Bong Bóng Lên Trời - Nguyễn Nhật Ánh

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Cute pikachu, 26 Tháng mười một 2021.

  1. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Tác phẩm: Bong bóng lên trời

    Tác giả: Nguyễn Nhật Ánh

    Thể loại: Truyện dài

    Số chương: 29


    [​IMG]

    Giới thiệu sách

    "Bong bóng lên trời" là một trong những truyện dài tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Nội dung cuốn sách kể về câu chuyện của cậu học trò nhỏ tên Thường. Vì hoàn cảnh, Thường phải giúp mẹ bằng nghề bán kẹo kéo ngoài giờ học và làm quen với cuộc sống trên đường phố. Từng câu chuyện nho nhỏ, từng lời văn trong sáng của ông đã nhẹ nhàng chạm đến trái tim người đọc, giúp chúng ta tin hơn vào những câu chuyện cổ tích giữa đời thường.

    Truyện Bong bóng lên trời đã được chuyển thể thành bộ phim truyền hình. Phim gây xúc động khi thể hiện bằng hình ảnh thành công câu chuyện tuyệt vời về lòng hiếu thảo, tình bạn, tình người..
     
    Aquafina thích bài này.
  2. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 1

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Lúc xảy ra sự cố, đồng hồ chỉ bảy giờ hai mươi lăm. Đó là giờ thành phố bắt đầu rộn rịp. Những bậc cha mẹ tất tả đưa con đến trường để kịp tới công sở. Những học sinh cấp ba đi trễ đang nôn nóng nhìn đèn đỏ ở các ngã tư. Những bà nội trợ lật đật xách giỏ ra khỏi nhà để mong chọn được những khúc cá tươi nhất.

    Các hàng quán dọc hai bên đường mở cửa từ sớm bây giờ tấp nập người ra kẻ vào. Lề đường mọc lên các quán cóc, các xe hủ tiếu, bột chiên, bánh bao, các gánh xôi, cháo lòng và các tủ thuốc lá.

    Giữa không khí tất bật đó, cánh thợ hồ trông có vẽ nhàn nhã. Ba người đàn ông với thùng đồ nghề bên cạnh đang ngồi nhâm nhi cà phê sau khi chén đẫy mỗi người một tô hủ tiếu to tướng.

    - Thôi, tụi mình đi chứ!

    Cuối cùng, người đàn ông đứng tuổi trong bọn lên tiếng giục, sau khi uống một hơi cạn hết ly trà vừa mới rót. Vừa nói, ông vừa cuối xuống ôm thùng đồ nghề đặt dưới chân trong khi hai người kia lục tục đứng dậy kêu chủ quán tính tiền.

    Ngay vào lúc bà chủ quán còn đang mấp máy tính nhẩm trong miệng, từ cửa hàng bên cạnh đột ngột vang lên những tiếng kêu thất thanh:

    - Cướp! Cướp! Cứu tôi với!

    Ba người thợ hồ lật đật dòm sang. Trước cửa hàng bách hóa, một cô gái đang giằng co với một tên thanh niên. Cô vừa níu lấy cái chụp đèn sau của chiếc Honda Cub vừa la bài hãi trong khi tên kia cố sức giằng chiếc xe khỏi tay cô.

    Khách đi đường đứng cả lại. Hai người lao tới tên cướp nhưng chưa kịp can thiệp đã phải vội tháo lui. Không biết từ lúc nào trên tay tên cướp đã xuất hiện một khẩu súng ngắn. Hắn chĩa lăm lăm vào mọi người, giọng đe dọa:

    - Lùi ra! Đứa nào nhào vô, tao bắn!

    Rồi như để nhanh chóng thoát khỏi tình thế bất lợi này, hắn co chân đạp một phát, cô gái bắn ra xa.

    Nhưng trước khi tên cướp kịp lên xe phóng đi, người thợ hồ đứng tuổi đã lặng lẽ tiến lại. Hai người bạn tái mặt, kêu khẽ:

    - Anh Phong! Coi chừng!

    Người đàn ông tên Phong không nói không rằng. Ông tiếp tục lù lù tiến đến sau lưng tên cướp. Và bất thần, ông vung tay ra. Thùng đồ nghề trên tay ông bay vèo một cái, đập trúng cánh tay tên cướp. Khẩu súng trên tay hắn rụng xuống đất đánh "bộp".

    Trong khi tên cướp còn chưa hiểu ra chuyện gì, ông Phong đã nhanh tay chộp một chiếc ghế trên lề đường, xong tới quật túi bụi. Tên cướp một tay đỡ đòn, tay kia vẫn nắm chặt ghiđdông xe, đôi mắt láo liên tìm cách vọt đi.

    Ông Phong ra tay đột ngột đến mức những người chung quang đều sững sờ. Và sau giây phút bàng hoàng, mọi người liền hò reo xông vào trợ lực.

    Hai người thợ hồ bạn ông vừa kịp chạy tới, bỗng một tiếng quát đanh gọn vang lên:

    - Đứng im!

    Tên cướp thứ hai thình lình xuất hiện với khẩu súng trên tay. Hóa ra nãy giờ hắn vẫn ngồi thu mình trên chiếc Honda 67 đậu sát lề đường. Tên đồng bọn có lẽ không định xuất đầu lộ diện nhưng tình thế bắt buộc hắn phải can thiệp.

    Tiếng quát sắc nhọn, đầy đe dọa cộng với khẩu súng lăm lăm sẵn sàng nhả đạn khiến vòng người lật đật dạt ra. Vài kẻ nhát gan vội vã chuồn đi chỗ khác vì sợ đạn lạc. Hai người thợ hồ cũng hấp tấp thối lụi Tên cướp lập tức quay nòng súng về phía ông Phong lúc này vẫn đang tìm cách áp đảo tên cướp thứ nhất. Hắn nghiến răng:

    - Tên kia! Dang ra! Nếu không, tao bắn!

    Ông Phong vẫn phớt lờ. Ông giơ cao chiếc ghế tiếp tục quật những cú như trời giáng lên cánh tay cầm xe của tên cướp.

    - Nằm xuống!

    Tên cướp cầm súng hét lên.

    Tên đồng bọn lập tức lăn người xuống mặt đường. Cùng lúc, hai người thợ hồ và cô gái chủ xe la lên thất thanh:

    - Anh Phong, coi chừng!

    - Bác ơi, nằm xuống!

    Nhưng ông Phong chưa kịp phản ứng thì những tiếng súng đã vang lên chói tai:

    - Đoàng! Đoàng!

    Hai viên đạn xói thẳng vào ngực khiến ông Phong đổ vật xuống như một thân cây bị đốn gốc.

    Thảm cảnh trước mặt khiến mọi người kinh hoàng nhốn nháo nhưng không ai dám chạy lại. Chỉ đến khi hai tên cướp lên xe rú ga vọt thẳng, hai người thợ hồ mới tất tả chạy tới đỡ bạn dậy. Bấy giờ, những tiếng còi cảnh sát mới vang lên.
     
    Aquafina thích bài này.
  3. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 2

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đó là tất cả những gì Thường biết về cái chết của ba mình. Lúc ba bị nạn, anh đang ngồi trong lớp, đùa giỡn cùng bạn bè.

    Khi tiết học thứ hai bắt đầu được mười phút, bác bảo vệ chạy vào báo cho Thường biết có người nhà cần gặp. Sau khi xin phép cô giáo, Thường lật đật đi theo bác bảo vệ.

    Bắt gặp Nhi, em gái mình, đang đứng khóc thút thít trước cổng, lập tức Thường linh cảm có chuyện không may. Anh vội vàng nắm lấy vai em, lo âu hỏi:

    - Có chuyện gì vậy em? Sao em lại khóc?

    Nhi ngước nhìn anh và trả lời qua màn nước mắt:

    - Ba bị bắn.

    Thường tái mặt:

    - Bị bắn? Ai bắn?

    - Bọn cướp. Thường nghe tim mình như thót lại. Anh lại lay vai em:

    - Ba có sao không?

    - Em không biết! Nhi đáp trong tiếng nấc. Người ta chở ba đi bệnh viện rồi!

    Thường không hỏi nữa. Anh tức tốc quay vào trường lấy xe và vội vàng chở em tới bệnh viện. Anh đạp vội vã, quính quíu, mồ hôi đẫm cả lưng.

    Khi Thường lách vào, anh nhìn thấy hai người bạn của ba cùng một cô gái lạ mặt đang ngồi ủ rũ bên cạnh mẹ. Bà Tuệ, mắt đỏ hoe, thấy Thường tất tả chạy vào, bỗng òa lên khóc.

    Thường ôm vai mẹ, hốt hoảng:

    - Chuyện gì vậy mẹ? Ba đâu?

    Bà Tuệ gục đầu lên ngực con, khóc rấm rứt. Bà chưa kịp trả lời thì mọi người bỗng xôn xao. Họ dạt ra hai bên nhường chỗ cho những người mặt áo bờ-lu trắng khiêng ông Phong ra. Ông đã chết.

    Nghe tiếng ồn ào, Thường quay vội về phía cửa phòng cấp cứu. Vừa nhìn thấy thi hài của ba, anh kêu lên một tiếng và ngất xỉu trên tay mẹ.

    Khi Thường tỉnh lại, anh nhận ra mình đang nằm trên chiếc giường quen thuộc ở nhà. Bên cạnh anh vẫn là hai người thợ hồ và cô gái Thường bắt gặp nơi bệnh viện. Họ đang an ủi bà Tuệ và bé Nhi.

    Lúc Thường chỏi tay ngồi dậy, mọi người quay nhìn anh với vẻ ái ngại. Một người thợ hồ nói:

    - Cháu cứ nằm nghỉ đi!

    Thường như không nghe câu nói. Anh nhìn thẳng vào người bạn của ba mình, hỏi bằng giọng khàn khàn:

    - Sao ba cháu chết vậy bác?

    Biết không thể tránh né được, sau một thoáng ngập ngừng, người thợ hồ chậm rãi thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Giọng ông run run như chưa hết xúc động.

    - Ba cháu là một người tốt! Một người dũng cảm!

    Người thợ hồ buồn bã kết luận.

    Thường quay nhìn cô gái. Bây giờ anh mới biết cô ta là chủ nhân của chiếc xe và cũng là nạn nhân của bọn cướp. Cô ta là nạn nhân nhưng người chết lại là ba mình! Ý nghĩ đó khiến Thường cảm thấy đau đớn. Anh không trách cô gái nhưng nỗi đau của anh hiện lên trong ánh mắt cháy bỏng đến mức cô ta bất giác quay mặt đi. Tự nhiên cô gái cảm thấy cần phải làm một điều gì. Cô đã theo ông Phong vào tận bệnh viện. Rồi cô lại theo về đến đây. Suốt thời gian đó, lúc nào cô cũng cảm thấy mình như người có lỗi. Cô tưởng như chính mình là người gây ra tai họa cho gia đình tử tế này. Cảm giác đó khiến cô vô cùng ray rứt. Cô rất muốn làm một điều gì đó để giúp đỡ gia đình ân nhân. Nhưng lòng dạ đang rối như tơ vò, cô thật chẳng biết phải làm gì. Trong lúc đang bối rối, ánh mắt cô bất thần chạm phải hai chiếc nhẫn đang đeo trên tay. Ngay lập tức, một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu cô. Thoạt đầu, cô hơi đắn đo. Cô cảm thấy ý nghĩ của mình có vẻ gì đó như là sự gàn dở. Nhưng rồi chẳng nghĩ ra cách nào khác, vả lại cũng không đủ sức để nghĩ ngợi thêm, cô tặc lưỡi và ngại ngùng chạm tay vào vai bà Tuệ:

    - Thưa bác!

    Bà Tuệ ngước lên:

    - Gì đó cô?

    Cô gái lúng túng tháo hai chiếc nhẫn đang đeo trên tay và rụt rè đặt vào tay bà Tuệ:

    - Bác cầm cái này để lo cho bác trai. Đây là tấm lòng của cháu.

    Bà Tuệ khẽ lắc đầu:

    - Tôi không nhận đâu! Tôi rất cảm ơn cô nhưng cô hãy cầm về đi!

    Cô gái khẩn khoản:

    - Bác nhận đi mà! Chính vì cháu mà bác trai gặp chuyện không may. Nếu bác không cho cháu chia sẻ phần nào, cháu sẽ rất áy náy.

    Bà Tuệ không trả lời cô gái. Bà thở dài và chậm chạp nhìn ra cửa. Trong mắt bà, khung cửa bỗng trở nên rộng mênh mông. Bởi vì kể từ nay, chồng bà sẽ không bao giờ đặt chân qua ngưỡng cửa đó nữa. Bà sẽ không bao giờ còn nhìn thấy ông mệt mỏi trở về nhà sau một ngày lao động vất vả, tay chân dính đầy vôi vữa nhưng nụ cười tươi tắn và hiền lành vẫn luôn nở trên môi. Bà cũng sẽ không bao giờ thấy lại cảnh bé Nhi lục tung các túi áo túi quần của ba nó mỗi khi ông đi làm về để tìm cho bằng được gói kẹo ông giấu ở đâu đó trong người rồi hớn hở reo lên "A, đây rồi! Con tìm thấy rồi". Không, không còn gì nữa, kể từ hôm nay ông đã đi xa..

    - Thưa bác..

    Tiếng cô gái lại ngập ngừng vang lên bên tai. Bà Tuệ khẽ chép miệng. Bà thì thầm như nói với chính mình:

    - Ông ấy là một người tốt. Những gì cần làm thì ông ấy đã làm. Ông ấy không cần đền đáp.

    - Nhưng thưa bác..

    Bà Tuệ không để cô gái nói hết câu. Bà cầm lấy tay cô, trầm giọng:

    - Tôi cảm ơn cô. Tấm lòng của cô, tôi hiểu. Nhưng tôi đã nói rồi. Cô cầm về đi. Con người chẳng ai biết trước được chuyện sống chết, cô chẳng nên áy náy làm gì.

    Trước thái độ dứt khoát của bà Tuệ, cô gái biết chẳng thể nài nỉ được nữa. Cô đứng dậy ấp úng cáo từ và chậm chạp tiến ra cửa bằng những bước chân lặng lẽ, nặng nề và đầy phiền muộn.

    Tối đó, trước lúc đi ngủ, bà Tuệ nghiêm nghị nói với hai con:

    - Kể từ hôm nay, chỉ còn ba mẹ con mình với nhau. Chúng ta phải nương tựa, và giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống..

    Cố nén xúc động để nói năng ôn tồn, khúc chiết, bà muốn làm gương cho các con về sự trầm tĩnh. Nhưng bà không thể nào trình bày hết những suy nghĩ của mình. Đang nói nửa chừng, chợt bắt gặp ánh mắt thẫn thờ ngơ ngác của Thường và Nhi, bà bổng thấy nghẹn nơi cổ và lập tức bật lên tiếng nấc. Thường và Nhi liền òa lên khóc theo.
     
    Aquafina thích bài này.
  4. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 3

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Từ ngày ông Phong đột ngột mất đi, mẹ con Thường bỗng trở nên khốn đốn. Lúc ông còn sống, gia đình Thường vốn đã chẳng dư dả gì. Ông làm thợ hồ, công việc lúc có lúc không. Có khi cả tháng trời rỗi việc, ông phải nằm nhà ăn bám vào đồng lương còm cõi của vợ. Nhưng dù vậy, những đóng góp dù chẳng nhiều nhặn gì của ông cũng giúp gia đình không lâm vào cảnh ngặt nghèo, quẫn bách.

    Bà Tuệ dạy toán ở một trường cấp ba. Thời trẻ, bà học Sư phạm. Tốt nghiệp ra trường, đi dạy được một năm thì bà xin nghỉ vì lý do sức khỏẹ Sau đó, bà xin vào làm thư ký đánh máy trong một công ty xây dựng. Tại đây, bà quen ông Phong, một người thợ giỏi, phụ trách một tổ xây lắp.

    Một tháng trước khi bà và ông Phong cưới nhau, ông bị cho nghỉ việc trong một đợt giảm biên chế sau khi quyết liệt bênh vực cho một công nhân trong tổ bị sa thải một cách mờ ám. Từ đó, ông Phong trở thành mội người thợ làm thuê.

    Buồn phiền về hoàn cảnh của chồng, lại vừa sinh Thường, bà Tuệ rời bỏ công ty xây dựng để làm đơn xin đi dạy lại. Bà trở lại với nghề dạy học một phần vì đó là nghề bà yêu thích, phần khác với thời giờ của một nhà giáo, bà có được một buổi ở nhà để vừa soạn giáo án vừa chăm sóc con cái.

    Khi Thường được năm tuổi, bà sinh bé Nhi. Với đứa con thứ hai, bà vẫn tiếp tục từ chối đi dạy thêm buổi chiều theo lời rủ rê của các đồng nghiệp tốt bụng chỉ để được gần gũi dạy dỗ và giúp đỡ con cái. Đối với bà, con cái phải được chăm sóc tỉ mỉ và chu đáo. Bà mong mỏi nếu Thường và Nhi không tạo dựng được sự nghiệp gì lớn lao mai sau thì ít ra cũng trở thành những công dân lương thiện. Như ba của chúng.

    Từ trước đến nay, bà Tuệ vẫn sống trung thành với quan niệm của mình. Cuộc sống đạm bạc, đôi lúc khó khăn, nhưng thanh thản. Nhưng từ ngày ông Phong mất đi, ba mẹ con lâm vào cảnh ngặt nghèo. Tiền bạc túng thiếu, cơm ăn phải chạy từng bữa, gánh nặng trước đây hai người cùng gánh bây giờ đè nặng trên đôi vai mệt mỏi của bà.

    Cuối cùng, không còn cách nào khác, bà Tuệ đành nhận lời đi dạy thêm các lớp học tư vào mỗi buổi chiều. Rồi một thời gian sau, bà lại nhận dạy thêm các lớp bổ túc văn hóa ban đêm. Cũng may là Thường và Nhi đều đã lớn, Thường mười bảy tuổi, học lớp mười một, Nhi mười hai tuổi, học lớp sáu; hai anh em lại cùng đi học buổi sáng, do đó vào buổi chiều và buổi tối bà vắng nhà, Thường và Nhi có thể trông nom lẫn nhau. Điều đó có làm bà Tuệ yên tâm phần nào, nhưng giữa những cơn ho húng hắng giữa đêm khuya, bà luôn chạnh lòng tự nhủ: Ta chỉ đi dạy thêm một thời gian thôi, chừng nào cuộc sống đỡ vất vả hơn, ta sẽ lại ở nhà chăm sóc chúng nó!

    Những lúc trằn trọc như vậy, bà Tuệ cảm thấy như mình có lỗi với các con. Nhưng biết làm sao hơn khi cuộc sống bươn chải không cho phép bà gần gũi Thường và Nhi như trước. Nhiều đêm nằm thao thức một mình, bà lại nhớ đến ông Phong. Và âm thầm bật khóc.
     
    Aquafina thích bài này.
  5. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 4

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nhi còn nhỏ nên không nghĩ nhiều đến nỗi cực nhọc của mẹ, mặc dù Nhi cảm nhận được sự lo toan tất bật của mẹ từ ngày ba qua đời. Chỉ có Thường là lộ vẻ lo âu trước công việc ngập đầu và sức khỏe ngày càng suy yếu của bà Tuệ.

    Anh biết sức mẹ vốn yếu, lại bị viêm phế quản kinh niên, để đeo bám nghề dạy học mẹ phải cố gắng rất nhiều. Nhưng trước đây mẹ chỉ dạy một buổi, mọi việc dù sao cũng chưa đến nỗi nào. Chỉ từ khi mẹ phải dạy thêm buổi chiều rồi buổi tối, tình trạng sức khỏe của mẹ ngày càng xấu đi.

    Những tối bà Tuệ phải thức khuya chấm bài, Thường trằn trọc không sao ngủ được. Anh leo lên giường giả vờ nhắm mắt để mẹ khỏi lo. Nhưng khi đèn tắt, cặp mắt Thường lại mở thao láo. Anh nằm lắng tai nghe ngóng và mỗi tiếng ho khúc khắc của mẹ từ nhà ngoài vọng vào đều khiến anh bồn chồn lo lắng.

    Bà Tuệ dạy môn toán nên phần bài tập khá nhiều. Dạo này, tối nào bà cũng thức chấm bài đến khuya. Sáng, năm giờ bà lại phải thức dậy chấm tiếp để kịp trả bài cho học trò. Thường lặng lẽ theo dõi công việc nặng nhọc của mẹ với một tâm trạng bất lực.

    Đã nhiều lần Thường muốn làm một điều gì đó để giúp đỡ mẹ. Ba mất, Thường là người đàn ông duy nhất trong gia đình, anh cảm thấy phải có bổn phận chia sớt một phần gánh nặng với mẹ. Nhưng anh lại chẳng thể làm gì.

    Thường đã đến những trung tâm dịch vụ, những nơi giới thiệu việc làm. Nhưng anh lẳng lặng đến để rồi lẳng lặng ra về. Không có nghề chuyên môn, Thường chẳng thể xin việc bất cứ nơi đâu. Vả lại, nếu một nơi nào đó đồng ý nhận một người không nghề nghiệp, họ lại chọn những cô gái "có ngoại hình đẹp" thay vì chọn Thường.

    Không nản, Thường lại tiếp tục dò tìm ở những mục "rao vặt, cần người" trên các báo. Anh hớn hở và vội vã chạy như bay đến những địa chỉ cần người dạy kèm. Nhưng lần nào cũng như lần nào, những lời từ chối lịch sự của chủ nhà buộc Thường đành lủi thủi ra về. Những bậc cha mẹ thường tin tưởng vào trình độ của một sinh viên hơn là một học sinh lớp mười một như Thường.

    Trong lúc hoàn toàn tuyệt vọng với ý định giúp đỡ mẹ, Thường bỗng sực nhớ đến câu chuyện về chú bé viết thuê xứ Florence trong cuốn "Tâm hồn cao thượng". Tuy đọc đã khá lâu, đến bây giờ Thường vẫn nhớ như in những chi tiết cảm động của câu chuyện. Một người cha già, để kiếm thêm tiền nuôi gia đình, phải nhận việc chép tên và địa chỉ những người mua sách báo dài hạn cho một nhà xuất bản nọ. Đêm đêm phải thức viết, sức khỏe ông càng ngày càng mòn mỏi. Người con muốn giúp đỡ cha, cứ đợi đến khuya khi cha đã mệt mỏi lê bước vào phòng ngủ, liền rón rén leo xuống khỏi giường và lần vào phòng làm việc của cha để lặng lẽ viết thay cho cha bằng những nét chữ bắt chước y hệt. Ngày tháng trôi qua, trong lúc người cha vui mừng vì tốc độ công việc tăng lên, tiền kiếm được khá hơn thì người con lại đâm ra uể oải, lơ đễnh trong học tập vì thiếu ngủ. Và tất nhiên, cậu thoạt tiên bị cha trách móc, sau đó là quở mắng và cuối cùng bị cha thờ ơ ghẻ lạnh. Tuy rất đau khổ, cậu bé vẫn âm thầm chịu đựng và tự an ủi dù sao hành động bí mật của mình cũng giúp cha cậu vui thích với ý nghĩ rằng ông vẫn còn khỏe mạnh. Chỉ đến khi, vào một đêm nọ, cậu sơ ý chạm tay vào một cuốn sách làm nó rơi xuống đất khiến cha cậu giật mình tỉnh giấc và tò mò vào phòng, chỉ đến lúc đó, bắt gặp cậu đang tập trung đầu óc say sưa viết hết mảnh giấy này đến mảnh giấy khác, ông mới chợt hiểu tấm lòng đẹp đẽ và nỗi oan ức đáng thương của con mình..

    Cậu chuyện đột nhiên trở về trong trí nhớ khiến Thường suy nghĩ miên man. Hay là mình bắt chước cậu bé nọ âm thầm giúp đỡ mẹ, Thường nhủ bụng. Nhưng khác với nhân vật trong truyện, mình sẽ cố gắng học tập tốt để mẹ khỏi buồn phiền, lo lắng. Tất nhiên mẹ sẽ không hay biết. Sau những lúc thức khuya chấm bài, bao giờ mẹ cũng ngủ rất say. Mẹ sẽ không biết gì hết.

    Ý định thoạt đầu còn phân vân, nhưng những tiếng ho húng hắng của mẹ đã nhanh chóng thôi thúc Thường hành động. Tối đó, anh nằm thao thức, dỏng tai nghe ngóng. Đợi cho bà Tuệ mệt mỏi rời bàn vào phòng ngủ, anh sè sẹ leo xuống khỏi giường và lần bước ra phòng ngoài. Không dám bật điện vì sợ gây chú ý, Thường lặng lẽ thắp cây đèn dầu đặt trên đầu tủ rồi cầm cây đèn tù mù trên tay, anh hồi hộp tiến lại bàn làm việc của mẹ.

    Thường rón rén ngồi vào bàn và bắt đầu xem xét xấp bài truớc mặt một cách thận trọng. Đọc qua đề toán, Thường thở phào khi nhận ra đó là bài tập đại số lớp mười. Anh nhanh chóng hình dung ra cách giải và cẩn thận lần giở những bài tập mẹ đã chấm, xem xét và ghi nhớ kỹ lưỡng cách cho điểm và sửa lỗi trên từng bài.

    Sau đó, Thường thu hết can đảm cầm lên cây viết đỏ trên bàn và bắt đầu chấm tiếp xấp bài dang dở của mẹ. Anh nhủ bụng: Cũng may là mẹ dạy toán, chứ nếu mẹ dạy văn, hẳn mình sẽ không dám bịa ra những lời phê trên bài tập của học sinh!

    Bà Tuệ đem về nhà hai xấp bài của hai lớp khác nhau. Một xấp chấm dở, xấp kia bà chưa đụng tới. Dĩ nhiên Thường không dám rớ vào xấp bài còn để trắng. Ngay xấp bài bà Tuệ đang chấm dở, Thường cũng không dám chấm hết. Làm như vậy, bà Tuệ sẽ phát hiện ngay. Chấm khoảng gần hai mươi bài, khi xấp bài đã vơi hơn phân nửa, Thường thở phào buông viết và loay hoay xếp tất cả lại cho ngay ngắn và đặt vào đúng vị trí cũ. Xong, anh tắt đèn, đem cất trên đầu tủ và nhón gót lần vào phòng ngủ.

    Thường đặt lưng xuống giường, người mệt mỏi, mắt díp lại nhưng chưa bao giờ anh thấy lòng thanh thản đến thế.
     
    Aquafina thích bài này.
  6. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 5

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hơn nửa tháng đã trôi qua kể từ ngày Thường quyết định hành động theo gương cậu bé xứ Florence. Thoạt đầu, Thường còn lo lắng, thấp thỏm nhưng rồi thấy mẹ chẳng phát giác ra, dần dần anh cảm thấy yên tâm. Và từng đêm, từng đêm, Thường vẫn lặng lẽ tiếp tục công việc của mình.

    Bà Tuệ quả chẳng hay biết gì. Bận rộn và mệt mỏi trước các buổi dạy kế tiếp nhau, lại không mảy may ngờ vực, chẳng bao giờ bà để ý cái bài tập mà bà tiếp tục chấm vào sáng sớm hôm sau có thực là đã nằm kế ngay theo cái bài tập bà đã kết thúc vào tối hôm trước hay không. Hơn nữa, khi chấm bài giúp mẹ, Thường đã cố gắng bắt chước y hệt phong cách của mẹ, từ phương pháp cho điểm đến cách viết những con số với những nét móc mềm mại, cả những dấu gạch chéo bên dưới những phép tính sai.

    Những ngày đó, Thường thật sự ngạc nhiên trước những cảm xúc kỳ lạ mà mình trải qua. Anh thấy dậy lên trong lòng một niềm vui lặng lẽ chưa từng biết. Mặc dù không đem lại cho mẹ những lợi ích vật chất cụ thể như cậu bé xứ Florence đã làm, nhưng Thường cũng nhận ra việc làm âm thầm của mình đã giúp mẹ có nhiều thời giờ hơn vào mỗi buổi sáng. Trước đây, sau khi thức dậy vào lúc năm giờ, bao giờ bà Tuệ cũng vội vã ngồi vào bàn và dán chặt mình ở đó, xem xét giáo án và tiếp tục chấm nốt các xấp bài cho kỳ hết để rồi chỉ kịp ăn uống qua loa trước khi lật đật ra khỏi nhà. Cũng có lúc, bài vở nhiều, bà vội vàng đến lớp mà chẳng có thời gian đụng đến chén cơm chiên Nhi đã đăt. Sẵn trên bàn, cạnh tay bà.

    Nhưng từ ngày Thường lén lút chia sớt một phần khối lượng công việc, bà Tuệ có tỏ ra thảnh thơi hơn chút đỉnh. Bà không còn bỏ bữa ăn sáng đạm bạc, điều thỉnh thoảng vẫn xảy ra trước đây. Thậm chí bà còn có được dăm mười phút ngắm mình trong gương, sửa lại mớ tóc rối hoặc bẻ lại cái cổ áo chưa được phẳng phiu, ngay ngắn, cũng như kịp dặn Nhi mặc thêm áo lạnh hoặc bảo Thường trưa đi học về ghé cửa hàng mua một món gia dụng lặt vặt nào đó.

    Dĩ nhiên bà Tuệ không chú ý, cũng không có thì giờ để chú ý, những giây phút thư thả hiếm hoi kia từ đâu ra. Công việc và trách nhiệm đối với gia đình đã cuốn lấy bà như một cái đĩa quay cuốn lấy dây xích. Chỉ trừ khi bà bị đứt tung vì quá sức chịu đựng, còn thì bà chỉ biết tất bật quay theo những vòng quay lạnh lùng và cố định, không có đủ sức lực và thời gian để ngạc nhiên về bất cứ điều gì.

    Thường là người hay lo nghĩ. Sự giáo dục nghiêm ngặt cũng như hoàn cảnh không may của gia đình đã tạo cho anh một tính cách như thế. Vì vậy, sự vô tâm của mẹ gây cho anh nhiều cảm giác trái ngược nhau. Vừa mừng vì không bị mẹ phát hiện, Thường vừa cảm thấy lo buồn vì điều đó quả thật trái với sự nhạy cảm xưa nay của mẹ. Anh hiểu nỗi lo toan cực nhọc đã khiến tâm trí mẹ chậm chạp hơn xưa. Càng nghĩ ngợi, Thường càng cảm thấy cần phải giúp đỡ mẹ và anh lại háo hức chờ đêm xuống để lẻn vào căn phòng làm việc thân thuộc, để thắp lên ngọn đèn dầu tù mù và ngồi đối diện hằng giờ với những bài tập chi chít những chữ số.

    Thỉnh thoảng, Thường cũng gặp khó khăn, nhất là khi anh phải ngồi trước những bài tập của lớp mười một, lớp Thường đang học. Có những điều anh chưa nắm vững, thậm chí có những điều anh chưa học qua. Những lúc ấy, Thường phải tập trung đầu óc xem kỹ những bài giải đúng nhất, những bài mẹ đã chấm qua và cho tới điểm mười để ghi nhớ cách giải tối ưu nhất.

    Mặc dù cẩn thận và chú tâm hết mức, đôi khi Thường không tránh khỏi nhầm lẫn, nhất là khi anh chấm những bài sau cùng, lúc mắt đã muốn díp lại mà lòng thì muốn nấn ná chấm thêm. Như mới đây, khi chấm các bài tập về giải bất phương trình mũ, không hiểu Thường trông gà hóa cuốc thế nào mà một bài giải đúng hoàn toàn lại bị anh cho điểm bốn.

    Có lẽ Thường sẽ không hay biết gì về sai sót của mình nếu tối đó trong bữa ăn bà Tuệ không than thở:

    - Lúc này mẹ bắt đầu lẩn thẩn rồi hay sao ấy! Một bài tập không thể nào chấm sai mà mẹ lại chấm sai! Đến khi học trò đứng dậy thắc mắc, mẹ mới biết!

    Rồi bà thở dài, buồn bã:

    - Trong đời dạy học, đây là lần đầu tiên mẹ bị học trò khiếu nại!

    Hôm đó bà Tuệ buông đũa sớm. Có lẽ nỗi bứt rứt khiến bà không cảm thấy ngon miệng. Trong lúc đó, Thường cố tỏ ra bình tĩnh. Nhưng anh và cơm mà miệng nhạt thếch. Vẻ khổ tâm của mẹ khiến lòng anh quặn thắt. Anh hiểu, không phải mẹ lẩn thẩn mà chính anh lẩn thẩn. Chính sự nhầm lẫn tại hại của anh đã làm mẹ dằn vặt. Anh không ngờ để giúp đỡ mẹ, vô tình anh đã làm mẹ buồn lòng.

    Tối đó, Thường nằm trằn trọc trên giường, lòng tràn ngập hối hận. Nửa khuya, anh thức dậy lần vào phòng làm việc của mẹ. Anh đến bên bàn với quyết tâm sẽ không để xảy ra sai sót lần thứ hai. Anh lại vớ lấy xấp bài trước mặt và lần này, trước khi hạ bút cho điểm, anh dò đi dò lại thật kỹ lưỡng.

    Nhưng không phải Thường muốn là được. Một tuần lễ sau, tai họa lại ập đến. Lần này mọi chuyện xuất phát từ môn hình học với một đề toán cực kỳ đơn giản về phương pháp xác định tâm hình cầu ngoại tiếp tứ diện. Thường không hiểu tại sao anh lại quờ quạng đến mức có thể cho điểm chín một bài tập gần như vẽ sai hoàn toàn.

    Sự vô ý của Thường dẫn đến việc lần thứ hai bà Tuệ bị học trò khiếu nại. Không phải nạn nhân may mắn của Thường khiếu nại mà là đứa ngồi cạnh. Bà Tuệ thuật lại tin đó trong bữa cơm và ngậm ngùi kết luận:

    - Mẹ lẩm cẩm thật rồi! Chỉ trong vòng một tuần lễ, mẹ đã nhầm lẫn đến hai lần, lại là những nhầm lẫn sơ đẳng nhất!

    Vẻ thất vọng hiện lên trên mặt mẹ khiến Thường ray rứt vô cùng. Anh hiểu mình đã mắc phải những sai sót khó thể tha thứ, những sai sót đã khiến mẹ đâm ra mất tự tin. Đã mấy lần, Thường định mở miệng thú thật hết mọi chuyện nhưng rồi anh cảm thấy ngần ngại. Nếu anh tiết lộ bí mật, hẳn anh chẳng còn dịp nào giúp đỡ mẹ. Chắc chắn mẹ sẽ không để cho anh tiếp tục hành động theo ý mình. Mẹ sẽ cấm. Và như vậy, anh sẽ lại tiếp tục chứng kiến sự tất bật, vội vàng của mẹ bằng ánh mắt lo âu và bất lực. Đang đắn đo nghĩ ngợi, Thường bỗng giật thót khi nghe mẹ thổ lộ:

    - Có lẽ mẹ xin nghỉ dạy. Mẹ không muốn tiếp tục đứng trên bục giảng khi học trò đã bắt đầu mất tin cậy nơi mẹ. Mẹ sẽ tìm một công việc khác..

    Thường không ngờ sự thể lại xoay ra như vậy. Những lời thú nhận chân thành và chua xót của mẹ khiến anh không còn một chọn lựa nào khác. Thường hốt hoảng kêu lên:

    - Không, không! Mẹ không thể nghỉ dạy!

    Bà Tuệ nhìn Thường bằng ánh mắt ngạc nhiên:

    - Sao vậy con? Sao lại không thể? Chẳng lẽ con muốn mẹ tiếp tục lên lớp và tiếp tục phạm phải những sai sót trước mặt học trò hay sao?

    - Không! Mẹ không sai sót! - Thường nói và anh nghe cổ mình như nghẹn lại - Chính con đã chấm những bài đó. Chính con đã chấm sai chứ không phải mẹ.

    Trong một thoáng, bà Tuệ chẳng hiểu Thường muốn nói gì. Bà ngơ ngác:

    - Con nói sao? Tại sao lại dính dáng đến con ở đây?

    - Tại vì con..

    - Con sao?

    Biết không thể giấu, sau một thoáng ngập ngừng, Thường thu hết can đảm rụt rè thú nhận hết mọi chuyện. Xúc động, áy náy, Thường chỉ thốt được từng tiếng một. Chưa bao giờ Thường cảm thấy khó khăn khi nói chuyện với mẹ như vậy. Bà Tuệ lặng im nghe, bất động, suy tư. Ngay cả khi Thường đã nói xong, bà cũng chẳng thốt một tiếng nào. Bà ngồi như hóa đá, chẳng biết nghĩ ngợi gì, chỉ thấy trên đôi mắt vốn nghiêm nghị, khắc khổ xưa nay những giọt lệ đang lặng lẽ ứa ra và chậm rãi lăn dài trên má.

    Mãi một hồi lâu, bà mới quay sang Thường và dịu dàng nói, giọng âu yếm xen lẫn trách móc:

    - Cảm ơn con. Cảm ơn con rất nhiều! - Bà hắng giọng và khẽ đưa tay chùi nước mắt - Nhưng dù sao mọi chuyện cũng phải chấm dứt kể từ hôm nay. Ở đời, mỗi người đều có một bổn phận. Con phải lo học tập. Đó là bổn phận của con, Thường ạ!

    - Dạ.

    Thường dạ khẽ và cảm thấy nhẹ nhõm như vừa cất được một gánh nặng trên người. Thế là mẹ không quở trách gì mình! Mẹ đã bỏ qua, không những thế, mẹ còn cảm ơn mình nữa! Mẹ thật tuyệt vời! Chỉ có điều từ nay mình chẳng còn mong gì chia sẻ nỗi vất vả của mẹ nữa. Mẹ sẽ lại bươn chải một mình. Mẹ sẽ gầy yếu. Tội nghiệp mẹ biết bao!
     
    Aquafina thích bài này.
  7. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 6

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Những ngày sau đó, Thường lại lang thang đi kiếm việc làm thêm. Mẹ bảo bổn phận của Thường là học tập. Thường cũng biết thế; nhưng anh lại không thể dửng dưng nhìn mẹ quần quật suốt ngày đêm. Anh tự nhủ: Mình đi làm thêm, nhưng mình sẽ cố gắng học tập tốt. Như vậy, hẳn mẹ sẽ chẳng buồn lòng vì mình.

    Nhưng Thường lại chẳng thể tìm việc ở bất cứ nơi đâu. Như những lần trước, anh rảo đến rã cẳng qua khắp các đường phố để rồi lại thất thểu lê gót về nhà, người mỏi nhừ, lòng ê chề, tuyệt vọng.

    Trong một lần lang thang vô vọng như thế, tình cờ Thường gặp chú Kiến, một người bạn trong cánh thợ hồ của ba trước đây.

    Thoạt tiên, Thường không nhận ra chú. Chú mặc một chiếc quần dạ cũ xì, với chiếc áo ca-rô bạc màu cũng cũ không kém. Chỉ có chiếc kê-pi in hàng chữ Afnor đội trên đầu là mới. Khi Thường gặp chú, chú đang dắt chiếc xe kẹo kéo đi ra từ một con hẻm nhỏ, với chiếc thùng gỗ giăng đầy những đèn màu chớp nháy và tiếng nhạc xập xình phát ra từ cặp loa tăng âm hết cỡ.

    Chú Kiến nhìn thấy Thường trước. Chú kêu:

    - Thường!

    Nghe tiếng kêu, Thường ngạc nhiên quay lại và sau khi chớp mắt hai, ba cái, Thường mới nhận ra người quen và mừng rỡ chạy lại:

    - Chú!

    Chú Kiến lau tay vào một miếng giẻ treo cạnh thùng gỗ rồi ôm chặt lấy vai Thường, vồn vã hỏi:

    - Cháu đi đâu đây? Sao, dạo này mẹ cháu khỏe không?

    - Dạ, mẹ cháu vẫn khỏe! - Thường liếm môi, ngập ngừng - Nhưng.. không thật khỏe lắm! Dạo này mẹ cháu phải đi dạy thêm buổi chiều và buổi tối..

    Chú Kiến chép miệng:

    - Chà, thế thì gay quá! Hẳn là mẹ cháu rất vất vả!

    Giọng chú Kiến bùi ngùi. Chú nắn nhẹ vai Thường:

    - Hai anh em cháu vẫn đi học đều đấy chứ?

    - Dạ, cháu và Nhi vẫn đi học bình thường.

    - Thế còn hôm nay cháu đi đâu đây?

    Chú Kiến nhắc lại câu hỏi khi nãy khiến Thường đột nhiên lúng túng. Anh ngập ngừng:

    - Dạ, cháu đi.. tìm việc làm.

    - Tìm việc làm? - Chú Kiến trố mắt - Cháu nói cháu vẫn còn đi học kia mà!

    Thường gãi đầu:

    - Cháu chỉ tìm việc làm thêm buổi chiều thôi. Cháu muốn giúp đỡ mẹ cháu.

    - Thì ra vậy! - Chú Kiến gật gù - Thế cháu đã tìm được việc gì chưa?

    Thường đỏ mặt:

    - Dạ chưa ạ! Cháu chẳng có nghề ngỗng gì nên chẳng nơi nào chịu nhận.

    - Gay go đấy! - Chú Kiến hắng giọng - Thời buổi này, có nghề chuyên môn kiếm việc làm đã khó, huống gì tay trơn như cháu! Hay là như thế này..

    Đang nói, chú Kiến bỗng ngừng bặt khiến Thường phải buộc miệng:

    - Sao ạ?

    Chú Kiến tỏ vẻ ngần ngại:

    - Ý chú muốn nói là nếu cháu không thấy ngại, cháu đi bán kẹo kéo với chú.

    Thường tròn mắt:

    - Đi bán kẹo kéo?

    - Cháu ngạc nhiên lắm sao? Một buổi đi học, một buổi đi bán kẹo kéo, giống như chú vừa làm thợ hồ vừa bán kẹo kéo vậy!

    - Nhưng cháu.. cháu.. - Thường khẽ liếc chiếc xe cồng kềnh, sặc sỡ của chú Kiến, giọng lúng túng - Cháu.. cũng không biết nữa!

    Dường như thông cảm tâm trạng của Thường, chú Kiến ôn tồn hỏi:

    - Cháu mắc cỡ phải không?

    Thường ngượng nghịu thú thật:

    - Dạ. Cháu sợ đi bán như thế này, ra đường con nít bu quanh, cháu mắc cỡ lắm.

    Chú Kiến vỗ vai Thường, trấn an:

    - Cháu đừng sợ. Chú không bảo cháu phải trang bị như chú đâu. Đi bán kẹo kéo, muốn được con nít bu quanh đâu có dễ. Phải có đèn xanh xanh đỏ đỏ, phải có dù nhiều màu, rồi phải mua chiếc cát-xét, cặp loa, thêm cái bình ắc-qui nữa, sắm tất cả tốn mấy trăm ngằn chứ đâu có ít. Cháu thì khỏi cần trang bị như vậy. Cháu khỏi cần phải đi rảo khắp các hang cùng ngõ hẻm như chú. Cháu chỉ cần sắm một cây kẹo, đèo trên xe đạp, chiều chiều tới bán trước cổng trường cấp một là được rồi.

    Hình ảnh nghề bán kẹo kéo "cố định" do chú Kiến vẽ ra quả thật không đến nỗi "khủng khiếp" như nghề bán kẹo kéo "di động" với đủ trò nổi đình nổi đám như Thường hằng thấy. Chở một cây kẹo kéo đến trước một cổng trường nào đấy, bán cho lũ trẻ con trước lúc vào học. Rồi kiếm một bóng mát ngồi đọc sách hoặc ôn bài chờ bọn trẻ ra chơi. Khi chúng vào lớp, lại ngồi đợi kẻng tan học để bán nốt khúc kẹo còn lại trước khi thanh thản đạp xe ra về. Nếu chỉ đơn giản và kín đáo như vậy Thường nghĩ mình có thể làm được. Dù sao thì cũng không còn cách nào khác, nếu mình muốn giúp đỡ mẹ. Vấn đề còn lại là vốn liếng. Thường nhìn chú Kiến, băn khoăn hỏi:

    - Để làm như chú nói, cháu cần phải có bao nhiêu tiền hả chú?

    - Nghề này vốn liếng chẳng bao nhiêu đâu! Cháu bán một buổi, chỉ cần một ký đường, một ký đậu, vài ống bột màu là đủ. Chừng mươi, mười lăm ngàn. Còn việc nấu đường rồi đánh thành kẹo, chú có thể làm giúp cháu được.

    Thường nhíu mày, lẩm bẩm:

    - Mươi, mười lăm ngàn..

    Quả thật số tiền này không phải là lớn, nhưng vẫn làm cho Thường băn khoăn. Trong tình cảnh hiện nay, anh khó mà xoay ra một món tiền như vậy. Xin mẹ thì Thường không dám. Nếu mẹ biết được Thường định đi bán kẹo kéo, chắc chắn mẹ sẽ rầy la và ngăn cản quyết liệt. Vả lại, chưa chắc mẹ đã có tiền. Nghĩ tới nghĩ lui một hồi, Thường vẫn chưa tính được kế gì.

    Nhìn vẻ mặt của Thường, chú Kiến biết ngay điều anh đang lo nghĩ. Chú cười nói:

    - Cháu đừng lo về chuyện tiền bạc. Chú sẽ cho cháu mượn vốn. Nhiều thì chú không có chứ mười lăm ngàn chú giúp cháu được. Nghề này coi vậy chứ cũng dễ ăn lắm. Một lời một mà!

    Nhiệt tình của chú Kiến khiến Thường vô cùng xúc động. Anh cầm chặt tay chú, giọng cảm kích:

    - Cảm ơn chú, chú tốt với cháu quá!

    Chú Kiến cười hiền lành:

    - Có gì đâu mà cháu phải cảm ơn! Chú là bạn của ba cháu, nay gia đình cháu gặp khó khăn, chú giúp cháu là chuyện bình thường mà!
     
    Aquafina thích bài này.
  8. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 7

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thế là, sau lần gặp gỡ tình cờ đó, Thường trở thành một anh chàng bán kẹo kéo. Theo yêu cầu của Thường, chú Kiến không hó hé chuyện này với bất cứ ai. Với bà Tuệ, lại càng giấu tiệt. Thường nói dối mẹ là anh mới tìm được chỗ dạy kèm. Khi anh hí hửng thông báo tin đó trong bữa ăn, thoạt đầu bà Tuệ tỏ vẻ không bằng lòng:

    - Lo cho gia đình là chuyện của mẹ! Chiều nào con cũng đi dạy kèm, thì giờ đâu mà học tập!

    - Con sắp xếp giờ giấc được mà!

    Bà Tuệ vẫn chưa yên tâm:

    - Sắp xếp là một chuyện! Nhưng lấy gì đảm bảo chất lượng học tập của con sẽ không bị ảnh hưởng?

    Thường mím môi:

    - Con hứa với mẹ điều đó! Sau một thời gian, mẹ cứ kiểm tra bài vở của con. Nếu việc dạy kèm quả thực làm con học kém đi, con sẽ bỏ dạy ngay!

    Nét mặt thành khẩn của Thường khiến bà Tuệ dịu lại. Nhưng bà vẫn cảm thấy lo lắng:

    - Thế còn sức khỏe của con?

    - Không sao đâu mẹ! - Thường nói với giọng quả quyết - Con biết giữ gìn sức khỏe mà! Hơn nữa, con kèm hoc. Trò lớp chín, chương trình cũng nhẹ, chỉ phải năm cuối cấp nên chiều nào cũng phải đi kèm mà thôi!

    Ánh mắt nài nỉ và lời lẽ khẩn thiết của Thường cuối cùng đã làm bà Tuệ xiêu lòng:

    - Thôi được! Nếu con đã nói vậy, mẹ cũng không cấm cản. Chỉ có điều, con đừng bao giờ quên những lời hứa của mình!

    Chỉ đợi có vậy, ngay chiều hôm sau, Thường lật đật phóng xe ra khỏi nhà. Anh đến thẳng nhà chú Kiến, như đã hẹn trước. Khi đi, Thường cố ý ăn vận tươm tất, ra dáng một ông thầy giáo đi dạy kèm. Trong cái túi xách cầm theo, bên cạnh những cuốn sách ghi trang, Thường đã nhét sẵn một bộ quần áo cũ. Tới nhà chú Kiến, Thường sẽ thay đồ ra và anh sẽ đi hành nghề trong bộ quần áo cũ kỹ kia. Chiều về, Thường lại ghé nhà chú Kiến để hóa trang một lần nữa trước khi trở về nhà.

    Chú Kiến đón Thường bằng ánh mắt vui vẻ. Chú chỉ cây kẹo gói trong tấm ny-lông đặt giữa bàn:

    - Của cháu đây!

    Vừa nói chú vừa kéo Thường lại cạnh bàn và bắt đầu hướng dẫn cho anh cách kéo từng khúc kẹo. Động tác chẳng có gì phức tạp nên chỉ trong chốc lát, Thường đã có thể kéo thuần thục. Sau đó, chú nói sơ qua về giá cả, khúc dài bao nhiêu, khúc ngắn bao nhiêu.

    Thường ngó quanh:

    - Đồ nghề nấu kẹo của chú đâu?

    Chú Kiến cười:

    - Làm kẹo kéo cần gì đồ nghề! Cứ đổ đường vô nồi mà nấu. Khi nào thấy nó bắt đầu quánh lại thì nhỏ từng giọt vô chén nước để thử. Thấy được rồi thì đổ ra thau, chờ nó nguội bớt treo lên móc mà đánh.

    Chú Kiến chỉ tay lên cái móc sắt treo sát tường:

    - Cái móc kia kìa! Đánh đến khi nào nó trắng tinh và bắt đầu co lại thì đem xuống cán dẹp ra! - Đang thao thao bất tuyệt, chợt chú khựng lại, ngó Thường - Mà thôi, cháu cần gì biết ba chuyện đó. Chuyện làm kẹo để chú lo. Hằng ngày, cháu cứ việc ghé đây lấy kẹo mang đi là được rồi!

    Thường mỉm cười:

    - Thì cháu hỏi cho biết..

    Không đợi Thường nói dứt câu, chú Kiến vội lên tiếng giục:

    - Thôi, chú cháu mình đi!

    - Bây giờ đi đâu?

    - Chú sẽ dẫn cháu đến trường cấp một Phương Nam. Chỗ này thường ngày chú vẫn tạt qua. Phải có chú dẫn đi mới được. Cháu là "ma mới", đi một mình không khéo bị "ma cũ" bắt nạt. Thôi, mình đi!

    - Chú chờ cháu một chút! Cháu phải thay đồ đã!

    Vừa nói, Thường vừa lôi bộ đồ trong túi xách ra.

    Chú Kiến cười cười:

    - Thật khổ! Đi bán kẹo kéo mà y như đi đóng kịch không bằng!
     
    Aquafina thích bài này.
  9. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 8

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngày đầu tiên trở thành một anh chàng bán kẹo kéo đối với Thường là một ngày đẹp trời. Tất nhiên, những giây phút khởi đầu bao giờ cũng khó khăn, nhất là khi chú Kiến bỏ đi sau khi đãcăn dặn Thường những điều cần thiết.

    Hôm đó, khi hai chú cháu đến nơi thìcác lớp đã vào học. Cổng trường đóng kín mít. Hai bên cổng, dọc trên lề đường toàn những người bán dạo. Cô bé bán bong bóng đứng cạnh xe nước mía. Bà bán bánh kẹo ngồi cạnh bà bán đồ chơi trẻ em. Có cả một chú lớn tuổi đeo toòng teng trước ngực những chiếc trống tí hon cắm lông gà nhuộm màu sặc sỡ.

    Trước khi đi, chú Kiến "sắp xếp" cho Thường đứng kế một dì lớn tuổi, trước mặt là một chiếc mẹt bày la liệt những con thú đủ màu nặn bằng bột.

    - Dì Sáu! - Chú Kiến giới thiệu - Bữa nay thằng cháu bán thế chỗ tôi. Nó mới ra nghề, còn khờ khạo, có gì nhờ dì bảo ban dùm!

    Dì Sáu vui vẻ: - Chú nói quá! Thằng bé lớn tồng ngồng rồi chứ nhỏ nhít gì mà bảo ban! Nói xong, dì ý tứ nhích sát qua một chút để Thường có chỗ dựng xe. Kể từ lúc đó, dì Sáu thỉnh thoảng quay sang trò chuyện với Thường.

    Dì hỏi han chuyện nhà cửa, gia đình. Hẳn nhiên Thường không dám kể thật. Anh bảo cha mất, mẹ đi bán rau quả ngoài chợ, nhà đông anh em nên anh phải nghỉ học đi bán kẹo kéo. Nhờ trò chuyện qua lại với dì, dần dần Thường cảm thấy tự nhiên hơn. Anh không còn cảm giác lạc lõng và lúng túng như khi chú Kiến vừa bỏ đi.

    Những người khác chẳng chú ý đến Thường nhiều. Đội quân hàng rong trên hè phố thỉnh thoảng lại bổ sung thêm một tân binh vốn là chuyện bình thường trong xã hội hiện nay nên chẳng ai buồn ngạc nhiên về chú bé đồng nghiệp mới toanh này. Mọi người thản nhiên tròchuyện, nói dăm câu bông đùa rồi cười phá lên, chốc chốc lại liếc mắt vềphía cổng trường chờ nghe tiếng kẻng ra chơi. Thái độ tự nhiên và giản dị của mọi người giúp Thường cảm thấy yên tâm. Anh trở nên bình tĩnh và tự tin. Nhưng sự bình tĩnh đó kéo dài không lâu. Khi tiếng kẻng báo giờ chơi vang lên, Thường lại đâm ra lúng túng. Anh hồi hộp không biết lát nữa đây, khi lũ trẻ con ùa ra, anh sẽ phải nói năng và bán chác với chúng như thế nào. Cũng không biết chúng có sẽ mua kẹo của anh không. Hằng trăm câu hỏi không lời giải đáp bỗng chốc hiện lên trong tâm trí, cộng với nỗi lo lắng của kẻ mới ra nghề, khiến Thường vô cùng thấp thỏm. Anh nghe tim mình đập thình thịch như muốn nhảy vọt ra khỏi lồng ngực. Có lúc, Thường tuyệt vọng trông ngang liếc dọc như muốn cầu cứu những người chung quanh. Nhưng ai nấy đều đang sửa soạn đón tiếp khách hàng. Chẳng ai chú ý đến vẻ mặt lo âu của anh. Chỉ đến khi lũ trẻ chen nhau ùa ra khỏi lớp và chạy xô về phía cổng, trong đó một vài đứa nhanh miệng reo lên "kẹo kéo, kẹo kéo" với giọng điệu hớn hở thì Thường mới thoát ra khỏi cảm giác nặng nề và nhanh chóng hòa nhập vào không khí ồn ã, náo nhiệt của phiên chợ học trò.

    Bắt chước những người bán hàng khác, Thường lật đật đẩy xe tới sát hàng rào song sắt cạnh cổng ra vào.

    Từ bên trong, chìa ra hàng chục cánh tay chen chúc nhau, tay nào cũng ve vẩy một tờ giấy bạc:

    - Bán ba trăm kẹo kéo!

    - Bán cho em năm trăm!

    - Bán cho một khúc dài dài!

    - Bán cho em trước! Kéo sao cho nhiều đậu phộng ấy!

    - Em trước! Em đưa tiền trước!

    Những tiếng nhi nhô thúc giục, kèo nài khiến Thường vừa mừng rỡ lại vừa lóng ngóng.

    - Các em chờ một chút! Một chút thôi! Có ngay đây nè!

    Vừa nói, Thường vừa vội vã quấn mảnh khăn vào cây kẹo và mím môi kéo. Lúc ở nhà chú Kiến, Thường đã thực tập trước nên bây giờ anh kéo chẳng mấy khó khăn. Nhất là sau khi kéo được năm, sáu khúc, động tác của Thường càng trở nên nhanh nhẹn, gọn gàng hơn. Nhưng đó chẳng phải là điều quan trọng nhất. Cái chính là khi đã bắt đầu hành nghề, Thường dần dà quên đi những mặc cảm của riêng mình. Anh không còn nhớ mình là cậu học trò lớp mười một và là con của một nhà giáo có uy tín. Anh không còn cảm thấy ngượng ngùng, xấu hổ về nghề nghiệp bất đắc dĩ của mình. Ở giữa những đồng nghiệp bình dân, được vây bọc bởi đám trẻ con vô tư và huyên náo, Thường cảm thấy thanh thản và tự nhiên như thể anh đã làm nghề này từ lâu lắm rồi. Trên đường về, khi nhớ lại, chính Thường cũng không khỏi ngạc nhiên về tâm trạng thảnh thơi của mình.

    Dĩ nhiên, đối với Thường, hôm đó làngày vui của anh. Anh đã hành động để giúp đỡ mẹ. Và anh tin chắc rằng kết quả của công việc nhất định sẽ giúp mẹ trút bỏ được phần nào gánh nặng cơm áo hiện nay.

    Chỉ có điều, khi cây kẹo đã hết nhẵn sau khi bán thêm một hồi lúc tan trường, Thường thong thả xếp lại những tờgiấy bạc rồi nhẩm đếm, anh bàng hoàng nhận thấy khoản tiền thu được cũng xấp xỉ chi phí làm ra cây kẹo.

    Tưởng mình lộn, Thường cẩn thận đếm đi đếm lại. Kết quả vẫn thế: Chuyến ra quân đầu tiên của Thường coi như huề vốn. Lọc cọc trên đường về, Thường nghĩ mãi nhưng vẫn không tìm được nguyên nhân.

    Khi Thường thuật lại điều đó với chú Kiến và chép miệng:

    - Chắc cháu thối nhầm tiền!

    Chú Kiến mỉm cười:

    - Không phải cháu thối nhầm tiền đâu! Có lẽ cháu bán rẻ quá! Ai mới vô nghềkẹo kéo cũng vậy. Cứ sợ mình bán mắc, do đó không dám kéo mỏng, rốt cuộc khúc một ngàn lại bán năm trăm, khúc năm trăm thì bán có ba trăm!

    Rồi thấy Thường cứ đực mặt ra, chú Kiến vỗ vai an ủi:

    - Không hề gì đâu cháu! Bán chừng vài ngày, cháu sẽ quen tay. Những ngày đầu, chuyện lời lỗ không quan trọng. Cái chính là làm quen với môi trường chung quanh.

    Nghe chú Kiến nói vậy, Thường mới thôi lo lắng. Và anh bắt đầu nghĩ đến chuyện lát nữa đây khi anh đưa cho Nhi khúc kẹo kéo anh để dành cho nó, chẳng biết anh sẽ giải thích như thế nào. Chắc là anh sẽ nói: "Đằng trước ngôi nhà anh dạy kèm, có một chiếc xe kẹo kéo..".
     
    Aquafina thích bài này.
  10. Cute pikachu

    Bài viết:
    1,898
    Chương 9

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong những người bạn mới của Thường, những kẻ hành nghề trước cổng trường Phương Nam, có một cô bé bán bong bóng trạc mười bốn tuổi. Cô bé ăn mặc xoàng xĩnh nhưng gọn gàng, mặt mày thông minh sáng sủa.

    Ngay hôm đầu tiên đi bán, Thường đã nhìn thấy cô bé. Cô đang ngồi trò chuyện rù rì với bà bán kẹo, chiếc xe đạp cột hàng chùm bong bóng dựng bên cạnh. Lúc đó, cô bé có thoáng trông thấy Thường. Cô nhìn anh bằng ánh mắt tò mò, và khi nỗi ngạc nhiên qua đi, cô lại toét miệng cười với anh, hồn nhiên và thân mật. Nụ cười làm quen của cô bé khiến Thường đâm bối rối. Anh chưa kịp nghĩ ra cách ứng xử thì cô bé lại quay sang bà bán kẹo trò chuyện tiếp.

    Tất cả chỉ vậy thôi. Thường bán ở bên này cổng, cô bé bán ở phía bên kia, ngó vậy chứ muôn trùng xa cách, nhất làvới một kẻ mới chân ướt chân ráo đến đây như anh. Vả lại, mải chìm đắm trong tâm trạng thấp thỏm của ngày đầu đi bán, Thường không còn tâm trí đâu mà quan tâm đến ai, mặc dù cô bé gợi cho anh nhớ đến bé Nhi và điều đó đem lại cho anh một cảm giác thân thiện. Ngày thứ hai, mọi việc diễn biến một cách đột ngột. Khi học trò đã vào lớp, Thường đang lúi húi ràng lại sợi cao su phía sau xe thì cô bé bỗng nhiên tiến lại. Cô chủ động làm quen trước. Cách làm quen của cô cũng thật lạ:

    - Anh bán cho em một khúc kẹo!

    Thường ngẩng lên, ngạc nhiên hỏi:

    - Em mua kẹo thật hả? Cô bé "hứ" một tiếng:

    - Trời đất, sao anh hỏi kỳ vậy? Anh tưởng em không biết ăn kẹo kéo hả?

    Thường mỉm cười:

    - Em mua bao nhiêu?

    - Ba trăm.

    Khi Thường giở tấm ny-lông bọc quanh cây kẹo, chuẩn bị kéo, cô bé lại nói:

    - Nhưng em không có tiền trả đâu!

    Thường dễ dãi:

    - Không có tiền cũng không sao! Anh biếu em!

    Không ngờ cô bé lại lắc đầu:

    - Em cũng không thích lấy không cái gìcủa ai cả.

    Đến đây thì Thường thật sự bối rối. Anh nhăn nhó:

    - Mua thì em bảo không có tiền, biếu em lại không lấy! Vậy là sao?

    - Vậy là như thế này nè!

    Vừa nói cô bé vừa chạy vụt về chỗ để xe. Cô tháo một cái bong bóng, quấn sợi dây quanh ngón tay rồi quay lại chỗThường. Cô đưa sợi chỉ cho anh, giọng tươi tỉnh:

    - Anh cầm đi!

    - Nghĩa là sao? - Thường vẫn chưa hiểu.

    Cô bé nhăn mũi:

    - Anh cứ "vậy là" với "nghĩa là" hoài! Nghĩa là sao hả? Nghĩa là em đổi bongbóng lấy kẹo! Cái bong bóng của em ba trăm, khúc kẹo của anh cũng ba trăm, giá ngang nhau, anh không lỗ đâu mà sợ!

    Ý tưởng nghộ nghĩnh của cô bé khiến Thường bật cười. Anh chìa khúc kẹo ra:

    - Nè!

    Cô bé cầm khúc kẹo bằng tay trái, tay phải vẫn nắm chặt sợi chỉ buộc bong bóng. Cô dúi sợi chỉ vào tay Thường:

    - Đổi nghen!

    Thường cầm lấy đầu sợi chỉ và ngước mắt trông lên. Trên đầu anh, quả bong bóng màu xanh đang lơ lửng lượn qua lượn lại trong gió. Bất giác Thường nhớ đến những ngày còn bé. Hồi đó, anh rất thích những quả bong bóng. Mỗi lần đi ra đường, hễ thấy bong bóng là Thường vòi ba mẹ mua cho bằng được. Và anh chơi với chúng cho đến khi chúng xì hơi xẹp lép mới thôi. Có lần Thường tuột tay để quả bong bóng bay mất. Thế là anh vội vã đuổi theo, vừa chạy vừa ngẩn ngơ ngước nhìn quả bóng mỗi lúc một nhỏ dần và cuối cùng hóa thành một dấu chấm nhỏ xíu trên nền trời xa lắc. Lần đó, do mải mê nhìn theo quả bóng, Thường đâm sầm vào một chiếc ô-tô đỗ bên đường đến tét trán, phải vào bệnh viện khâu cả chục mũi và sau đó phải nghỉ học suốt hai tuần lễ.

    Đang nghĩ ngợi miên man, Thường bỗng giật mình khi nghe cô bé lên tiếng:

    - Làm gì mà anh thẩn thờ vậy! Coi chừng tuột quả bong bóng bây giờ!

    Thường chớp chớp mắt. Anh quấn sợi chỉ hai, ba vòng quanh ngón tay:

    - Vậy là hết tuột!

    Cô bé nhún vai:

    - Cột vậy chẳng ăn thua gì đâu! Chỉ cần anh lơ đễnh một chút, quả bóng bay tuốt liền! - Cô bé chỉ tay vào chiếc xe đạp của Thường - Cột vô ghi đông kia kìa!

    Thường chẳng nói gì. Anh lặng lẽ làm theo lời chỉ dẫn. Cô bé đứng bêncạnh, vừa nhai kẹo vừa quan sát Thường, chốc chốc lại buột miệng hệt như người lớn nhắc nhở trẻ con:

    - Buộc chặt vào! Thêm một vòng nữa!

    Thường đùa:

    - Có bao giờ quả bong bóng lôi tuốt chiếc xe đạp lên trời không?

    Cô bé "xì" một tiếng:

    - Chiếc xe của em buộc mấy chục quả bongbóng còn không bay lên nổi nữa là!

    Đang nói, cô bé chợt xòe hai bàn tay ra trước mặt, giọng tươi tỉnh:

    - Hết rồi!

    Thường ngơ ngác:

    - Hết gì?

    - Kẹo kéo.

    Thường bật cười:

    - Em ăn nữa không?

    - Nữa.

    Thường vừa kéo kẹo vừa chọc:

    - Đổi bong bóng nữa hả?

    Cô bé mỉm cười lắc đầu:

    - Không. Lần này em trả tiền đàng hoàng!

    Nói xong cô bé cho tay vào túi móc tiền ra. Thấy vậy, Thường vội lên tiếng ngăn:

    - Cất vô đi! Anh không lấy tiền của emđâu!

    Nhưng cô bé không thèm nghe lời Thường. Cô bướng bỉnh:

    - Em đã nói rồi! Em không thích lấy không cái gì của ai hết!

    Thường hắng giọng:

    - Nhưng đây là anh biếu em mà!

    - Biếu cũng không lấy.

    Thấy cô bé cứ một mực cự tuyệt, Thường đâm ra khó xử. Anh nhăn mặt:

    - Vậy anh phải làm sao bây giờ?

    Điệu bộ khổ sở của Thường khiến côbé phì cười. Cô nheo nheo mắt:

    - Em bày cho anh một cách nghen?

    - Ừ! Cách sao?

    - Anh cứ lấy tiền!

    - Cô bé vừa nóivừa gục gặc đầu - Nhưng anh kéo khúc kẹo to gấp đôi. Kiểu như bán rẻ vậy mà!

    - Em khôn ghê!

    Vừa xuýt xoa, Thường vừa mỉm cười ngắt cho cô bé nhí nhảnh một khúc kẹo to tướng. Cô bé cầm lấy khúc kẹo, dẩu môi:

    - Em khôn là phải rồi! Em tên là TàiKhôn mà!

    Thường nheo mắt:

    - Em chỉ phịa! Ai lại tên Tài Khôn!

    Cô bé ngúng nguẩy:

    - Anh không tin thì thôi! Em là ngườiViệt gốc Hoa mà! Nội em là người Hoa chính cống đó!

    - Nội em là người Hoa?

    - Chứ sao! Nội em nói tiếng Quảng hay lắm. Nội nói như gió.

    Thường tò mò:

    - Thế còn ba em? Ba em nói tiếng Quảng được không?

    Cô bé liếm môi:

    - Ba em hả Ba em thì không nói được. Ba chỉ nghe được thôi. Nghe tiếng Quảng nhưng lại trả lời bằng tiếng Việt.

    Thường cười cười:

    - Còn em thì nói cũng không được mà nghe cũng không xong?

    Cô bé nhe răng cười theo:

    - Ừ. Đến đời tụi em thì chẳng ai biết mốc khô gì cả!

    Nghe cô bé giới thiệu gốc gác một hồi, Thường đâm bán tín bán nghi:

    - Bộ em tên Tài Khôn thật hả?

    - Thật chứ sao! Tên tụi em đều do nội đặt. Nội đặt em là Tài Khôn, còn em gái em là Xíu Muội. Con Xíu Muội nhỏ hơn em tới bốn tuổi lận.

    Đến đây thì Thường hơi tin tin. Anh gật gù chép miệng:

    - Tên gì ngộ ghê!

    Cô bé níu tay Thường: - Vậy từ giờ trở đi, anh gọi em là Tài Khôn hén?

    - Ừ. Nếu tên em như vậy thì anh sẽ gọi em là Tài Khôn. Tài Khôn có vẻ thích thú khi được Thường công nhận cái tên nghộ nghĩnh của mình. Cô cười khúc khích luôn miệng.

    Đang cười, Tài Khôn bỗng ngừng bặt. Cô tặc lưỡi:

    - Chút xíu nữa em quên!

    - Quên gì?

    - Quên hỏi tên anh.

    Thường hắng giọng:

    - Tên anh thường lắm!

    Tài Khôn lộ vẻ hiếu kỳ!

    - Tên gì vậy?

    - Tên Thường.

    Tài Khôn dậm chân, giọng sốt ruột:

    - Thường cũng chẳng sao! Anh cứ nói đại ra đi!

    - Thì anh đã nói rồi. Anh tên Thường! -Rồi xem chừng Tài Khôn vẫn ngơ ngác, Thường mỉm cười nói thêm - Tên anh làNguyễn Minh Thường, hiểu chưa?

    - À, à, - Tài Khôn sáng mắt lên - Hóa ra vậy!

    Rồi cô gật gù:

    - Tên anh đúng là thường thật!

    Thường trêu:

    - Chứ đâu có kỳ cục như tên của em.

    - A, anh dám chê tên em hén.

    Tài Khôn giơ nắm đấm lên, nhưng chưa kịp hỏi tội Thường, cô đã lật đật quay mình chạy về bên kia cổng. Kẻng ra chơi đã vang lên.
     
    Aquafina thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...