

Đề tài: Yếu tố lỗi trong xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015
MÔN: LUẬT DÂN SỰ
MÔN: LUẬT DÂN SỰ
ĐẠI HỌC KIẾM SÁT HÀ NỘI
A. MỞ ĐẦU
Hiện nay, những vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng xảy ra nhiều và ngày càng phức tạp hơn. Vì thế pháp luật dân sự Việt Nam cũng đã hoàn thiện, qua đó đưa ra các chế tài giải quyết cho phù hợp đảm bảo quyền lợi cho các bên khi xảy ra trường hợp vi phạm gây thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuỳ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội cũng như các vụ việc xảy ra trên thực tế mà những quy định về chế định đã có sự thay đổi phù hợp.
Lỗi là một trong những yếu tố có vai trò quan trọng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bộ Luật dân sự 2015 có quy định mới về lỗi so với Bộ luật dân sự 2005. Qua những thay đổi đó, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có sự thay đổi như thế nào về lý luận và trên thực tiễn. Vì thế, em xin chọn đề số 22: "Yếu tố lỗi trong xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015" để hoàn thiện bài tiểu luận của mình.
B. NỘI DUNG
I. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1. Khái niệm
Bộ luật dân sự 2015 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: "Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác" (Khoản 1 Điều 584). Có thể hiểu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự theo đó, người vi phạm nghĩa vụ pháp lý gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra mà giữa người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại và người bị thiệt hại không có việc giao kết hợp đồng hoặc có hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc hành vi thực hiện hợp đồng.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 584 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
"1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này."
Từ quy định trên, ta có thể rút ra các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sau:
Thứ nhất, có thiệt hại xảy ra. Xét về trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có sự thiệt hại về tài sản (thiệt hại về tư liệu sẩn xuất, thiệt hại về vật nuôi cây trồng), thiệt hại về tính mạng, quyền nhân thân bị xâm phạm. Thiệt hại có thể được hiểu là sự giảm bớt những lợi ích vật chất và phi vật chất của một chủ thể xác định được trên thực tế bằng một khoản tiền cụ thể. Việc xác định thiệt đúng thiệt hại là việc quan trọng và cần thiết trong việc xác định trách nhiệm bồi thường và phạm vi bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, hành vi gây thiệt hại được xác định là hành vi trái pháp luật. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hành vi trái pháp luật ở đây là việc chủ thể gây thiệt hại thực hiện hành vi mà pháp luật cấm. Nó có thể thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Hành động gây thiệt hại của chủ thể có thể là tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến đối tượng. Có những hành vi mặc dù gây thiệt hại nhưng hành vi đó không bị coi là trái pháp luật thì không phải bồi thường thiệt hại như: Do yêu cầu của nghề nghiệp phải gây thiệt hại, phòng vệ chính đáng, do sự kiện bất ngờ, quyết định của Tòa án..
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Theo đó, thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật gây ra và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Như vậy, nguyên nhân bao giờ cũng làm phát sinh một hoặc nhiều kết quả.
Khác với Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật dân sự 2015 không đề cập đến yếu tố lỗi trong căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Hiện nay có hai quan điểm về vấn đề này.
- Quan điểm thứ nhất, lỗi của người gây thiệt hại vẫn là một trong những điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
- Quan điểm thứ hai, lỗi của người gây thiệt hại không phải là một trong những điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trong bài này, tôi triển khai bài viết theo quan điểm thứ hai. Vì theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 việc không đề cập yếu tố lỗi là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhằm không đặt nặng trách nhiệm chứng minh lỗi lên người bị thiệt hại. Yếu tố lỗi là căn cứ để xác định mức bồi thường của người gây thiệt hại.
3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 585 Bộ luật dân sự 2015, theo đó việc bồi thường thiệt hại được thực hiện theo các nguyên tắc sau.
Thứ nhất, thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Người có hành vi gây thiệt hại phải bồi thường tất cả thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra, mà không được giảm mức bồi thường. Thiệt hại thực tế là những thiệt hại xảy ra và tồn tại khách quan, thiệt hại phải được xác định trên thực tế. Việc bồi thường thiệt hại phải được thực hiện kịp thời nhằm khôi phục thiệt hại cho bên bị thiệt hại. Tuy nhiên, trên thực tế có những thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế hiện tại của người gây ra thiệt hại không thể thực hiện bồi thường toàn bộ tại một thời điểm, mà cần phải có thời gian để thực hiện việc bồi thường thiệt hại, vấn đề này có thể căn cứ vào thu nhập của người gây thiệt hại. Vì vậy việc áp dụng nguyên tắc này cần phải phù hợp với thực tế.
Thứ hai, bồi thường thấp hơn thiệt hại. Người gây thiệt hại trong trường hợp không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình thì có thể được giảm mức bồi thường thiệt hại. Việc giảm mức bồi thường thiệt hại được giảm một phần do tòa án xác định, vì thế việc giảm mức bồi thường này không dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại mà phải theo quyết định của Tòa án. Nguyên tắc này không áp dụng đối với người gây thiệt hại với lỗi cố ý.
Thứ ba, thay đổi mức bồi thường thiệt hại. Theo đó, trong trường hợp mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế (không còn phù hợp với thực tế có thể là do có sự thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức bồi thường đang được thực hiện không còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc do có sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại cho nên mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với sự thay đổi đó hoặc do có sự thay đổi về khả năng kinh tế của người gây thiệt hại) thì khi đó một trong các bên có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường. Trường hợp có yêu cầu thay đổi mức bồi thường thiệt hại từ các bên liên quan thì Tòa án phải xác định lại mức bồi thường thiệt hại một cách đúng đắn, hợp lý nhất.
- Bên bị thiệt hại có căn cứ chứng minh rằng mức thiệt hại trên thực tế của mình là lớn hơn so với mức mà bên gây thiệt hại bồi thường mà Tòa án đã tuyên.
- Bên gây thiệt hại có căn cứ chứng minh rằng mức bồi thường thiệt hại của mình cho bên bị thiệt hại là lớn hơn thiệt hại thực tế do mình gây ra cho bên bị thiệt hại mà Tòa án đã tuyên.
Thứ tư, khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra. Nguyên tắc này áp dụng trong trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt đều có lỗi đối với một thiệt hại cụ thể. Theo lẽ công bằng thì gây thiệt hại đến đâu thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đến đó, nhưng trong nhiều trường hợp bên bị thiệt hại lại là bên có phần lỗi do mình gây ra dẫn đến thiệt hại. Trong trường hợp này, theo nguyên tắc trên thì bên bị thiệt hại sẽ không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra, bên gây thiệt hại chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình.
Cuối cùng, bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình. Trong thực tế nguyên tắc trên thường được sử dụng trong trường hợp liên quan đến nhà cửa, các công trình xây dựng, súc vật, cây cối, nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Nguyên tắc này căn cứ vào ý thức chủ động của người trước khi bị gây thiệt hại nhưng người này không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại thì không được bồi thường.