để tán sỏi. Tán sỏi ngược dòng: đưa máy soi kèm đầu tán theo niệu đạo vào bàng quang sau đó lên tới niệu quản để tán sỏi. Đây là phương tối ưu nhất. Mổ lấy sỏi nội soi: nội soi qua ổ bụng hay khoang sau phúc mạc để lấy sỏi. Mổ hở để lấy sỏi: thường áp dụng khi sỏi quá to hoặc nhiễm trùng nặng. Mổ cắt thận: do sỏi làm thận mất hoàn toàn chức năng, gây đau và nhiễm khuẩn. Mổ: Hay còn gọi là mổ mở, đây là phương pháp cổ xưa, để lại nhiều di chứng nhất, người bệnh sẽ phải chịu đựng đau đớn kéo dài, có khả năng biến chứng nhiễm trùng, chảy máu, suy giảm chức năng thận từ 10-30% trong trường hợp sỏi san hô phức tạp, suy yếu thành bụng, thậm chí sỏi còn bị sót.. cho nên ngày nay thường ít được áp dụng. Các bác sỹ sẽ chỉ áp dụng khi các phương pháp hiện đại hơn thất bại hoặc viên sỏi có kích thước quá khổng lồ.
Một số nguyên nhân dẫn đến bệnh sỏi thận Thận của bạn sẽ mang bệnh, khả năng bị suy thận, sỏi thận hay tiểu không tự chủ… nếu duy trì những thói quen ăn uống và sinh hoạt không đúng cách. Để ngăn ngừa, theo các chuyên gia tốt nhất nên xây dựng cho mình một chế độ ăn uống và sinh hoạt hợp lý. Sử dụng thuốc không đúng cách Nhiều người bị bệnh, hoặc lo lắng cơ thể thiếu vitamin, nhất là canxi nên tự ý mua về bổ sung cho cơ thể. Với một số thuốc phải uống đúng giờ, uống với nhiều nước, không được kết hợp với 1 số loại thuốc khác... nhưng người dùng không theo chỉ dẫn hoặc không chịu tìm hiểu nên đã sử dụng sai cách. Từ thói quen này, cơ thể không hấp thụ được thành phần của thuốc gây lắng cặn ở thận và tích thụ thành sỏi. Vì vậy việc dùng thuốc sai cách, sai liều lượng, không theo chỉ đình của bác sĩ là một trong những nguyên nhân gây tổn thương thận, sỏi thận và ảnh hưởng sức khỏe toàn cơ thể. Ăn quá nhiều mì tôm và các muối Thói quen ăn mặn khiến tuần hoàn máu tăng đến cầu thận buộc thận phải làm việc nhiều dẫn đến suy thận. Đối với người măc bệnh thận nếu ăn nhiều muối sẽ suy sụp nhanh hơn, ngược lại nếu ăn ít muối thì chức năng thận được cải tạo tốt hơn. Không chỉ có thế muối còn là nguyên nhân dẫn đến sỏi thận, thận nhiễm mỡ. Đặc biệt với những người có thói quen ăn mì tôm, vì trong mì tôm chứa nhiều muối và chất béo nhưng lại ít vitamin và các khoáng chất. Mì tôm chủ yếu được làm từ củ mì (sắn) rất nhiều axit oxalic tạo sỏi thận. Thường xuyên hoặc ăn quá nhiều mì tôm cùng lúc khiến chức năng gan thận quá tải, dễ mắc chứng sỏi thận và hại cho cơ thể. Ăn quá nhiều thực phẩm chứa canxi Chế độ ăn quá nhiều thực phẩm chứa canxi sẽ khiến cơ thể dư thừa canxi, lượng canxi dư thừa sẽ tích tụ hình thành sỏi. Tuy nhiên chỉ nên áp dụng với người bị sỏi thận, hoặc sỏi thận tái phát sau khi xét nghiệm kiểm tra có bằng chứng đa canxi niệu do tăng hấp thu canxi từ ruột. Người bình thường không nên kiêng cữ quá mức những thực phẩm chứa canxi vì như thế sẽ gây ra mất cân bằng trong việc hấp thu canxi, khiến cơ thể hấp thu nhiều hơn oxalat từ ruột và sẽ tạo sỏi thận, ngoài ra kiêng cữ thực phẩm chứa canxi sẽ bị loãng xương. Ăn quá nhiều dầu mỡ Ăn quá nhiều chất dầu mỡ cũng chính là nguyên nhân dẫn đến bệnh sỏi thận. Bởi vì thức ăn giàu protit và chất béo sẽ tăng thêm hàm lượng cholesterol trong dịch mật, hình thành nên sỏi. Vì vậy, để hạn chế ăn hoặc kiêng ăn thực phẩm hàm chứa cholesterol thì nên hạn chế những món như: thịt mỡ, nội tạng động vật, trứng cá, gạch cua, lòng đỏ trứng vv. Ngoài ra, nên ăn nhiều rau quả tươi và một số thực phẩm có tác dụng giảm thấp cholesterol như: tỏi, hành tây, nấm hương, mộc nhĩ đen... Không uống đủ nước Các chuyên gia chỉ ra rằng, uống ít nước sẽ khiến hệ tiết niệu ít việc, lượng nước tiểu lưu cữu, trở nên đậm đặc, chất đọng lại tăng lên, như thế dễ hình thành nên sỏi thận và sỏi đường tiết niệu. Khi bạn uống đủ nước sẽ tăng lượng bài tiết nước tiểu, làm loãng nước tiểu, giảm thấp nồng độ tinh thể trong nước tiểu, rửa đường niệu đạo, có lợi cho phòng chống sỏi thận và làm cho sỏi bài tiết ra ngoài. Vì vậy, việc uống nước lọc là giải phát tốt nhất cho việc phòng tránh sỏi thận. Nhịn tiểu lâu Nhịn tiểu là một thói quen không tốt cho sức khỏe nhất là có thể gây ra nguy hại cho thận. Nước tiểu được chứa trong bàng quang trong khu vực xương chậu và được hỗ trợ bởi cơ xương chậu, chứa nước tiểu từ khi nhận cho đến khi nước tiểu được phóng thích ra bên ngoài. Nhịn tiểu lâu, thường xuyên không chỉ gây hậu quả nặng nề như nhiễm trùng tiểu, bệnh lý về thận, sỏi thân, bàng quang, đường tiết niệu, làm giảm chức năng sinh lý… Trong đó vỡ bàng quang được coi là nguy hiểm nhất, nếu không được phát hiện và phẫu thuật kịp thời sẽ nguy hại sức khỏe. Mất ngủ Chúng ta đều biết vai trò quan trọng của giấc ngủ ngon với sức khỏe thể chất và tinh thần. Mất ngủ mãn tính có liên quan đến nhiều bệnh khác nhau và bệnh thận cũng nằm trong danh sách này. Vào buổi đêm khi bạn ngủ, mô thận sẽ có thời gian để tự 'tái tạo' những tổn thương ban ngày. Nếu bạn mất ngủ, chức năng này không được thực hiện, lâu dần sẽ gây nên nhiều bệnh thận nguy hiểm. Bỏ quên bữa sáng Theo chuyên gia, nguy cơ gây ra bệnh sỏi thận do không ăn sáng khá lớn. Điều này là do cơ thể sau khi trải qua một đêm dài nghỉ ngơi, cần bổ sung năng lượng. Túi mật sẽ bài tiết dịch mật vào buổi sáng, chuẩn bị trước cho việc tiêu hóa thức ăn. Nếu không ăn sáng, mật sẽ không có thức ăn để tiêu hóa, dịch mật sẽ ở trong túi mật lâu hơn, thời gian dài như thế, dịch mật sẽ tích tụ trong túi mật và đường ruột, cholesterol từ trong mật tiết ra sẽ dễ hình thành nên sỏi thận. Bỏ bê bữa sáng: Rất nhiều người do vội đi làm, đi học vào buổi sáng mà không ăn sáng, cũng có người do sợ béo nên không ăn sáng. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng mà các chuyên gia cho rằng dẫn tới bệnh sỏi thận. Bởi sau một đêm dài, cơ thể của bạn cần bổ sung một lượng calo nhất định để tiếp tục những hoạt động của ngày hôm sau. Túi mật sẽ bài tiết dịch mật vào buổi sáng, chuẩn bị trước cho việc tiêu hóa thức ăn. Nếu bạn không ăn sáng, mật sẽ không có thức ăn để tiêu hóa, dịch mật sẽ ở trong túi mật lâu hơn, thời gian dài như thế, dịch mật sẽ tích tụ trong túi mật và đường ruột, cholesterol từ trong mật tiết ra sẽ dễ hình thành nên sỏi thận. Do đó, đừng vì vội vàng hay sợ tăng cân mà bạn “bỏ quên” bữa sáng nhé. Bởi nó có thể là nguyên nhân dẫn tới bệnh sỏi thận đó. Do uống ít nước: Các chuyên gia cho rằng, uống ít nước sẽ khiến hệ tiết niệu ít việc, lượng nước tiểu lưu cữu, trở nên đậm đặc, chất đọng lại tăng lên, như thế dễ hình thành nên sỏi thận và sỏi đường tiết niệu. Do đó, bạn hãy uống đủ lượng nước mỗi ngày để làm tăng lượng bài tiết nước tiểu, làm loãng nước tiểu cũng như làm giảm thấp nồng độ tinh thể trong nước tiểu, có lợi cho phòng chống sỏi thận và làm cho sỏi bài tiết ra ngoài. Vì vậy, bạn hãy uống đủ 2.000ml nước mỗi ngày ngay cả khi không khát nhé và tốt nhất là nên uống nước lọc. Lười vận động: Việc bạn không vận động nhiều trong ngày cũng là nguyên nhân dẫn tới bệnh sỏi thận. Bởi khi đó, không có lợi cho việc hấp thụ canxi, khiến lượng canxi bài tiết vào nước tiểu tăng lên, gây ra bệnh sỏi thận hoặc viêm đường tiết niệu. Cùng với đó, thành bụng cơ thể lỏng lẻo, gây ra sa nội tạng, chèn ép ống mật, làm cho dịch mật không bài tiết được sẽ tích tụ dẫn tới bệnh sỏi thận. Do đó, mỗi ngày sau giờ làm việc, bạn nên dành khoảng 30 phút để tập thể dục thể thao để tránh bị sỏi thận nhé. Ăn quá nhiều thức ăn có dầu mỡ, giàu protit và chất béo làm tăng hàm lượng choresterol, hình thành sỏi thận. Do vậy, bạn nên ăn nhiều hoa quả tươi và những thực phẩm làm giảm choresterol như nấm, mộc nhĩ, tỏi, hành tây… Đồng thời, nên hạn chế các thức ăn chứa dầu mỡ và chất béo.
Bệnh học sỏi hệ tiết niệu Các tinh thể của các chất bình thường được hòa tan trong nước tiểu, chủ yếu là Calci và Oxalat. Bên cạnh các chất thường gặp này còn có chất Phosphat, Magié, Urat, Cystine. Đại cương Sỏi thận và hệ tiết niệu là bệnh thường gặp nhất của đường tiết niệu và thường gặp ở nam giới nhiều hơn nữ giới. Tuổi mắc bệnh thường là từ 30 - 55, nhưng cũng có thể gặp ở trẻ em (sỏi bàng quang). Tại các nước công nghiệp phát triển, sỏi Acide Urique có chiều hướng gặp nhiều hơn ở các nước đang phát triển. Ở Việt Nam, sỏi Amoni-Magié-Phosphat (Struvit) chiếm một tỷ lệ cao hơn. Chế độ ăn uống không hợp lý (quá nhiều đạm, Hydrat Carbon, Natri, Oxalat), nhiễm khuẩn tiết niệu hoặc sống ở vùng nóng, vùng nhiệt đới,... là những yếu tố thuận lợi để bệnh sỏi thận tiết niệu dễ phát sinh. Các loại sỏi Calci thường là sỏi cản quang, còn sỏi Urat và Cystin thường không cản quang. Theo tác giả Glenn. H. Pneminger tỷ lệ mắc bệnh sỏi thận tiết niệu trên thế giới vào khoảng 3% dân số. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh Cấu trúc của sỏi Bowman và Meckel đã nghiên cứu sỏi niệu và nhận thấy viên sỏi có một tính chất đặc thù gồm hai yếu tố: Chất Mucoproteine, có tác dụng như chất keo kết dính các tinh thể với nhau để tạo sỏi. Các tinh thể của các chất bình thường được hòa tan trong nước tiểu, chủ yếu là Calci và Oxalat. Bên cạnh các chất thường gặp này còn có chất Phosphat, Magié, Urat, Cystine. Vai trò của Mucoprotein trong cơ chế tạo sỏi hiện nay vẫn còn được biết rất ít. Có thể nói rằng khi nước tiểu bị cô đặc hoặc khi pH của nước tiểu thay đổi, thì các chất hòa tan trong nước tiểu sẽ kết tinh lại thành các tinh thể, các tinh thể sẽ bị loại trừ theo dòng nước tiểu. Cần phải có chất Mucoproteine thì các tinh thể mới liên kết lại với nhau để tạo ra viên sỏi. Do đó nhiều trường hợp khi thử nước tiểu, thấy có nhiều tinh thể Oxalate hay Phosphate nhưng bệnh nhân không có sỏi thận tiết niệu. Điều kiện thuận lợi để phát sinh ra sỏi Điều kiện thường xảy ra nhất là sự cô đặc quá mức của nước tiểu. Trong điều kiện bình thường, nếu có hai điều kiện sau đây thì các tinh thể hòa tan có thể lắng đọng được: Dung dịch được để yên tĩnh, không bị khuấy động trong một thời gian dài. Dung dịch có chứa đựng các vật lạ như sợi chỉ, xác tế bào, vi khuẩn,... thì vật này có thể trở thành nhân để các tinh thể đọng xung quanh để tạo sỏi. Ngoài ra, khi dung dịch được cô đặc quá biên độ hòa tan trên ngưỡng bão hòa thì sẽ có sự kết tinh của các chất hòa tan. Sự thay đổi của pH nước tiểu sẽ làm cho một số chất hòa tan dễ kết tinh lại cụ thể, dưới tác dụng của một số chủng loại vi trùng (như Proteus Mirabilis) có tiết ra men uréase làm phân hủy urée thành amoniaque, nước tiểu sẽ bị kiềm hóa (pH> 6,5) và như vậy, chất Photsphate - Magié sẽ kết tinh lại. Ngược lại nếu pH nước tiểu trở nên acid (pH< 6) thì sẽ là điều kiện thuận lợi cho urat kết tinh lại. Các loại sỏi niệu thường gặp Sỏi calcium: Chiếm tỷ lệ từ 80 - 90 % các trường hợp. Những nguyên nhân làm tăng nồng độ calci trong nước tiểu là: Cường tuyến giáp cận giáp. Gãy xương lớn và bất động lâu ngày. Dùng nhiều Vitamin D và Corticoid. Di căn của ung thư qua xương, gây phá hủy xương. Ngoài ra còn có rất nhiều trường hợp có tăng nồng độ calci trong nước tiểu mà không tìm thấy nguyên nhân, gặp trong 40-60% trường hợp. Ngoài ra cũng có thể có nồng độ calci trong nước tiểu cao nhưng nồng độ Calci trong máu vẫn bình thường. Nồng độ calci cao trong nước tiểu không phải là yếu tố quyết định để kết thành sỏi niệu, mà nó chỉ là yếu tố thuận lợi. Sỏi oxalat: Chiếm tỷ lệ cao ở các nước nhiệt đới như nước ta, oxalat thường kết hợp với calci để tạo thành sỏi oxalat calci. Sỏi phosphat: Loại sỏi phosphat thường gặp là loại amoni-magné-phosphat, chiếm khoảng 5-15% trường hợp, có kích thước to, hình san hô, cản quang, hình thành do nhiễm khuẩn, đặc biệt là do lọai vi khuẩn proteus. Vi khuẩn protéus có men uréase làm phân hủy urée thành amoniaque, do đó nước tiểu sẽ bị kiềm hóa, nếu pH nước tiểu trên 7,0 thì phosphat sẽ kết tủa. Sỏi acid uric: Acid uric dễ tan trong môi trường kiềm và dễ kết tinh trong môi trường acid, khi pH nước tiểu dưới 6. Nguyên nhân của nó thường là: Lượng Acid uric được bài tiết quá nhiều trong nước tiểu. Nước tiểu bị cô đặc quá nhiều trong trường hợp mất nước do đổ mồ hôi khi làm việc ở môi trường nóng bức. Sỏi acid uric dễ xuất hiện khi chuyển hóa chất purine tăng trong cơ thể. Các nguyên nhân có thể làm tăng chuyển hoá purine: Dùng nhiều thức ăn có chứa nhiều chất purine như lòng heo, lòng bò, thịt cá khô, nấm. Bệnh Gút (Goutte). Phân hủy các khối ung thư khi dùng thuốc hóa trị liệu. Sỏi Cystin: Được hình thành do một khuyết tật của việc tái hấp thu ở ống thận của chất Xystin tương đối ít gặp ở nước ta. Sỏi Cystin không cản quang. Lý thuyết hình thành sỏi Cho đến bây giờ, vẫn chưa có một cơ chế hoàn toàn đầy đủ để giải thích cho việc hình thành và phát triển của các viên sỏi trong hệ thận tiết niệu. Nhiều giả thuyết đã được đưa ra, nhưng các giả thuyết đó cũng không giải thích được hết tất cả các trường hợp hình thành sỏi. Vì vậy, việc hình thành sỏi cho đến bây giờ vẫn được xem là một quá trình do đa yếu tố tác động. Kết thể Carr: Ở những người hay bị sỏi tái phát, tác giả Carr nhận thấy ở đầu của những ống góp, ở quanh các gai thận có những hạt sỏi nhỏ, tròn, cứng. Các kết thể này được cấu tạo bởi calcium phosphate và mucopotéine. Đám Randall: Randall cho rằng nếu tháp đài thận bình thường, nhẵn nhụi thì sỏi khó kết hợp. Ngược lại, nếu vì một lý do nào đó, như trong trường hợp viêm đài bể thận, tháp đài thận bị biến thể, thượng bì ở đài thận vị viêm, tháp đài thận bị mòn lở thì tinh thể sẽ bị kết tủa lại ở tháp đài thận, tạo thành những đám vôi hóa, và sau đó bong ra và rớt xuống đài thận, tạo thành sỏi nhỏ. Hoại tử của tháp đài thận: Trong một số trường hợp như đái đường, nhiễm trùng đường tiết niệu mạn tính hay trong trường hợp dùng thuốc giảm đau kéo dài, người ta thấy có hoại tử tháp đài thận, và nơi đây chính là nhân cho các tinh thể lắng đọng tạo thành sỏi. Tiến triển Sau khi viên sỏi được hình thành, nếu sỏi còn nhỏ, thường viên sỏi đi theo đường nước tiểu và được tống ra ngoài. Nhưng nếu viên sỏi bị vướng lại ở một vị trí nào đó trên đường tiết niệu, thì nó sẽ to ra, gây cản trở lưu thông của nước tiểu, đưa đến ứ đọng và dãn phình ở phía trên chỗ tắc. Lâu ngày sẽ đưa đến các biến chứng: Ứ nước tiểu. Nhiễm trùng. Phát sinh thêm các viên sỏi khác. Cuối cùng sẽ phá hủy dần phần thận đã sản sinh ra nó. Những nguyên nhân làm cho viên sỏi bị vướng lại Hình dạng và kích thước của viên sỏi: Một viên sỏi lớn, sần sùi thì dễ bám vào niêm mạc và bị vướng lại. Trên đường tiết niệu có những chỗ hẹp tự nhiên do cấu trúc giải phẫu: Viên sỏi không qua được các chỗ hẹp đó, những chỗ hẹp đó là Cổ đài thận. Cổ bể thận. Những chỗ hẹp ở niệu quản. Vùng thắt lưng, có các mạch máu sinh dục (mạch máu buồng trứng hoặc tinh hoàn) bắt chéo qua và ở nơi đó niệu quản thường bị gấp khúc, nên viên sỏi có thể bị vướng lại. Vùng chậu hông, niệu quản bắt chéo qua một số động mạch như động mạch chậu, động mạch bàng quang tử cung. Vùng sát bàng quang, niệu quản bắt chéo qua ống dẫn tinh. Phần niệu quản trong nội thành bàng quang, Vì vậy, viên sỏi niệu quản hay bị vướng lại ở các đoạn như sau: Đoạn thắt lưng 1/3 trên của niệu quản. Đoạn trong chậu hông bé. Đoạn nội thành của bàng quang. Ở bàng quang: Cổ bàng quang là chỗ hẹp chủ yếu. Ở nam giới, cổ bàng quang có tiền liệt tuyến bao bọc nên sẽ khó qua hơn ở phụ nữ. Ở niệu đạo: Ở nữ giới niệu đạo không có chỗ hẹp và ngắn hơn nên sỏi ít bị vướng lại hơn. Ở nam giới, niệu đạo có ba chỗ mở rộng ra và viên sỏi hay lọt vào đó. Những nơi đó là Xoang tiền liệt tuyến. Hành niệu đạo. Hố thuyền ở gần lỗ sáo. Ảnh hưởng của viên sỏi đối với đường tiết niệu Nước tiểu từ đài bể thận xuống bàng quang nhờ các nhu động. Muốn có nhu động phải có tuần tự như sau: Sự giãn nở của cơ vòng phía trước. Sự co bóp của cơ vòng phía sau. Sự co bóp của các cơ dọc. Hiện tượng này phải xảy ra tuần tự từ trên xuống dưới thì nước tiểu mới đi được. Nhu động khởi phát từ đài thận, lan xuống bể thận và đến niệu quản. Chóp đài thận và cổ bể thận là các nơi chủ nhịp của các sóng nhu động. Khi viên sỏi bị vướng lại ở bên trong đường tiết niệu, nó sẽ ảnh hưởng đến đường tiết niệu qua 3 giai đoạn Giai đoạn chống đối: Đường tiết niệu phía trên viên sỏi sẽ tăng cường sức co bóp để tống sỏi ra ngoài. Niệu quản và bể thận phía trên viên sỏi chưa bị giãn nở. Có sự tăng áp lực đột ngột ở đài bể thận gây cơn đau quặn thận. Trên lâm sàng ở giai đoạn này bệnh nhân thường biểu hiện bởi những cơn đau quặn thận điển hình. Giai đoạn giãn nở: Thông thường sau khoảng 3 tháng nếu sỏi không di chuyển được thì niệu quản, bể thận và đài thận phía trên viên sỏi sẽ bị giãn nở, nhu động của niệu quản bị giảm. Giai đoạn biến chứng: Viên sỏi nằm lâu sẽ không di chuyển được vì bị bám dính vào niêm mạc, niệu quản bị xơ dày, có thể bị hẹp lại. Chức năng thận sẽ bị giảm dần, thận ứ nước, ứ mủ nếu có nhiễm trùng, sỏi còn tồn tại trong đường tiết niệu là một yếu tố thuận lợi cho việc nhiễm trùng tái diễn, lâu ngày sẽ gây viêm thận bể thận mạn tính và đưa đến suy thận mạn. Sỏi niệu quản hai bên có thể gây vô niệu do tắc nghẽn. Lâm sàng Sỏi đường tiết niệu trên Gồm sỏi thận, bể thận, niệu quản. Các triệu chứng thường gặp là: Cơn đau quặn thận: xuất hiện đột ngột, sau khi gắng sức, khởi phát ở vùng hố thắt lưng một bên, lan ra phía trước, xuống dưới, cường độ đau thường mạnh, không có tư thế giảm đau. Có thể phân biệt hai trường hợp Cơn đau của thận do sự tắt nghẽn bể thận và đài thận: đau ở hố thắt lưng phía dưới xương sườn 12, lan về phía trước hướng về rốn và hố chậu. Cơn đau của niệu quản: xuất phát từ hố của thắt lưng lan dọc theo đường đi của niệu quản, xuống dưới đến hố chậu bộ phận sinh dục và mặt trong đùi. Triệu chứng kèm theo hay gặp là buồn nôn, nôn mửa, chướng bụng do liệt ruột. Có thể có sốt, rét run nếu có nhiễm trùng kết hợp. Khám thấy điểm sườn lưng đau, rung thận rất đau. Các điểm niệu quản ấn đau, có thể thấy thận lớn. Chú ý rằng không có mối liên quan giữa kích thước hay số lượng sỏi với việc xuất hiện cũng như cường độ đau của cơn đau quặn thận. Một số trường hợp bệnh nhân không có triệu chứng (sỏi thể yên lặng), hoặc chỉ có dấu không rõ ràng như đau ê ẩm vùng thắt lưng một hoặc hai bên. Sỏi đường tiết niệu dưới Gồm sỏi bàng quang và sỏi niệu đạo. Sỏi bàng quang sẽ kích thích niêm mạc bàng quang gây tiểu buốt, rát, tiểu láu. Tiểu tắc giữa dòng. Khám ấn điểm bàng quang đau. Sỏi niệu đạo sẽ gây bí tiểu, khám lâm sàng thường phát hiện được cầu bàng quang, sờ nắn dọc theo niệu đạo có thể thấy sỏi. Cận lâm sàng Xét nghiệm nước tiểu Tìm tế bào và vi trùng: Nước tiểu có nhiều hồng cầu, bạch cầu. Có thể thấy vi trùng khi ly tâm soi và nhuộm Gram khi có biến chứng nhiễm trùng. Cần cấy nước tiểu trong trường hợp nghi ngờ có nhiễm trùng. Soi cặn lắng: Có thể thấy tinh thể Oxalat, Phosphat, Calci. pH nước tiểu: Có nhiễm trùng niệu pH sẽ tăng trên 6,5 vì vi trùng sẽ phân hủy Urea thành Amoniac. Khi pH dưới 5,5 có nhiều khả năng có sỏi Urat. Albumin niệu: Nhiễm trùng niệu chỉ có ít Albumin niệu, nếu có nhiều phải thăm dò bệnh lý cầu thận. Siêu âm Phát hiện sỏi, độ ứ nước của thận và niệu quản, độ dầy mỏng của chủ mô thận. Đây là xét nghiệm thường được chỉ định trước tiên khi nghi ngờ có sỏi hệ tiết niệu vì đơn giản, rẻ tiền, không xâm nhập và có thể lập lại nhiều lần không có hại cho bệnh nhân. Nhiều trường hợp sỏi không triệu chứng được phát hiện tình cờ khi khám siêu âm kiểm tra thường quy hoặc siêu âm bụng vì một lý do khác. X quang bụng không chuẩn bị (ASP) Xác định vị trí sỏi cản quang, cho biết kích thước số lượng và hình dáng của sỏi. Rất có giá trị vì hầu hết sỏi hệ tiết niệu ở Việt nam là sỏi cản quang. Chụp hệ tiết niệu qua đường tĩnh mạch (UIV) Hình dáng thận, đài bể thận, niệu quản. Vị trí của sỏi trong đường tiết niệu. Mức độ giãn nở của đài bể thận, niệu quản. Chức năng bài tiết chất cản quang của thận từng bên. Chụp X quang niệu quản thận ngược dòng Phát hiện sỏi không cản quang. Có giá trị trong trường hợp thận câm trên phim UIV. Chụp X quang niệu quản thận xuôi dòng Soi bàng quang Thường ít dùng để chẩn đoán sỏi, nhưng có thể nội soi can thiệp lấy sỏi. Điều trị Điều trị nội khoa Điều trị cơn đau quặn thận do sỏi: Giảm đau: Thường các thuốc kháng viêm không Steroid có tác dụng tốt trong trường hợp này, có thể dùng Voltarene ống 75mg tiêm tĩnh mạch. Trong trường hợp không có hiệu quả, các tác giả phương Tây thường khuyên nên sử dụng Morphin. Giãn cơ trơn: Tiêm tĩnh mạch các thuốc Buscopan, Drotaverin,... Giảm lượng nước uống vào. Kháng sinh, nếu có dấu hiệu nhiễm trùng, chú ý chọn những loại kháng sinh có tác dụng trên vi khuẩn gram âm. Cephalosporin thế hệ 3, Quinolone và các Aminozide thường được sử dụng nhiều, cần thay đổi liều lượng theo mức độ suy thận (nếu có) và tránh dùng Aminozide khi suy thận (kháng sinh độc thận). Giải quyết nguyên nhân gây tắc nghẽn niệu quản (sỏi, dị dạng đường niệu gây ứ nước). Một số trường hợp sỏi niệu quản gây cơn đau quặn thận không đáp ứng với điều trị nội khoa thì cần chỉ định can thiệp phẫu thuật sớm để giải quyết tắc nghẽn. Tuỳ theo cơ địa bệnh nhân, số lượng, kích thước sỏi và tình trạng chức năng thận từng bên để quyết định dẫn lưu tối thiểu bể thận qua da hay có thể can thiệp lấy sỏi bằng mổ cấp cứu. Dùng thuốc uống để làm tan sỏi có được không ? Đây là câu hỏi đã từ lâu được các nhà nghiên cứu xem xét. Hiện nay, người ta kết luận như sau: Đối với hòn sỏi nhỏ và trơn láng: Nhờ sự nhu động của niệu quản hòn sỏi sẽ di chuyển dần để được tống ra ngoài. Điều này diễn tiến một cách tự nhiên chứ không phải do thuốc làm “bào mòn“ hòn sỏi như một số người thường nghĩ. Tuy nhiên thuốc lợi tiểu làm tăng dòng nước tiểu, thuốc chống viêm không stéoide làm cho niêm mạc niệu quản không bị phù nề làm cản trở sự di chuyển của sỏi nên có tác dụng tốt cho hòn sỏi chuyển động dễ dàng. Chỉ có sỏi acid uric là tan được dưới tác dụng của thuốc: Đây là sỏi không cản quang thường gặp ở các nước phương tây. pH nước tiểu thường rất acid < 6 sỏi sẽ tan khi ta cho kiềm hóa nước tiểu, cách điều trị như sau: Chế độ ăn: giảm đạm, kiêng rượu, bia, thuốc lá. Cho bệnh nhân uống nhiều nước trên 2 lít nước mỗi ngày Làm kiềm hóa nước tiểu bằng các loại thuốc: Bicarbonate de Sodium 5 -10g/ ngày. Foncitril 4000: 1-4 viên /ngày.Loại này có chứa các hóa chất citratesodium, citratepotassium, acid citrique, và triméthyl phloroglucinol. Hungarie sản xuất với các thuốc như Malurit và Magurlit tương tự như Foncitril. Cách dùng liều tấn công 3-4 viên/ngày cho đến khi pH > 7 sau đó duy trì từ 1-2 viên/ngày và duy trì pH nước tiểu và đến khi siêu âm thấy hòn sỏi đã tan hết. Allopurinol (zyloric): Là thuốc ức chế purine liều 100- 300mg mổi ngày tùy theo pH nước tiểu dùng cùng với Foncitril cho đến khi sỏi tan hết trong trường hợp sỏi lớn có khi phải dùng thuốc liên tục trong nhiều tuần có thể gây tác dụng phụ như buồn nôn, tiêu chảy, ngứa, nổi mân ở da, suy chức năng gan. Nên uống thuốc sau khi ăn. Điều trị thuốc phối hợp: Thuốc lợi tiểu loại thiazide sẽ giúp sự tái hấp thu calxi qua ống thận thường phải dùng kéo dài trong nhiều tháng mới có kết quả như Hypochlorothiazide (Esidrex) 1-2 viên/ngày. Vitamin B6 có tác dụng tốt trong việc chống tạo sỏi oxalat (theo nghiên cứu Prien). Điều trị nội khoa sau phẩu thuật mổ lấy sỏi Vấn đề tái phát sỏi sau mổ là hết sức gay go, những yếu tố cho sự tái phát sỏi là Sót sỏi sau phẫu thuật: Là yếu tố duy trì nhiễm trùng niệu làm sỏi phát triển Tồn tại chỗ hẹp trên đường tiết niệu. Nhiễm trùng niệu không điều trị dứt điểm: Điều cần thiết là phải điều trị dứt điểm nhiễm trùng niệu tốt nhất theo kháng sinh đồ thời gian từ 4 - 6 tuần. Điều trị ngoại khoa Mổ lấy sỏi. Các phương pháp khác: Phẩu thuật nội soi lấy sỏi. Tán sỏi ngoài cơ thể. Lấy sỏi niệu quản qua da. Điều trị dự phòng Cho bệnh nhân uống nhiều nước, trên 2,5lít / ngày uống rải đều ra trong ngày. Về chế độ ăn: tuỳ thuộc vào bản chất của sỏi mà có chỉ định thích hợp cho từng bệnh nhân. Đối với sỏi Canxi: Loại trừ u tuyến cận giáp. Điều trị tốt u tuỷ xương. Các bệnh nhân có Canxi niệu tăng thì có thể cho dùng lợi tiểu Thiazide để làm giảm nồng độ Canxi niệu dưới 2 mmol/l. Đối với sỏi Oxalate: Loại trừ các thức ăn giàu Oxalate như rau muống, Chocolate,... Đối với sỏi Oxalate có Canxi niệu tăng và Phospho máu giảm thì có thể bổ sung Phospho: 0,5 -1 g uống. Sỏi Cystine: Chế độ ăn nghèo các acide amine có lưu huỳnh.
Các loại sỏi thường gặp: Sỏi canxi Sỏi canxi là loại sỏi thường gặp nhất trong các loại sỏi, chiếm khoảng 80% các trường hợp. Bình thường, sỏi canxi cứng, có nhiều hình dạng, kích thước, mật độ khác nhau. Nguyên nhân chính là tình trạng nước tiểu quá bão hòa về muối canxi do tăng hấp thu canxi ở ruột hoặc tăng tái hấp thu canxi ở ống thận. Xét nghiệm nước tiểu sẽ thấy canxi niệu tăng cao. Bình thường thận đào thải khoảng 300 mg canxi qua nước tiểu trong một ngày, trong trường hợp nước tiểu bị quá bão hòa về muối canxi, lượng canxi đào thải qua nước tiểu có thể tăng lên 800 - 1.000mg trong 24h với chế độ ăn bình thường. Nguyên nhân thứ 2 là giảm citrat niệu. Citrat niệu có tác dụng ức chế kết tinh các muối canxi. Khi có toan máu, nhiễm khuẩn tiết niệu, hạ kmáu thì thường citrat niệu giảm. Khi thiếu citrat nước tiểu sẽ bão hòa muối canxi tạo điều kiện kết tinh sỏi. Nguyên nhân thứ ba là nước tiểu quá bão hòa về oxalat. Thức ăn chứa nhiều oxalat hoặc trong trường hợp ngộ độc vitamin C sẽ dẫn đến tình trạng này hoặc ở người bị viêm ruột, cắt một phần ruột non, người có rối loạn chuyển hoá. Những loại rau có hàm lượng oxalat cao bao gồm: cần tây, tỏi tây, củ cải, rau cải, khoai lang, đậu xanh, đậu tương, bí, ớt, cà tím, măng tây, đào lộn hột, rau diếp, nho, mận và trà.. Sỏi struvite hay sỏi nhiễm trùng Sỏi struvite chiếm khoảng 10% các loại sỏi thận. Sỏi struvit là do nhiễm khuẩn lâu dài đường tiết niệu, vi khuẩn giải phóng chất khiến giảm hòa tan struvit, tạo điều kiện hình thành sỏi. Người ta thấy sự xuất hiện sỏi struvite hầu như luôn luôn đi kèm với tình trạng tắc nghẽn hay nhiễm trùng đường tiểu. Vì thế, trong trường hợp này, việc dùng kháng sinh được xem là một bước bắt buộc, không thể thiếu trong quá trình điều trị. Sỏi axit uric Sỏi axit uric thường gặp ở những người có nồng độ axit uric cao, chiếm khoảng 10% các trường hợp sỏi thận. Sỏi axit uric không cứng và cũng không dễ phát hiện bằng tia X như sỏi canxi. Nguyên nhân là do nước tiểu quá bão hòa acid uric tạo điều kiện gây sỏi urat và thường có tăng acid uric niệu đi kèm. Sỏi acid uric gặp trong tăng acid uric máu, bệnh gout, trong một số trường hợp di truyền, béo phì, những người tiểu đường kháng insulin Người bệnh nên có những xét nghiệm về bệnh mắc kèm và cần giảm ăn những thức ăn quá nhiều đạm. Sỏi cystin Sỏi cystin rất hiếm, hình thành do cystin bị đào thải nhiều qua thận nhưng ít hòa tan nên dễ đọng thành sỏi. Trong các loại sỏi thì sỏi cystin có tính di truyền rõ rệt nhất. Những người với tiền sử gia đình có người mắc bệnh có nguy cơ cao bị mắc loại sỏi này. Tùy thuộc vào từng loại sỏi, kích thước lớn hoặc nhỏ của sỏi mà các bác sĩ lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp. Các loại sỏi nhỏ, sỏi bùn, sạn thận, bệnh nhân được chỉ định thuốc uống bào mòn sỏi, khi sỏi nhỏ đến một mức độ nhất định sẽ theo đường nước tiểu ra ngoài. Những loại sỏi lớn, kết hợp thuốc và các phương pháp y học hiện đại: tán sỏi ngoài cơ thể, tán sỏi qua da, mổ nội soi, tán sỏi ngược dòng.. Đồng thời, bệnh nhân cần biết cấu tạo, phân chất sỏi của mình để có biện pháp ăn uống, sinh hoạt phòng bệnh tái phát.