Lịch sử hay nhắc đến nhà Trần với 3 lần thắng quân Mông Cổ như một thần tích. Nhưng ít ai biết là trên xứ Cao Ly xa xôi, một dũng tướng Đại Việt cũng đường hoàng đánh bại quân Nguyên Mông đến 2 lần. Đó chính là hoàng tử Lý Long Tường. Hoàng tử Lý Long Tường (李龍祥, Hàn ngữ: 이용상/ Yi Yong-sang). Ông là hoàng tử triều Lý nước Đại Việt, sau trở thành Hoa Sơn Tướng quân (Hwasan Sanggun) nước Cao Ly và là ông tổ của dòng họ Lý Hoa Sơn (Hoa Sơn Lý thị) ngày nay tại Hàn Quốc. 1. Từ Đại Đô Đốc Hải Quân đến người tỵ nạn xứ Cao Ly Lý Long Tường sinh năm 1174 (Giáp Ngọ), là con thứ bảy của vua Lý Anh Tông (trị vì 1138-1175) và Hiền phi Lê Mỹ Nga. Ông được ban chức Thái sư Thượng trụ quốc, Khai phủ nghị đồng tam tư, Thượng thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc hải quân, tước Kiến Bình vương. Ông là em trai vua Lý Cao Tông và là chú của Lý Huệ Tông. Với tư cách là con vua Anh Tông, em trai vua Cao Tông, chú Huệ Tông nên có thể nói Lý Long Tường là một trong những hoàng thất quan trọng có vai vế vào hàng cao nhất của nhà Lý. Ông lại nắm trong tay lực lượng trên biển hùng mạnh nhất trong khu vực thời bấy giờ, đó là hạm đội hải quân nhà Lý (trú đóng tại Đồ Sơn). Nhưng cuộc đời vốn không như là mơ, một vị hoàng thất tôn quý quyền uy như vậy cũng không thoát khỏi số phận trầm luân trong thời khắc biến động của lịch sử. Năm 1225, Trần Thủ Độ lật đổ nhà Lý bằng cách đưa cháu là Trần Cảnh vào hầu Lý Chiêu Hoàng, dàn xếp để Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng và nhường ngôi để lập ra nhà Trần. Sau đó Trần Thủ Độ (anh hùng và gian hùng) tiến hành tàn sát con cháu nhà Lý, buộc con cháu nhà Lý đổi qua họ Nguyễn, đày con cháu nhà Lý đi lên vùng núi non hiểm trở phía bắc. Năm 1226 (tức niên hiệu Kiến Trung thứ hai đời vua Thái Tông nhà Trần), để bảo toàn tính mạng và lo việc thờ cúng tổ tiên, Lý Long Tường đã bí mật về Kinh Bắc, vái lạy tạ biệt lăng miếu Đình Bảng, tới Thái miếu thu gom các bài vị, các đồ tế khí, rồi trở lại Đồ Sơn cùng sáu ngàn gia thuộc qua cửa Thần Phù, Thanh Hóa chạy ra biển Đông trên ba hạm đội. Vậy là hoàng tử nhà Lý đã trở thành một trong những thuyền nhân tỵ nạn đầu tiên của nước ta. 2Điềm lành đến từ phương Nam: Cuộc hành trình rời bỏ quê hương không bao giờ là dễ dàng. Đó không phải là những chuyến ra khơi đánh cá, cũng không phải những cuộc viễn chinh huyền thoại của Lý Thường Kiệt, tuy vất vả nhưng sau đó đều khải hoàn quay về. Đoàn thuyền chiến gồm 3 hạm đội từng lừng lẫy biển cả năm xưa giờ phải tháo chạy vô định trên biển, không biết ngày mai sẽ ra sao. 52 tuổi nhưng vẫn phải đem cả gia quyến lưu lạc, mỗi khi nghĩ về cố hương, lòng của vị hoàng tử đô đốc vẫn quặn lên từng hồi, vì nỗi nhớ quê và vì không biết ngày mai điều gì đang chờ đợi ông và đoàn quân vong quốc này. Sau một tháng lênh đênh trên biển, đoàn thuyền gặp bão lớn phải ghé vào Đài Loan. Khi Lý Long Tường quyết định lên đường thì một chuyện buồn khác lại đến, con trai ông là Lý Long Hiền ốm nặng nên phải ở lại đảo Đài Loan cùng 200 gia thuộc. Sau nhiều tháng lênh đênh trên biển, cuối cùng đoàn thuyền bị bão dạt vào Trấn Sơn, huyện Bồn Tân, tỉnh Hoàng Hải, trên bờ biển phía tây Cao Ly. Trời đúng là không tuyệt đường con người, một điềm trùng hợp kỳ lạ báo trước số phận của đoàn người nhà Lý đã diễn ra ngay trước khi họ đến vương quốc Cao Ly. Đất nước Cao Ly lúc này đang dưới thời Cao Ly Cao Tông (trị vì 1213–1259) là vị vua thứ 23 của Cao Ly trong lịch sử Triều Tiên. Ông là con trai duy nhất của Cao Ly Khang Tông và Nguyên Đức Vương hậu, được Thôi Trung Hiến đưa lên làm vua, nguyên danh là Vương Hạo, tự Thiên Hựu. Dù lên ngôi năm 1213, vua Cao Tông không có nhiều quyền lực cho đến khi các quân sư đầy quyền lực bị giết hết. Năm 1216, Đế quốc Khiết Đan xâm lược nhưng đã bị đánh lui. Nhưng quốc gia lại đứng trước nguy cơ xâm lăng của một kẻ thù còn mạnh hơn gấp bội, đó là người Mông Cổ. Vị vua trẻ Cao Tông đầy hùng tâm tráng chí đang rất đau đầu khi quốc gia còn yếu, không thể có vị đại tướng tài ba giúp ông chống ngoại xâm. Ông trời đã mỉm cười với Cao Tông, vào đêm nọ ông nằm mơ thấy một con chim phượng hoàng cực lớn bay đến từ phương Nam và đậu xuống bờ biển Cao Ly. Điềm lành từ phượng hoàng báo mộng cho Lý Long Tường ở xứ Cao Ly. Thấy giấc mơ quá lạ, ông kể lại cho quan chiêm tinh của mình nghe, các quan nghe xong rồi đều đồng loạt tâu rằng: "Xin chúc mừng hoàng thượng. Phượng Hoàng là vua của loài chim, còn có nghĩa là dòng dõi hoàng tộc cao quý và mang điềm lành. Nay nó đậu xuống nước ta nghĩa là bệ hạ là vị Thiên Tử được lòng Trời, nên ông Trời cho chim Phượng đến, cũng có nghĩa là thời gian ngắn sắp tới sẽ có người tài giỏi thuộc dòng dõi cao quý đến từ phương Nam, không phải phía Nam của nước ta (Cao Ly) mà là đến từ một quốc gia phía Nam. Người này chắc là mãnh tướng mà bệ hạ đang mong chờ". Cao Tông nghe vậy mừng rỡ vô cùng, liền xuống chiếu cho người đi tìm khắp nơi. Trùng hợp vào thời điểm đó, hạm đội lưu vong của Lý Long Tường cũng vừa cập bến Cao Ly. Thông qua bút đàm và đàm thoại bằng Hán tự mà Lý Long Tường có thể trình bày thân thế và sự việc của mình, và cũng qua giấc mộng nói trên nên vua Cao Ly lệnh cho chính quyền địa phương tiếp đón ân cần, và đồng ý cho Lý Long Tường ở lại dung thân. Tại đây Lý Long Tường cùng tướng sĩ, gia thuộc trồng trọt, đánh cá, chăn nuôi. Triều Lý là triều đại huy hoàng của Đại Việt, phát triển vượt bậc cả văn trị lẫn võ công, nên Lý Long Tường lại càng là vị võ tướng tài kiêm văn võ. Cảm cái ân tri ngộ của vua Cao Tông, ông đem hết những sở học đắc ý cả đời mở ra để dạy cho dân xứ này, mong muốn biến họ thành một dân tộc lễ nghi văn võ như triều Lý vào thời hoàng kim. Do đó ông mô phỏng theo cách thức nhà Lý, cho mở độc thư đường dạy văn (thi phú, lễ nhạc, tế tự) và giảng võ đường dạy võ (binh pháp, võ thuật). Học trò theo học rất đông, lúc nào cũng trên nghìn người. Kể từ thời đại này mãi đến vài trăm năm sau, hầu như những danh tướng danh thần phần lớn đều xuất thân từ các ngôi trường này. Đây quả là điềm lành và món quà từ Thiên thượng dành cho vua và dân Cao Ly vậy. Lý Long Tường cập bến Cao Ly dùng những kiến thức và kinh nghiệm có được, mở Độc Thư Đường. Hai lần chiến thắng quân Nguyên Mông Lịch sử hay nhắc đến nhà Trần với 3 lần thắng quân Mông Cổ như một thần tích. Nhưng ít ai biết là trên xứ Cao Ly xa xôi kia có một dũng tướng Đại Việt cũng đường hoàng đánh bại chính diện quân Nguyên Mông đến 2 lần. Đó chính là hoàng tử tỵ nạn Lý Long Tường. Vào năm 1225, dưới triều vua Cao Tông (trị vì từ 1213-1259), vị vua thứ 23 của nhà Cao Ly, Đế quốc Mông Cổ gửi sứ giả đến Cao Ly yêu cầu cống nộp nhưng Cao Ly từ chối, đồng thời còn giết chết sứ giả của Mông Cổ là Trứ Cốc Dư (Chu-ku-yu). Năm 1232, Đại hãn Oa Khoát Đài (Ogotai) đem quân tiến đánh Cao Ly bằng hai đường thủy bộ. Về đường thủy, quân Nguyên Mông vượt biển tiến đánh tỉnh Hoàng Hải nhưng bị Lý Long Tường lãnh đạo tướng sĩ, gia thuộc và quân dân địa phương đẩy lui. Khi ra trận, ông thường cưỡi ngựa trắng mặc áo giáp trắng bào trắng đôn đốc quân sĩ, nên nhân dân gọi ông là Bạch Mã Tướng quân. Nói vui một chút, bản thân ông cũng từng là hoàng tử, chẳng lẽ nào xưng hiệu "Bạch Mã Hoàng Tử" xuất hiện từ đây? Chỉ có điều là hơi trái với mơ ước thực tế của chị em về một anh chàng trẻ trung lịch lãm, tướng quân Lý Long Tường vẫn oai hùng lịch lãm nhưng năm đó đã 58 tuổi rồi. Nhà Nguyên nổi tiếng với các chiến dịch trên bộ nhưng sau này đã phát triển thêm thủy quân để tấn công các nước như Đại Việt, Cao Ly, Nhật Bản. Lúc ấy lực lượng gửi đến Cao Ly cũng là lực lượng hùng mạnh ghê gớm. Xứ Cao Ly thời đó hải quân không mạnh lắm, vậy vì sao trong thời gian ngắn lại có thể đánh bại quân Nguyên Mông cường như thế? Điều này có được hoàn toàn nhờ công của Lý Long Tường. Cũng cần nhấn mạnh một chút là, xét về khả năng chiến đấu của Hải quân thì Hải quân nhà Lý thời đó là không có đối thủ ở châu Á (lục quân cũng không kém khi có thể đánh bại nhà Tống xâm lược). Nước mạnh nhất châu Á thời đó là nhà Tống cũng chịu nhục khi Lý Thường Kiệt ngang nhiên mang hải quân viễn chinh hoành hành vô địch ngay trong lãnh thổ Tống ở Khâm Liêm 2 châu. Vì thế Lý Long Tường khi ấy là Đại Đô Đốc Hải Quân, ông đã đem đi 3 hạm đội mạnh nhất gồm 6000 thủy thủ và gia thuộc, đó là những tinh anh trong Hải quân nhà Lý. Cái cần thiết nhất để xây dựng hải quân tinh nhuệ chính là lực lượng thủy thủ nòng cốt tinh thông hải chiến và một vị đô đốc cùng bộ chỉ huy chuyên tác chiến biển xa. Lý Long Tường đã đem cả hai thứ này dâng lên cho vua Cao Ly, đồng thời lại thành lập giảng võ đường chuyên đào tạo võ công và binh pháp cho sĩ quan cả thủy lẫn bộ. Sự hung hãn của quân Mông. Quân Nguyên Mông cay cú không phục nên lại đánh phục thù lần nữa vào 21 năm sau. Nhưng có lẽ người Việt Nam trời sinh là khắc tinh của dân du mục Mông Cổ, quả đúng là: "Địa chuyển ngã Việt chủng cư Bắc phương, Âu châu cảnh nội vô Mông kỵ tung hoành thiên vạn lý. Thiên sinh thử lương tài ư Tống thất, Trung quốc sử tiền miễn Nguyên triều đô hộ nhất bách niên". Tạm dịch: "Đất mà chuyển dân Việt ta sống phương Bắc, vó ngựa Mông Cổ không thể tung hoành châu Âu ngàn vạn dặm. Trời mà sinh thiên tài này ở nhà Tống, sử Trung Hoa đâu ghi dấu đô hộ Nguyên Triều một trăm năm". Vì đụng phải khắc tinh vĩ đại nhất lịch sử của mình nên Nguyên Mông đành phải nuốt hận lần nữa dù kẻ địch của chúng đã gần 80 tuổi. Năm 1253, Đại hãn Mông Ca lại đem quân đánh Cao Ly lần thứ hai. Quân Nguyên Mông do Đường Cơ chỉ huy tấn công Hoàng Hải cả đường thủy lẫn đường bộ. Lý Long Tường lãnh đạo quân dân trong vùng chống trả quân Nguyên Mông suốt 5 tháng ròng. Các đệ tử và tướng lãnh quân dân trong vùng bằng binh pháp của Đại Việt do ông truyền dạy đã đánh cho quân giặc nhiều trận thua đau. Quân Mông Cổ hết cách bèn bày mưu ám sát ông, chúng giả vờ giảng hòa, tặng ông năm hòm vàng bạc châu báu lớn để làm lễ vật, nhưng chúng cho thích khách núp ở bên trong để khi mở hòm ra là ám sát. Đoán biết âm mưu của giặc, ông cho người khoét lỗ hòm rồi đổ nước sôi vào, cả năm tên thích khách bị "luộc" chín, sau đó ông cho xe trả quân giặc. Quân Mông Cổ không còn cách nào khác và đã thua quá nhiều nên vì thế phải xin được rút về nước và lập đàn thề không xâm lược Cao Ly. Nơi quân Mông Cổ đầu hàng được gọi là Thụ hàng môn và vua Cao Ly cũng cho lập bia tại đây để ghi công ông (di tích này hiện nay vẫn còn). Sau chiến công này, vua Cao Ly đổi tên Trấn Sơn thành Hoa Sơn, phong Lý Long Tường làm Hoa Sơn Quân hay Hoa Sơn Tướng Quân (Hwasan Sang Gung) ban cho vùng Hoa Sơn làm thực ấp để sinh sống và thờ cúng tổ tiên. Kể từ đó đã bắt đầu huyền thoại của một trong những dòng họ cổ xưa và danh giá nhất Hàn Quốc – Hoa Sơn Lý Thị. Vinh hoa phú quý như mây nổi, quê nhà đau đáu mỗi chiều về Bản thân lập đại công được phong tước vị, gia tộc định cư hưởng vinh hoa phú quý đời đời ở Cao Ly, những tưởng Lý Long Tường sẽ hài lòng với những gì đã đạt được những năm tháng cuối đời nơi xứ người. Nhưng trong lòng ông, dẫu có xa xôi cách trở thì nỗi nhớ quê nhà vẫn thắt ruột mỗi chiều về. Sống ở Hoa Sơn, Lý Long Tường đặt hiệu là Vi Tử Động. Mục đích ra đi của Lý Long Tường là để giữ việc thờ cúng tổ tiên như trường hợp Vi Tử đời Ân đã làm, nên ông đặt hiệu là Tiểu Vi Tử và nơi ở là Vi Tử Động. Tại đây ông cho xây một ngôi đình làng y như kiểu đình làng ở quê hương. Hàng năm vào dịp Tết và hội, người Lý Hoa thôn dù đi làm ăn xa khắp lãnh thổ Cao Ly cũng trở về làng ăn Tết, cũng có "Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ/Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh" như phong tục Đại Việt. Khi dân làng cúng lễ dâng hương tại đình thì vị tiên chỉ mở Quốc phả ra đọc cho con cháu nghe về nguồn gốc của người Lý Hoa thôn. Ba hồi chuông, trống âm vang trong không khí thiêng liêng. Sau khi dâng hương, người dân Lý Hoa thôn khấn vái, đầu phủ phục trước đình, hướng về phương Nam cố quốc. Phong tục ấy được nối tiếp đời đời qua nhiều thế hệ. Tại Hoa Sơn có một ngọn núi cao nhất gọi là Quảng Đại Sơn. Tương truyền rằng ngày ngày lão tướng quân Lý Long Tường dẫu tuổi cao sức yếu nhưng vẫn lên đó ngóng trông về phương Nam mà khóc. Vì thế, ngọn núi mang tên "Vọng Quốc Đàn" hay "Vọng Cố Hương". Có lẽ kế thừa tình cảm yêu quê hương da diết từ vị tổ Lý Long Tường, mà các thế hệ con cháu họ Lý Hoa Sơn luôn hướng về quê cha đất tổ. Ngày nay trên đại lộ từ phi trường Gimpo về thủ đô Seoul, du khách được chiêm ngưỡng pho tượng Bạch Mã Tướng Công do chính phủ Hàn Quốc xây dựng từ thập niên 1960. Dù là vương của xứ người nhưng trong ông nỗi nhớ quê hương lúc nào cũng trong lòng. Gia tộc truyền thừa 800 năm, nhân tài lớp lớp Lý Long Tường có hai người con trai trên đất Cao Ly, sau này đều làm quan cho triều đình. Hậu duệ của Lý Long Tường là một danh gia vọng tộc ở Hàn Quốc, từng nhiều đời làm quan to trong triều, được ca ngợi là những người trung nghĩa. Khi triều đại ở Cao Ly thay đổi, trong họ có hai vị hiền sĩ về quê quy ẩn, không ra làm quan với triều đại mới, giữ lòng trung với vua cũ, được sử sách Cao Ly ngợi khen là tiết liệt. Đặc biệt trong dòng họ có Tổng thống Lý Thừa Vãn – vị Tổng thống đầu tiên của Đại Hàn Dân Quốc. Trong chuyến viếng thăm Sài Gòn ngày 6/11/1958 ông đã nói: "Tổ tiên tôi là người Việt Nam đấy". Câu nói này hồi đó được báo chí Sài Gòn đăng tải rầm rộ trên trang nhất. Ông chính là cháu đời thứ 25 của Lý Long Tường. Gia phả của họ Lý Hoa Sơn lại chia làm hai nhánh rẽ. Trải qua cuộc chiến Triều Tiên năm 1950 – 1953, một nhánh đi từ Hoa Sơn xuống Hàn Quốc ngày nay, định cư tại vùng Andong và BongHwa (gần thành phố DaeGu) có khoảng 4.000 người. Nhánh còn lại ở Bắc Triều Tiên còn khoảng 1.500 hộ. "Bao giờ rừng Báng hết cây, Tào khê hết nước, Lý nay lại về" Lời sấm truyền hàng trăm năm đã được ứng nghiệm sau 768 năm kể từ ngày Lý Long Tường đặt chân lên Cao Ly. Rừng Báng giờ đã thành đồng ruộng xanh ngắt, ngòi Tào Khê giờ cạn trơ không còn nữa, cũng đã đến lúc những cánh chim xa quê được quay trở về với quê cha đất Tổ. Ngày 18/5/1994, Lý Xương Căn – hậu duệ đời thứ 31 chính là người họ Lý đầu tiên làm được "sứ mệnh tổ tiên" – đã làm lễ cúng bái tổ tiên ở nơi thờ cúng 8 vị vua nhà Lý – ở TX. Từ Sơn, Bắc Ninh. Năm 2000, ông Lý Xương Căn đã đưa cả gia đình gồm cụ thân sinh (Lý Khánh Huân), vợ và 3 con về Hà Nội sinh sống. Cậu con trai út sinh ra vào năm ông về thăm quê nên đặt tên là Lý Quốc Việt. Ngoài gia đình ông Lý Xương Căn, một hậu duệ khác nổi tiếng tại Seoul là ông Lý Hy Luận (Chủ tịch cộng đồng họ Lý xuất thân từ Hoa Sơn), cựu Tổng giám đốc Tập đoàn xây dựng lớn Booyoung lẫn tham gia Tập đoàn công nghiệp chế tạo Hyundai cũng có nhiều đóng góp xây dựng kinh tế ở Việt Nam. Năm 2003, Chủ tịch tập đoàn tài chính Golden Bridge (tức Cầu Vàng) Lý Tường Tuấn, một hậu duệ của Lý Long Tường sang Việt Nam, về đền Đô bái yết tổ tiên. Năm 2006, ông thành lập văn phòng đại diện ở Hà Nội. Năm 2008 ông được vinh danh là một trong những nhà tài trợ lớn nhất của châu Á. Quang cảnh Đền Đô ngày nay. (Ảnh: Wikipedia) Lời kết: Dân gian có câu: "Phúc đức tại mẫu", họ Lý Hoa Sơn thịnh vượng suốt 800 năm cũng là có lý do của nó. Triều Lý lập quốc trong lúc nước nhà rối ren nhưng Thái Tổ vẫn quyết dời đô ra Thăng Long, xác lập nền đại thống cho ngàn đời sau. Dẫu quốc gia còn nhiều khó khăn, các đời vua Lý từ cha đến con vẫn cai trị hết sức nhân từ và tận tâm, ngoài ra còn ra sức hoằng dương Chính Pháp, dùng đức hạnh của bản thân mình làm gương cho thiên hạ, chính tín Thần Phật, sống đời đạo đức, khiến cho ngàn vạn dân được ấm no an lạc, nhà nhà sống cuộc đời yên vui. Nền tảng mà họ Lý đã gây dựng ấy, đến ngày nay dân ta vẫn còn phải nhớ ơn. Đức hạnh của họ đâu chỉ ban ân cho con dân Đại Việt, chỉ một người cháu 7 đời của Thái Tổ cũng khiến cho toàn dân Cao Ly được phúc khỏi xâm lăng, lại còn dạy dỗ cho binh lính và vua quan được khai sáng tâm trí cả văn lẫn võ. Ai đã dùng bản thân mình làm gương, 80 tuổi vẫn xông pha nơi tiền tuyến? Ai cả đời thờ vua cúc cung tận tụy không màng phú quý vinh hoa, đến chết vẫn không lúc nào quên hình ảnh quê nhà? Chính lối sống, đạo đức và tâm nguyện xuyên suốt từ Thái Tổ đến Long Tường mà ghi dấu son cho Lý Triều cũng như tạo nên phúc ấm suốt 800 năm đằng đẵng cho Hoa Sơn Lý Gia vậy. Hãy đọc câu lưu bút của hậu duệ đời thứ 31 khi lần đầu tiên về Việt Nam, chúng ta sẽ cảm nhận được tinh thần này của họ Lý và hiểu được nguyên do hưng thịnh lâu dài của họ. "Cháu chắt xin thề nguyện không làm điều gì tổn thương đến vong linh tổ tiên bằng cả tinh thần và sứ mệnh đặc biệt" – lưu bút của ông Lý Xương Căn (Chủ tịch Ủy ban Người họ Lý gốc Việt ở Hàn Quốc) ghi trong sổ lưu niệm tại đền Lý Bát Đế năm 1994. Tĩnh Thủy