Đắc Nhân Tâm Thuật ứng xử và thu phục lòng người - Chiêm Trúc

Thảo luận trong 'Tổng Hợp' bắt đầu bởi chiqudoll, 11 Tháng hai 2022.

  1. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    Đắc Nhân Tâm Thuật Ứng XửThu Phục Lòng Người

    Tác giả: Chiêm Trúc

    Thể loại: Kỹ năng sống


    [​IMG]

    MỤC LỤC:

    ĐỂ CHUẨN BỊ MỘT NHÂN CÁCH


    - Kiên nhẫn

    - Giản dị

    - Làm việc

    - Danh dự

    - Điều độ

    - Đọc sách

    - Lời hứa

    - Tính can đảm

    - Tiền bạc

    - Đau khổ

    - Bạn bè

    - Thành thật

    - Nghe

    - Nói

    - Nét nhìn

    - Nụ cười

    - Hoạt kê

    - Nghi ngờ

    - Thành kiến

    - Khen chê

    - Nóng giận

    - Khiêm tốn và khoe khoang

     
    Chỉnh sửa cuối: 20 Tháng năm 2024
  2. Đăng ký Binance
  3. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    KIÊN NHẪN

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong chúng ta ai không trải qua một chặng đường học tập? Từ khi học, a, b, c cho đến khi đọc thông viết thạo chúng ta đã cố gắng kiên nhẫn một cách đáng phục. Nhiều người lầm tưởng "sự đi" là đức tính trời sinh! Không phải! Nếu các bậc phụ huynh không tập trẻ đi thì trẻ sẽ đi bằng "bốn chân" cho mà coi! Đây mới là bài học kiên nhẫn đầu tiên của loài người.

    Thế là mỗi chúng ta đã trải qua hai bài thử thách về đức kiên nhẫn rất quan trọng.

    Đến nay vẫn có những người không biết chữ i chữ tờ, phần lớn không phải vì bố mẹ họ không đủ điều kiện cho con đi học mà là bố mẹ quá nuông chiều con, không tập con đức tính kiên nhẫn để đến trường. Ngoài ra còn một ý nghĩa khác, những vị đó không coi sự học là quan trọng.

    Đức kiên nhẫn không phải dành riêng cho con người. Thiên nhiên cũng có một "tính kiên nhẫn" rất lớn. Các loài động vật sinh trên Địa Cầu có khi phải đợi đến hàng triệu năm. Những loài sinh vật cũng biết phục kích để con mồi đi qua.

    Cách đây gần 2500 năm, Liệt Tử viết bài "Ngu Công đục núi" với nội dung: Ông lão họ Ngu ở trong xó núi, mỗi lần muốn ra ngoài phải đi vòng quá xa. Vì vậy Ngu Công quyết định phá núi. Số đất lấy ra từ núi phải đựng vào thúng đội đi đổ, phải mang đến biển Bột Hải đổ. Từ nơi phá núi đến biển Bột Hải khứ hồi phải mất cả năm mới xong một chuyến. Người đương thời cho Ngu Công là ngu dốt. Nhưng Ngu Công giải thích: "Phá núi đâu có chuyện gì là khó? Đời tôi làm dĩ nhiên là không xong, nhưng đời con cháu, đời chắt rồi con cháu của con cháu chắt phải xong". Ý của Liệt Tử muốn nhấn mạnh đến đức kiên nhẫn.

    Các bậc danh nhân, vĩ nhân, giáo sư, y sư, học giả.. có ai là không có tính kiên nhẫn? Descartes nói: "Thiên tài là sự kiên nhẫn lâu dài". Tài năng nào cũng kinh qua một sự tích lũy. Cho đến các thương gia, tỷ phú cũng phải theo quy tắc đó. Các vị giáo chủ, chưởng môn cũng không ngoài, các nhà thôi miên, Fakir, pháp sư, võ sư cũng bất ngoại. Chúng ta tại sao không theo gương các vị trên mà tập tính kiên nhẫn. Nhà Phật nói: "Những vị Phật đã trải qua hằng vô lượng kiếp". Không ai mà tự nhiên đạt tới mức thượng thừa. Muốn có một nội lực thâm hậu ai nấy cũng đều đi vào con đường công phu. Lòng kiên nhẫn nén lại thành đực hàm dưỡng. Nhiều công trình phải đòi hỏi thời gian dài cả đời người, nếu không có dức kiên nhẫn để chịu đựng thì làm sao làm việc đến nơi đến chốn. Mọi bà mẹ đều cưu mang nặng hơn chín tháng mới sinh.

    Các nhà địa chất nói rằng, lục địa Nam Mỹ nguyên là một vùng đất của Tây Nam Châu Phi (nếu các bạn không tin thì cứ lấy bản đồ thế giới ra cắt vùng đất Nam Mỹ rồi ráp với vùng lục địa đó là vùng lục địa trôi, vận tốc trôi là 2cm/năm! Hiện nay chúng cách nhau trên 10.000km)

    Trước năm 1975 ở Phan Thiết có một vị thầy giáo tên là Phạm Văn Thuận có tài viết chữ giống như in. Nếu đưa cho ông một trang sách và một tờ giấy trắng của trang sách đó, ông sẽ viết trang sách ấy, người ta sẽ không phân biệt được trang nào là in, trang nào là viết, nhưng không phải viết tay trong chốc lát là được. Thế mà ông kiên nhẫn sao lại bộ ĐẠI NAM QUỐC ÂM TỰ của Huỳnh Tịnh Của (gần 2000 trang) trong 10 năm. Và bộ sách sau này có triển lãm cùng với bộ nguyên bản ở Đà Lạt.

    Một ngôi chùa ở Rangoon được coi là kỳ công là do bàn tay của một nhà sư tạo dựng nên từ lúc nhà sư 15 tuổi cho đến năm 85 tuổi (1962) mới tạm coi là hoàn thành! Bạn biết kinh thành La Mã đâu phải xây dựng trong một ngày? Đền Potala ở Lhassa đâu phải xây dựng trong một thế kỷ? Vạn Lý Trường Thành đâu phải riêng công trình của Tần Thủy Hoàng?

    Xương của các cổ sinh vật đến nay đã hóa thạch. Tô Thị kiên trinh bồng con lên núi đợi chồng cũng đã.. hóa thạch! Tuy là chuyện cổ tích, nhưng phải hiểu đó là tấm lòng thiết thạch của con người!

    Trong vấn đề làm kinh tế ta thấy lòng kiên nhẫn của người Hoa thật đáng nể. Hiện nay có nhiều người đạt "danh hiệu" tỷ phú, thời chế độ cũ, ban ngày họ đi lượm ve chai, ban đêm họ đi bán từng quả cóc. Công phu ấy cũng khó khăn như Trần Huyền Trang đi từng bước sang Tây Trúc thỉnh kinh!

    Phải có tấm lòng độ lượng và can đảm mới "chạm mặt" với kiên nhẫn! Bộ mặt của kiên nhẫn thật quái gở, hắn như một tên phù thủy, có lúc đẹp đẽ như một tiểu thư (đó là những công việc ngắn hạn), có lúc gương mặt hắn tua tủa những gai góc, trợn mắt há mồm (đó là những công trình dài hạn), ta phải tha thứ cho chính mình và yêu thương nhiều người và lách vai chen tới! Tập tính kiên nhẫn (kiên trì, kiên gan, kiên quyết, kiên cường, kiên tâm, kiến chí) bắt đầu từ công việc hàng giờ, rồi hàng ngày, hàng tháng dần dần bước qua những công trình hàng năm.

    Nhiều nhà toán học ở thế kỷ 17, 18 dám bỏ cả cuộc đời để đi tìm số (pi) chẳng hạn như Ludorff, Mestius, W. Shank, F. Viète chỉ đúng đến vài chục số lẻ thập phân.

    Đức kiên nhẫn chẳng những giúp ta khắc phục mọi việc khó khăn, nó còn giúp ta chinh phục được những người khó tính. Lòng kiên nhẫn càng làm tăng thêm tính lịch sự. Có một người nói chuyện rất dở. Nhưng nếu bạn đừng sợ tốn thì giờ quý báu của mình, cứ can đảm nghe họ nói chuyện, trước là tập mình tính kiên nhẫn, sau là giữ phép lịch sự trong việc xã giao, bạn sẽ không mất gì mà còn được lợi nữa là khác.

    Tính kiên nhẫn là một trong những đức tính khó luyện nhất, bởi vì nó phụ thuộc vào tính khí của mỗi người. Tính khí của mỗi người thì phụ thuộc vào chất máu của mỗi người. Máu của mỗi người ở vào một trong 4 nhóm: A, B, O, AB. Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp các nhóm máu ấy tự thay đổi chứ không phải cố định như ta từng lầm tưởng. Ý chí là quyết định mọi việc. Bạn thường nghe người ta nói: "Tôi không đủ kiên nhẫn để nghe..", "Tôi không đủ kiên nhẫn để chờ..". Xin rỉ tai với bạn, đừng bao giờ sử dụng câu nói trên, mà phải nói ngược lại: "Hôm nay tôi rất hân hạnh được ngồi nghe anh nói..", "Thật là quý hóa, anh đã cho tôi những giây phút hữu ích..".

    Muốn tập tính kiên nhẫn điều đầu tiên nhất là không nên nôn nóng. Nôn nóng là tính bốc đồng làm ta mất tính kiên trì, mất tính liên tục. Nếu bạn đang bận việc gì quan trọng lắm, không chiều được nữa, nên chọn một thời gian nào thích hợp cho đôi bên, khéo léo hẹn gặp lại. Muốn tập tính kiên nhẫn bạn nên sử dựng nhiều về tính im lặng. Có những lúc tính im lặng và tính kiên nhẫn như dồng nghĩa với nhau.

    Và sau cùng để giúp bạn nắm vững được tính kiên nhẫn là bạn nên "đem sự kiên nhẫn ra để rèn luyện đức kiên nhẫn".

     
    Chỉnh sửa cuối: 21 Tháng năm 2024
  4. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    GIẢN DỊ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một trong những nết tốt rất quý báu của con người là có một cuộc sống giản dị. Đừng tưởng sự giản dị chỉ dành cho những nhà tu hành. Xưa nay biết bao danh nhân sống trong sự giản dị đến nỗi có người đánh giá.. "Ông ấy là một kẻ thất nghiệp".

    Truyện kể đại văn hào L. Tolstoi (1828-1910) một hôm ông đến một đại hí viện để xem người ta diễn về một bản kịch của mình theo lời mời của vị giám đốc đoàn kịch. Tolstoi ăn mặc giản dị theo bản tính cố hữu của mình, người gác cổng không biết ông là Tolstoi, ngăn lại không cho ông vào, nói:

    - Bác hãy đi nơi khác, đêm nay có tác giả đến tham dự, lại có những nhà danh giá khác nữa. Âu là bác hãy đợi đêm khác vậy.

    Léon Tolstoi không hề phiền, liền bước ra ngồi ở ghế đá bên ngoài.

    A. Einstein, Goethe, Tagor.. đều là những bậc vĩ nhân có cuộc sống rất giản dị. Giản dị không phải là tính cẩu thả, ngược lại sống có thứ tự và ngăn nắp.

    Giản dị không phải riêng cho cách phục sức, mà nói rộng cho cách sinh hoạt hàng ngày, từ ăn uống, ngôn ngữ cho đến các bộ môn thuộc về văn hóa.

    Trong việc ăn uống, giản dị chính là sự đạm bạc, điều độ, trong ngôn ngữ, câu văn, trong lời nói giản dị là tính trong sáng, dễ hiểu, dễ nhớ.. thậm chí trong bộ môn toán học tính giản dị cũng được đánh giá cao.

    Tính giản dị đã giúp cho con người thanh thản, nhẹ nhàng xóa bỏ được những ưu tư phiền toái.

    Xưa nay người ta tốn nhiều thì giờ cho những cuộc ăn mặc, họ thường trang điểm thân xác, ít ai chịu khó trang điểm tinh thần. Thế nhưng nhờ tính giản dị đó mà tinh thần coi như đã được trang điểm.

    Giản dị trong cuộc sống nó còn đồng nghĩa với sự khiêm tốn, đồng nghĩa với sự độ lượng. Người có tính giản dị họ không có để câu chấp bắt bẻ những việc nhỏ nhặt, trái lại họ đủ sức để cảm thông những lầm lẫn vô tình của người khác.

    Cũng cần phân biệt, giản dị với lập dị. Lập dị là cái thói cầu kỳ muốn mình khác với mọi người, là tính muốn "làm nổi" cho mọi người chú ý mình là nhân vật đặc biệt. Thật ra, nếu công tâm mà xét, những người mang tính lập dị là bởi họ thèm khát sự nổi tiếng, họ thèm khát một sự "ngạc nhiên có kính trọng" của người khác đối với họ, nhưng họ quên đi một điều rất cơ bản, chính họ là một kẻ rỗng tuếch và họ tự khinh bỉ họ trước.

    Người giản dị đã có sẵn một tính tự nhiên, ai phục, ai không phục họ đâu có bận tâm đến? Tự họ đã có đực viên dung vô ngại, tự họ đã đảm bảo một chân giá trị của họ.

    Trong thời chiến người ta có kể một câu chuyện rất thú vị. Một vị tướng quân mặc quân phục nhưng không đeo quân hàm, đi bộ đến một đơn vị X để thanh tra. Vị tướng ấy đến bờ sông gặp một thượng sỹ già đi công tác, muốn qua sống nhưng ngại sông sâu, sợ ướt y phục mình. Thượng sỹ thấy anh linh kia mừng quá hỏi:

    - Ê! Chú mày đi đâu?

    - Về X!

    - Ồ! Thế thì may quá! Tớ xuống công tác ở X, trong túi có nhiều giấy tờ, chú mày làm ơn cõng tớ qua sông.

    Anh lính kia mỉm cười kê vai cõng anh thượng sĩ qua sông. Sau đó anh lính chào vị thượng sỹ rồi rẽ lối. Mấy hôm sau, vị thượng sỹ mới biết anh lính cõng mình qua sông chính là tướng Nguyễn Chí Thanh.

    Nếu gặp một người không có tính giản dị, chắc chắn anh thượng sỹ sẽ bị giảng đạo đức một hồi.

    Lại một chuyện khác, một viên sỹ quan trẻ trong nhà ga đi ra, dọc đường muốn gọi điện thoại về nhà nhưng không có đúng loại tiền để bỏ vào hộp điện thoại. Viên sỹ quan thấy một anh lính già bên kia đi lại, liền vội hỏi:

    - Anh có tiền đổi tôi 10 pence không?

    Người lính nói:

    - Chờ chút tôi xem thử có giúp anh được không?

    Người lính liền cho tay vào túi. Viên sỹ quan trẻ cau mày tỏ vẻ khó chịu, nói:

    - Anh không biết cách nói chuyện với một sỹ quan à? Nào, bây giờ chúng ta thử bắt đầu lại: Này anh lính, anh có tiền đổi cho tôi 10 pence không?

    Người lính chào cái "cụp" đáp ngay:

    - Thưa ngài, không!

    Rồi bỏ đi. Buổi ấy viên sỹ quan tìm được 1 pence để gọi điện thoại thì mọi việc trễ mất! Rất tiếc!

    Sự rườm ra nhiều khi có nghĩa là hợm hĩnh, cửa quyền hoặc lố bịch. Có môt chuyện xin chép ra đây để chúng ta rút lấy một chút kinh nghiệm trong phép xử thế.

    Hồi ấy ở thị xã QN có những trường trung học lớn, có trường Sư phạm (hai năm). Thể lệ để vào sư phạm là chỉ cần có tú tài I thì thi vào. Năm ấy chúng tôi chuẩn bị thi phần II. Chúng tôi đến sở y tế khám bệnh. Ngoài cửa phòng khám có đề biển "Nơi khám bệnh cho giáo sư, sinh viên, học sinh". Chúng tôi ngồi đợi đến lượt mình, bỗng có ba nàng giáo sinh sư phạm (năm đầu cứ nhìn bảng tên trên áo thì biết rõ tên, trường, lớp) bước vào. Một cô hỏi:

    - Này anh, nơi khám bệnh cho bọn giáo sinh chúng tôi đâu?

    Tôi đáp:

    - Cũng là tại phòng này!

    Hồi đó đám sư phạm hách xì xằng lắm! Họ hách xì xằng cũng phải bởi vì kiếm cái tú tài I gay go lắm, huống chi đây họ đã vào sư phạm. Còn bọn này mới đang học lớp Đệ Nhất. Một cô áo hồng khẽ nhíu mày liễu (đẹp thì có đẹp nhưng quá kiêu) nói:

    - Không, không! Chúng tôi là giáo sinh chứ không phải học sinh!

    Anh bạn ngồi bên cạnh tôi tức mình (nhưng vẫn ôn tồn) nói:

    - Vâng! Ba cô đi cuối dãy hành lang này, quẹo phải, đó là nơi khám cho giáo sinh!

    Ba cô cảm ơn rồi hớn hở đi ngay. Bạn tôi nói:

    - Ai không hiểu họ là giáo sinh sư phạm. Thầy của họ còn khám nơi đây huống gì các cô ấy? Phách và kiêu cũng vừa phải thôi. Nơi đó có một dãy W. C tha hồ các cổ khám!

    Người khó tính hầu hết là người thiếu đức tính giản dị. Người khó tính tổ chuốc lấy sự phiền phức.

    Ở một chung cư nọ có một cô sinh viên năm cuối, đến mướn một căn phòng yên tĩnh để học, thế nhưng cô lại hay rủ các bạn về đó hát và nhảy. Người trong chung cư thấy cô đẹp và trí thức cũng có phần nể nang. Phòng trên của cô đang ở có một cặp vợ chồng già phải dọn đi vì không chịu được tiếng nhạc và tiếng hát của phòng dưới. Một thanh niên độc thân dọn đến đó ở.

    Lúc 3 giờ sáng cô sinh viên giật mình thức dậy vì nghe có tiếng chó sủa của phòng trên. Cô sinh viên tức mình gọi điện thoại lên mắng:

    - A lô! Tôi là sinh viên năm cuối cần sự yên tĩnh để nghỉ ngơi và học tập. Nếu ông còn để chó của ông tái phạm nữa thì tôi sẽ nói với ông tổ trưởng tống cổ cô ra ngay.

    Cô nói xong tắt máy không đợi bên kia trả lời. Ba giờ sáng ngày hôm sau có tiếng điện thoại reo, cô sinh viên dậy nghe máy:

    - A lô! Cô sinh viên thân kính! Mới dọn nhà tới tôi cứ tưởng cô là một ca sĩ. Xin lỗi trên phòng tôi không nuôi chó. Chính tôi cũng cần một sự yên tĩnh như cô.

    Chỉ cần ngày hôm sau, cô sinh viên kia nhận ra vị khách trên là một trong những giáo sư đang dạy mình.

     
    Hoa Nguyệt Phụng, Tiên NhiAnnie Dinh thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 21 Tháng năm 2024
  5. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    LÀM VIỆC

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sự làm việc là chức năng thiên phú của mọi sinh vật. Mọi sinh vật đều có tăng trưởng tất nhiên phải có làm việc. Cho đến cây cối cũng phải làm việc. Hoa hấp thụ ánh sáng và nhiệt độ để tạo màu sắc và mùi hương, lá làm nhiệm vụ hô hấp, rễ hút những chất dinh dưỡng, thân cành có nhiệm vụ chế biến thức ăn.

    Trong cuộc cạnh tranh sinh tồn không một sinh vật nào được phép "lười biếng". So với mọi loài, con người được thiên nhiên ưu đãi rất nhiều, thế mà vẫn có kẻ thích ngồi không mà hưởng thụ, chứ không chịu làm việc, thế có đáng buồn không?

    Chúng ta không nói theo ngụ ngôn, dẫu con gà đứng trên sân lúa, chỉ cần mổ là có lúa ngay, thế mà nó vẫn bươi xới. Hình ảnh tự nhiên ấy đáng để ta suy ngẫm.

    Ngay thẳng mà nói, chưa từng có một người nào sống mà không làm việc, nhưng vấn đề làm việc ở đây đòi hỏi một sự tận tâm, một sự cầu tiến. Sở dĩ loài người tiến bộ là do đại đa số làm người có tinh thần cầu tiến, học hỏi.

    Bạn làm việc cho chính bạn hay làm công cho người khác, giá trị ở chỗ làm tận tình hay không? Theo kinh nghiệm, ai tận lực tận tâm thì sẽ tìm thấy một sự thú vui và xóa được những ưu tư. Và sung sướng hơn nữa, chính mắt bạn trông thấy thành quả của bạn đã làm ra. Chúng ta lấy sức và óc ra làm việc, nên việc ta làm đó dường như có thần, có hồn. Người ta thường ca ngợi một bài thơ hay, họ nói: "Bài thơ có hồn", "Bài thơ có thần".. Không riêng gì bài thơ, bức tranh hay một tác phẩm nghệ thuật nào khác, sự làm việc bền bỉ với một tấm lòng nhân hậu cởi mở thì thành quả của bất kỳ người nào cũng đều có thần cả. Đại điêu khắc gia Rodin (1840-1917) nói: "Cõi đời này chỉ thật sự sung sướng khi mọi người đều có tâm hồn nghệ sĩ, nghĩa là vui vẻ làm công việc của mình".

    Đó là nói chung, còn phân tích hai tiếng "làm việc" thì thiên hình vạn trạng! Trẻ sơ sinh cho đến khi biết đi, "công việc hàng ngày" của chúng là do chức năng thiên phú của thiên nhiên: Bú, cử động, khóc, bài tiết. Từ biết đi đến 6 tuổi, ăn, ngủ, chạy chơi, bắt chước. Sau đó chúng đến trường. Học tập là sự làm việc của các em. Khi vào đời, người nào cũng phải kiếm một vài nghề thích hợp với sở năng của mình. Một nông nhân phải biết cày cấy, vun xới, nghề phụ là đan lát. Một ngư phủ phải biết đánh cá bắt tôm, bơi lội, nghề phụ là việc đan lưới, vá lưới. Một nhà giáo ngoài việc dạy dỗ học trò, giờ rảnh giúp vợ con cho công việc gia đình hằng ngày trôi chảy. Các công nhân viên chức đều theo một thể thức như vậy lại còn tùy theo khả năng và hoàn cảnh mà gia giảm. Ai ai cũng có việc làm. Cũng có lý do, họ có khả năng, nhưng chưa có (chứ không phải không có) nơi nào chịu nhận, còn làm những nghề vụn vặt thì số tiền kiếm được không đủ chi tiêu trong gia đình, hơn nữa nghề họ làm tạm không phù hợp với sở trường.

    Ở đây chúng tôi không bàn đến cách "tìm việc làm", nhưng xin giúp cho quý bạn một ý kiến: Cây cối đứng yên một chỗ không có tay chân, không miệng mắt thế mà chúng vẫn sống một cách ung dung tươi tốt, trổ hoa sinh quả truyền tử lưu tôn. Một người khuyết tật còn có việc làm huống gì chúng ta?

    Người đời có những thành ngữ về cách làm việc: Chân cứng đá mềm, đổ mồ hôi rơi nước mắt, thức khuya dậy sớm, chân lầm tay bùn, đầu tắt mặt tối.. là những thành ngữ nói về sự vất vả trong lao động, thế sao ở đây lại nói lấy sự làm việc làm vui?

    Bạn hãy nhìn kìa, những người tàn tật đi rất nhiều trên các đường phố, nếu họ không làm việc thì lấy gì sinh sống? Chúng ta được lành mạnh mà phung phí sự lành mạnh ấy, không uổng sao? Trên đời này thật sự mà nói không một người nào mà không khổ cả. Dù họ là vị quốc trưởng, dù họ là nhà tỷ phú.. Vị quốc trưởng cũng phải lao tâm lao lực, đem hết khả năng mình ra làm sao cho quốc phú dân cường, nhà giàu họ cũng khổ sở, vì lo của cải của mình có thể bị trộm cắp, con cái vì số tài sản đó mà xung đột lẫn nhau. Những người "đa thê" cũng khổ sở đến điên đầu.. tựu chung, những nỗi khổ chính đáng đó là những nếp nhân bản chúng ta không được quyền trốn tránh. Nếu trốn tránh những nỗi khổ thông thường đó thì sẽ gặp những điều khốn khổ do hậu quả, tấn công ngay.

    Bạn thử bước vào đồn công an nào đó, hoặc xem báo hàng ngày hoặc xem ti vi bạn sẽ thấy "lệnh truy nã", đó mới thật sự là khổ! Cái khổ của chúng ta là nhiệm vụ, là bổn phận, là lương tâm, nên qua một ngày làm việc, ta ung dung nghỉ thoải mái hoặc vui đùa với vợ con. Một thằng Vọi hay một thằng Bờm nào đó dẫu nó có ung dung một lúc rồi nó cũng phải lo vác chèo, cầm quạt đi làm công việc của nó, có nghĩa là tuy nó ngờ nghệch chất phác, nhưng cuối cùng nó vẫn sống như ta.

    Xem thế, cái khổ vì làm việc và cái khổ vì lo sợ, chắc chắn ta vui vẻ mà chọn cho mình sự làm việc.

    Cho đến nay y học vẫn chưa tìm ra loại thuốc chữa chứng ưu tư. Các nhà phân tâm học sau một thời gian dài nghiên cứu đều đồng ý lấy công thức cổ điển: Chỉ có làm việc mới chữa được những chứng bệnh tâm lý.

    Chúng ta không phải đợi đến lúc buồn mới làm việc. Hãy khởi sự làm việc bằng những việc gì bạn thích làm, có lợi cho mọi người.

     
    Chỉnh sửa cuối: 3 Tháng tư 2025
  6. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    DANH DỰ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tâm lý chung của loài người là không ai chịu kết thân với người mất danh dự, dẫu cho kẻ đã từng tự chà đạp danh dự của mình cũng không ra ngoài tâm lý đó. Cho nên tôn trọng danh dự không phải là một nghĩa vụ mà là một trách nhiệm tất yếu. Loài người đi đến một nền văn minh cao là nhờ có một văn hiến chung vượt lên trên những luật lệ của quốc gia. Trọng danh dự là một thành viên của nền văn hiến đó.

    Danh dự không thể xin mà có được. Cũng có trường hợp danh dự nhờ tiền bạc mà có! Mới nghe đến đó có người vội quy kết, đó là phi danh dự. Không phải! Có tiền bạc đâu phải chuyện dễ? Đòng tiền gắn liền mồ hôi. Không có lương tâm làm sao có được tiền bạc? Lương tâm chính là cơ sở để hình thành danh dự.

    Người ta không thể hình dung danh dự là một hột, một viên, một cái.. mà nó là một chuỗi liên tục kéo dài và luôn song hành với thời gian. Người Arménie cho rằng "thanh danh là một xâu chuỗi ngọc" vừa phát ra ánh sáng dịu dàng vừa phát ra tiếng kêu thanh cao. Hiểu như vậy để tiến thêm một bước: Cũng là ngọc nhưng chia làm hàng trăm loại khác nhau, thì danh dự cũng có thứ bậc của nó. Gọt đá ra để lấy ngọc. Được ngọc rồi vĩnh viễn ngọc không thể hóa đá, mà nó chỉ có thể vỡ đi. Một người bình thường có công tu thân, kết đức kiên trì làm những việc lương thiện tích lũy được tiếng thơm, có khác nào đẽo đá lấy ngọc? Nhưng đột nhiên người ấy trở chứng làm những việc gàn dở, phủi sạch hết uy tín, người ấy không phải trở lại buổi ban đầu, mà anh ta sẽ bị xã hội coi là loại cặn bã chẳng khác nào bụi cám của viên ngọc vỡ. Ai cho phép lấy công chuộc tội? Danh dự không phải là một loại điểm, nó là kết hợp nhãn quan của mọi người được mặc nhiên công nhận.

    Danh dự có được là kết tụ những việc làm vô vụ lợi, người đứng ra làm việc với lòng tinh khiết có khác gì một tu sĩ?

    "Không gì che chở những đứa con nhỏ nhoi bằng thanh danh của bậc cha mẹ." (Nữ bá tước C. Fée)

    Họ tự nguyện làm những việc lương thiện, chăm chút, chuyên cần, chắt mót những thành quả nhỏ nhoi bằng những giọt mồ hôi, và với những nụ cười hồn hậu để góp chút công với láng giềng. Người có căn bản hơn, làm những việc lớn hơn nhưng vẫn với tấm lòng độ lượng vị tha. Những tinh túy ấy chính là chất ngọc, chính là danh dự!

    Một thầy giáo đem lương tâm ra giảng dạy học trò của họ trên bục giảng và có thể ho ra máu sau nhiều năm giảng dạy, thầy chỉ lãnh một số lương khiêm tốn do nhà nước quy định không hề phàn nàn, đó là ông thầy có lương tâm, danh dự từ đó mà có. Học trò lẫn phụ huynh đều kính trọng.

    Một ông phu trường mưa nắng vẫn có mặt, vẫn thường xuyên nhắc nhở các cháu trật tự, vẫn thường xuyên mang phấn, mang nước cho thầy, vẫn luôn che chở giữ gìn mọi thứ thuộc về nhà trường, ông phu trường ấy không có danh dự sao? Không đáng kính phục sao?

    Suy ra một nông phu, một chiến sỹ, cho đến người quét chợ địa vị của họ tuy thấp hèn, nhưng họ làm hết chức trách của mình, thì danh dự từ nơi họ toát ra mà những người đồng nghiệp tận mắt chứng kiến. Đó là chân danh dự, một thứ danh dự cao quý, không ai xin mà có, không ai ban mà được. Bằng cấp để ban khen cho loại danh dự này chỉ là thứ giả mạo, trịch thượng, phi nhân.

    Trái lại cũng có kẻ dùng thủ đoạn để mua danh, việc làm của họ hết sức gượng gạo, bỏ ra một ít của phi nghĩa góp vào trong việc bố thí, rồi đánh trống thổi kèn loa rao rùm lên để cho mọi người biết, mọi người trầm trồ, mọi người ca tụng. Mặc Tử một đại triết gia chủ trương thuyết Kiêm Ái trước đây hơn 2300 năm đã nói: "Những việc nghĩa đều làm trong âm thầm. Kẻ tiểu nhân háo danh, nên việc làm của hắn không phải vì nghĩa mà là muốn phô trương."

    Có người còn tệ hơn, chưa hề làm một việc thiện có lương tâm tham dự, dựa dẫm vào đâu đó cũng vỗ ngực xưng danh. Đó chẳng qua là loại xôi thịt.

    "Khi một thực khách được mời mà tự nói về danh dự của mình, thì người chủ nhà phải đếm lại những cái muỗng nhỏ trong nhà." (Emerson)

    Nhưng ta bận tâm làm gì đến những người háo danh đó? Bạn có chút lòng xót thương đến kẻ cùng khổ, cũng có giá trị rồi. Không cần phải thi nhân bố đức, miễn đừng vi phạm những luật lệ đã cấm, những điều mà luân lý và đạo đức không cho phép, cũng đủ đảm bảo cho mình một danh dự lớn rồi! Cổ nhân có câu: "Con gái giữ thân, con trai giữ danh" là cũng có ý như vậy.

    Sống lương thiện là sống cho con mình và sống với mọi người. Cố nhiên người đời ai cũng thích kết thân với một người lương thiện. Cho đến một kẻ đại gian ác cũng muốn chơi thân với một người lương thiện.

    Trước đây có bộ phim "Le Ciel du Plomb" (Trời khói lửa), nội dung có thể tóm tắt như sau: Một tên đại bịp bợm gian ác ở miền Viễn tây Texas từng gây không biết bao tội lỗi. Hắn đi xứ nào cũng giết người và lường gạt. Một hôm hắn gặp một anh chàng nhà quê, vàng bạc bỏ vào trong túi rách, xuống phố trù mở ra một cửa hàng buôn bán làm ăn. Anh chàng nhà quê bản tính thật thà nên dễ tin người. Tên gian ác kia mon men tới làm bạn. Bao nhiêu vàng bạc của anh nhà quê này hắn đoạt hết. Đến chừng sạch tay rồi anh chàng nhà quê mới biết mình bị điếm, bèn âm thầm rời bỏ tên lưu manh đó về quê. Dọc đường không có tiền nên phải kiếm ăn lần hồi. Gã lưu manh trở lại thui thủi một mình, dẫu có tiền bạc cũng không dám vung vãi vì hắn đang bị truy nã. Lòng hắn vẫn nhớ anh chàng nhà quê này, hắn bèn đi tìm anh ta và gặp được. Hắn năn nỉ chàng nhà quê theo hắn. Chàng nhà quê lắc đầu và nhắm núi rừng mà đi. Bây giờ họ cách nhau một thung lũng. Chợt tên lưu manh khóc và hét lớn "John ơi! Chờ tao với!". Hắn bươn bả chạy theo. John đứng lại chờ. Đến nơi hắn nắm tay John nói: "Xin anh đừng bỏ tôi". Và họ là đôi bạn tốt với nhau.

    Câu chuyện này đã nói lên một người có lòng tự trọng, dù họ có sống nghèo chăng nữa nhưng danh dự của họ toát ra như một điệu nhạc êm dịu, ai nghe cũng cảm thấy dễ chịu.

    Một người có tài mà thiếu lòng tự trọng thì sẽ tạo cho mình một cuộc sống khó khăn.

    Lịch sử nhà Tiền Hán có nói về Hàn Tín. Hàn Tín lúc hàn vi chui qua lỗ háng tên bán thịt ở giữa chợ. Tiếng xấu đồn đến tai mọi người. Hàn Tín là người có tài, thế mà khi ra đầu quân Lưu Bang không ai muốn trọng dụng ông ta, họ cho Hàn Tín là kẻ vô sỉ bất cố.

    Con mắt người đời tinh lắm. Chỉ trừ việc ấy ta không làm, đã làm tất nhiên phải có người biết. Danh dự, chính mình phải tự trọng mình trước.

     
    Hoa Nguyệt Phụng, Tiên NhiAnnie Dinh thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 3 Tháng tư 2025
  7. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    ĐIỀU ĐỘ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đông không ấm lắm, hè không mát lắm, ăn không no lắm, ngủ không nhiều lắm.. Sự chừng mực làm tăng tuổi thọ. (Hải Thượng Lãn Ông)

    Bớt sắc dục để dưỡng tinh, bớt nói để dưỡng khí, bớt ưu tư để dưỡng thần. (Lão Tử)

    Giữa "thời buổi tốc độ" mà bàn đến vấn đề "điều độ" có người cho là nghịch lý, nhưng xét thật chu đáo chúng ta lấy làm thú vị.

    Điều độ, không những chỉ cho sự ăn uống có chừng mực, mà là mọi sự sinh hoạt đều có chừng mực.

    Ra đường bạn thấy một người đang lớn tiếng với người khác, thái độ giận dữ bất nhã, chắc chắn bạn sẽ không có thiện cảm gì với người ấy. Bởi vì người ấy mất bình tĩnh, không giữ được sự quân bình của tâm tưởng, nên ngôn ngữ không ổn định và tiết độ của lời nói không được thực hiện.

    Hàng ngày tai nạn giao thông xảy ra trên đường như là việc hiển nhiên, đáng lý điều ấy phải coi là một việc hiếm thấy! Tại sao? Không nói bạn cũng quá biết, những kẻ gây tai nạn đó hầu hết họ không biết điều độ trong việc sử dụng vận tốc xe, đến khi gặp biến cố họ không tự chủ được. Các bạn tuổi vừa mới vào đời, tính khí cương cường hiếu thắng, họ muốn chứng tỏ một "anh hùng tính" thường có những việc làm rất xốc nổi, nhiều khi đáng gọi là quá khích.

    Không riêng gì các bạn trẻ, tôi thấy ngay cả trong các quán rượu bia, những vị đứng tuổi lắm khi quá chén cũng vấp phải "tửu nhập ngôn xuất" làm huyên náo cả một vùng và gây sự bất bình cho người xung quanh.

    Việc điều độ không phải là khó thực hiện, bởi vì nó nằm trong khả năng của mọi người. Những điều ước muốn ngoài tầm tay của loài người thế mà nhân loại dần dần thu phục được thay. Bởi vì chúng ta ít nghiêm khắc với chúng ta, chúng ta mãi tự tha thứ cái lỗi của mình, tự thỏa hiệp với sự sai trái.

    Có lẽ nhiều vị phản đối với những lời trên đây của chúng tôi: "Con người chứ đâu phải thánh nhân mà không vấp phải những lỗi" hoặc "Nhân sinh quý thích chí" (Cái quý nhất của con người là thích làm gì mình muốn). Cả hai ý tưởng trên đều lầm lạc. Thánh nhân cũng chỉ là những người bằng xương thịt như chúng ta, nhưng óc não họ minh tuệ hơn, họ có những tư tưởng phi thường hơn, còn việc trau dồi đức hạnh thì người nào cũng phải tự sức mình, chứ không ai tự nhiên mà có được. Còn việc ta thích làm cái gì thì ta cứ làm, không có nghĩa là làm mọi thứ ta thích. Thích và làm tất cả mọi thứ đều hợp lý, phải được xã hội công nhận, luật pháp bảo chứng.

    Người phương Tây có câu: "Tự do trong bó buộc". Nếu không có sự bó buộc thì sự tự do quá trớn sẽ đưa xã hội đến chỗ hỗn loạn. Đó là điều không thể có ở xã hội loài người.

    2.600 năm trước Đức Khổng Tử có nói: "Thái quá như bất cập" : Cái gì quá độ đều coi như không hợp thời. Tục ngữ phương Tây cũng có câu tương tự như vậy: "L' excès en tout est un défaut" : Càng quá độ càng lỗi.

    Bộ sách Trung Dung ở bên đạo Nho là một trong Tứ thư (bốn cuốn sách) quan trọng, cũng khuyên chúng ta nên chọn lối "trung dung" (ở giữa) để đối xử với đời (Phu Tử chi đạo kỳ Trung Thứ dã: Đạo của Đức Khổng Phu Tử là Trung và Thứ).

    Xem đó đủ biết tính điều độ trong mỗi con người quan trọng. Ăn điều độ tạo thêm sức khỏe cho cơ thể, ngủ điều độ không sinh ra bệnh tật, làm việc điều độ người ta có thể làm lâu dài..

    Sự điều độ không phải chỉ ngần ấy công việc, ngần ấy lợi ích. Bạn vào các học đường, các công sở.. bạn thấy số đông như vậy, nhưng sự làm việc của họ không bừa bãi lộn xộn, không ồn ào mất trật tự. Nhờ đâu mà có được đức tính đó? Nó bắt đầu từ sự khởi đầu có nguyên tắc. Người ta tiết kiệm lời nói để giữ im lặng, người ta bớt những việc làm vô ích để giữ trật tự, người ta bỏ bớt cái "tôi" của mình để xây dựng cái chúng tôi, có nghĩa là bỏ bớt cái cực đoan để tìm cái trung dung.

    Điều độ chính là cái nết của văn hóa, là cái nền của văn minh. Giữ được điều độ, ta có thể đi nhanh và đi xa được. Chạy theo tốc độ không phải là nhanh, không phải là tiến bộ. Ngay từ nhỏ chúng ta đã từng nghe chuyện ngụ ngôn giữa Rùa và Thỏ. Thỏ dù chạy nhanh nhưng không chuyên cần, hay chơi bời dọc đường, có khi chạy quá nhanh sinh mệt nên nghỉ lâu, cuối cùng đến đích sau chú Rùa.

    Ngụ ngôn tuy là chuyện vui nhưng nó mang tính giáo dục cao. Tóm lại chúng ta nên nhớ mấy nét căn bản:

     
  8. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    ĐỌC SÁCH
    Bấm để xem
    Đóng lại
    Những nhà triệu phú đều là những người đọc sách nhiều. Hỏi họ, họ đáp: "Đọc sách là một trong những nguyên nhân thành công của tôi". (Casson)
    Đọc hết một quyển sách hay, ta cảm thấy như từ biệt một người bạn thân. (Voltaire)

    Đọc sách đó là cái cửa mở vào cuộc đời vui tươi. (Mauriac)

    Có lần tôi nghe một bà rầy con mình: "Đọc, đọc cái gì! Con chạy tìm cho mẹ vài ký gạo cái đã!" Đọc sách là việc làm dài hạn, thường xuyên, đó là cuộc trường kỳ chiến đấu, lợi ích của việc đọc sách tuy rất thiết thực nhưng nó đến rất chậm, một cuộc tích lũy nhiều năm, nó cũng giống như mỗi ngày người ta bỏ vào hũ tiết kiệm một vài hạt gạo. Còn cuộc chiến đấu với giặc đói trước mắt cần thiết hơn.

    Trong những hoàn cảnh khốn khổ không ai đủ thời gian và tâm trí để đọc sách thì họ phải chọn lúc thích hợp để đọc, miễn là họ chịu đọc.

    Một người ham học ham đọc, có một tinh thần cầu tiến, thì dù có bận rộn cách nào họ cũng dành một ít thì giờ để lật qua vài trang sách trong mỗi ngày.

    Những người lao động, việc đọc sách đối với họ trước nhất là để tiêu khiển. Dạng đọc sách ngày nay nhiều lắm. Các cô bán hàng trong khi ngồi chờ khách mua hàng, họ đem mấy quyển tiểu thuyết, võ hiệp hoặc tạp chí ra xem, họ gọi đó là "giết thì giờ".

    Một số người vì nghề nghiệp thì họ đọc những loại sách có liên quan đến công việc của họ, chẳng hạn như các bác sĩ, kỹ sư, thầy giáo.

    Ngoài ra thì còn một số người nữa sách gì cũng đọc, rảnh hồi nào đọc hồi đó. Họ là những người viết biên khảo, hoặc những người thích tìm hiểu. Đây là đội ngũ chính trong làng đọc sách.

    Dù gì thì dù nhưng sách đối với những kẻ đọc sách là những món ăn tinh thần. Có món ăn người ta cần no, có món người ta cần ngon, có món người ta cần bổ, có món phải dùng đến đường mật, có món phải dùng mắm muối, có món phải dùng với rượu bia... vô số món ăn cũng như vô số dạng sách.

    Đọc sách người ta tìm thấy nhiều điểm rất thú vị. Cùng một vấn đề nhưng lại có nhiều cách giải quyết khác nhau, có khi trái ngược nhau (nhưng không phải sai), nhưng tất cả đều giúp cho độc giả một số tri thức.

    Tư tưởng con người càng lúc càng tiến bộ,chiều hướng giải quyết có thể khoáng đạt hơn. Có công lý nào thực hơn công lý không gian ba chiều của Euclide? Vị đại sư sáng giá nhất của 25 thế kỷ phút chốc bị nhóm Nicolas Bourbaky đòi hạ bệ.

    Cũng thì hành quân, nhưng người có đọc sách nhất là các sách về lịch sử, binh pháp thì cuộc hành quân có vẻ quy mô và vững tâm hơn.

    Đọc sách ta thấy Tôn Tẫn thống lãnh quân Tề đánh nhau với quân Ngụy do tướng Bàng Quyên chỉ huy, Tôn Tẫn đoán được tâm lý của Bàng Quyên là hiếu thắng nên vờ lui quân, cho bớt lò nấu, Bàng Quyên kiểm lò ngầm hiểu quân Tề bỏ trốn liền đem quân đuổi theo bị Tôn Tẫn đem phục binh ra tiêu diệt (đó là chuyện xảy ra thời Chiến Quốc)

    500 năm sau (thời Tam Quốc), Khổng Minh chọi nhau với Tư Mã Ý, thấy chiến trận không lợi bèn cho lui quân, nhưng sợ Tư Mã Ý đuổi theo, bèn cho đắp thêm lò nấu. Tư Mã Ý kiểm lò thấy mỗi lúc mỗi nhiều thêm thì đoán là địch có viện quân nên không dám truy kích.

    Ta còn thấy, thế kỷ thứ 10, Ngô Quyền ở nước ta chống cự với quân Nam Hán do thái tử Hoằng Thao chỉ huy. Ngô Quyền đánh với quân giặc cắm cọc trên sông Bạch Đằng, kết quả tiêu diệt được địch. Tướng Hoằng Thao bị giết. Ba thế kỷ sau, quân Nguyên sang đánh nước ta, cũng bị thua tại sông Bạch Đằng với thuật cắm cọc như trước. Nếu các tướng lãnh nhà Nguyên chịu khó đọc sách sử chắc phải thấy sự thất bại của quân Nam Hán trước đây mà đề phòng.

    Hồi thế chiến thứ I (1914-1918) tướng nước Anh là Allenby đem quân đổ bộ trên đất Palestine, đánh nhau với quân Thổ Nhĩ Kỳ.

    Bấy giờ quân Thổ đóng ở Micmas trên ngọn đồi cao bên kia thung lũng. Viên sĩ quan phụ tá của Allenby nghe chữ "Micmas" lấy làm ngờ ngợ. Ông ta ngạc nhiên không biết từ này mình đã gặp ở đâu rồi, bỗng ốc sực nhớ mình đã đọc trong Thánh Kinh (Bible) bèn mở Thánh Kinh ra xem lại, thấy ghi:

    "Saul và con là Jouathan cầm đầu toán dân quân Do Thái (Israel) chống nhau với quân Philistins đang đóng ở Micmas. Cha con ông mang đầy vũ khí theo con đường hẹp, ở bên này đầu đường có cụm đá hình yên ngựa tên gọi là Bossets và ở đầu đường bên kia cũng có một khóm đá chen chúc với cây hòe tên gọi là Séné. Cha con ông Saul qua khỏi Séné tiến tới một vùng đất cao diện tích nhỏ hẹp. Nơi này có quân Philistins canh gác. Trời vừa hừng sáng quân Philistins thức dậy, thấy cha con Saul tiến lên ngỡ là quân mình bị tập kích liền bỏ chạy hỗn loạn. Saul thừa cơ đem dân quân truy kích giải phóng được xứ sở Israel.."

    Viên sĩ quan phụ tá trình sách ấy cho Allenby xem. Allenby xem xong cho người đi dò đường xác nhận địa thế ấy quả đúng như Kinh Thánh đã ghi, lại có toán quân Thổ đúng vào vị trí của quân Philistins. Tướng Allenby hành quân như Kinh Thánh đã chép và kết quả xảy ra như kinh đã ghi. Quân Anh toàn thắng, phá tan được quân Thổ ở Micmas.

    Đọc sách cho ta kiến thức đã đành còn cho ta những kinh nghiệm quý báu có những ích lợi bất ngờ.

    Năm 1948 tướng Irael là Yadin đang chống nhau với quân Ai Cập. Quân Ai Cập đang chiếm đóng ở vùng Nesguef. Tướng Yadin mở Kinh Thánh ra xem, thấy nói nơi vùng Mushr - fa có con đường nhỏ dẫn đến Nesguef nhưng hiện tại đã bị cây cối mọc chi chít. Yadin liền cho xe ủi khai hoang con đường đó, rồi bí mật xua quân tiến lên đánh phủ đầu quân Ai Cập. Trận này quân Ai Cập đại bại. 14 ngày sau quân Ai Cập bãi binh.

    Trong quyển The Ocean của Magellan (tức là Magalhaens) (nhà hàng hải Bồ Đào Nha) viết về các đặc điểm ở các đại dương: những nơi hiểm nghèo, những nơi bình yên (Magellan là người đặt tên cho biển Thái Bình Dương - Ocesan Pacifique). Đó là quyển sách gối đầu giường cho các nhà hàng hải đời sau.

    Ngay phía đông cửa biển Manila có hai hòn đảo, đảo phía ngoài rộng chừng 5 hecta cao hơn mặt nước 3m, bằng phẳng như sân bay tên là Icabra, hòn đảo phía trong cao lớn hiểm trở có doi đất thông với đảo Luzon, tên gọi là Luban. Nước nơi đây nhìn từ xa có màu xanh xanh của đại dương (giữa Icabra và Luban) nhưng sự thật nó chỉ sâu lối 1m. Khoảng cách giữa 2 đảo chừng 1km. Magellan đặt tên cho vùng đảo là Misfortuneland (đảo Định Mệnh). Nhiều tàu thuyền đã chìm nơi này vì mắc cạn.

    Thế mà từ khi ngành hàng hải sử dụng máy Diesel tính đến tháng 6 năm 1966 có đến 14 chiếc tàu trọng tải từ 10 ngàn tấn trở lên nạp mạng cho vùng kênh Misfortuneland này, vì các thuyền trưởng không chịu đọc sách, cứ thấy thuận tiện là xông vào!

    Nói là nói vậy thôi, đọc sách biết bao nhiêu cho đủ. Sách của năm châu có đến hàng tỷ bộ khác nhau. Từ khi loài người có văn tự đến nay quốc gia nào không sách? Riêng thư viện ở Boston có hằng triệu bộ sách!

    Các nhà văn lỗi lạc vẫn còn có chỗ nhầm lẫn. Một giai thoại kể về văn hào Tô Đông Pha sửa thơ của nhà đại cách mạng Vương An Thạch. Trong một bài của Vương có hai câu:

    Minh Nguyệt sơn đầu khiếu
    Hoàng Khuyển ngọa hoa tâm
    Tô Đông Pha đến nhà Vương An Thạch chơi, trong lúc Vương đang ngủ trưa, thấy trên bàn có hai câu như trên, ông Tô chép miệng:
    - Vương cũng đỗ tiến sĩ nhưng sao mà dốt vậy? Sao lại "trăng sáng hót trên đầu núi, chó vàng nằm giữa lòng hoa?"
    Tô cầm bút sửa "khiếu" ra "chiếu" và "tâm" ra "âm" để có nghĩa: "Trăng sáng chiếu đầu núi, chó vàng nằm dưới bóng hoa". Tô đắc ý bỏ ra về. Vương thức dậy biết việc, bỏ bụng cười thầm.
    Lúc đó Vương đang làm tể tướng triều Tống, cựu phái phản đối trong đó có Tô Đông Pha. Vương dùng luật pháp đày Tô xuống Hoàng Châu (Hà Bắc).

    Khi mới đến, những đêm trăng sáng có tiếng chim hót ríu ríu trên đầu ngọn núi gần đó khiến Tô không ngủ được liền bước ra ngoài xem trăng, hỏi người xung quanh mới hay loài chim đó có tên là "Minh Nguyệt". Và cũng ở nơi này có một loài hoa màu vàng khi nở ra năm nhụy hoa bên trong giống hình năm con chó nằm chụm đầu, được biết đó là hoa Hoàng Khuyển. Giá mà trước đây Tô đi qua xứ này, hoặc đọc các sách địa phương chí thì Tô không bị bẽ bàng.

    Nhà thơ Trương Kế đời Đường viết bài thơ "Bạc Phong Kiều" trong đó có câu:

    Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
    Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
    (Thuyền ai đậu bến Cô Tô
    Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San)​

    Đại văn hào Âu Dương Tu đời tống phê: "thi nhân thường có bệnh sáo ngữ, nhưng lý thì bất thông. Làm gì nửa đêm mà lại có tiếng chuông công phu của nhà chùa?"

    Về sau ông Diệp Mộng Đắc phê lại lời phê của Âu Dương Tu: "Có lẽ ông Âu chưa hề đến đất Ngô Trung (Tô Châu) nên không biết nơi này có lệ thỉnh chuông vào lúc nửa đêm."

    Trong "Đường Thi kỷ sự" cũng thấy ghi: "Ở Cô Tô quả có lệ giộng chuông công phu vào nửa đêm gọi là Vô Thường Chung, ông Trương ghi việc đó là điều thực, còn ông Âu cho là ngữ bệnh thì không phải."

    Đầu thế kỷ 20 học giả Hồ Thích phê: "Sách Nam sử có chép một bài thơ có tựa đề "Cảnh Dương lâu" (lầu Cảnh Dương) của Từ Võ Đế, bài ấy có nói đến "Chuông canh ba, chuông canh năm". Khi Ngô Cảnh Trọng làm Thái thú Ngô Trung đã ra lệnh cấm chuông nửa đêm. Các nhà thơ đời Đường như Bạch Lạc Thiên (Bạch Cư Dị), Ôn Đình Quân đều có nói đến "chuông nửa đêm". Ông Âu Dương Văn Trung có lẽ không truy cứu đến..."

    Đọc sách nhiều cho ta nhiều kiến thức và cũng rất nhiều thú vị. Lâm Ngữ Đường nói: "Người đọc sách cần phải có một đảm thức."

    Cổ ngôn Trung Quốc nói: "Đọc sách để sửa mình", nhưng J.Green lưu ý chúng ta: "Nhiều người đọc sách không phải để mở rộng hiểu biết mà để khuếch đại cái tôi nhỏ bé của mình".

    Ta biết, sách vở chính là thân xác của văn hóa. Người đọc sách chẳng những nâng cao kiến thức mà còn tự sửa mình để thích hợp với "con người văn hóa".

    Wilde nói: "Những quyển sách mà xã hội gọi là phi luân là những quyển sách cho xã hội tự thấy cái thô bỉ của nó. Rất là vô lý khi người ta đặt ra một quy luật khắt khe về những thứ được phép đọc và những thứ không được phép đọc. Họ đâu có biết được rằng, quá nửa của tri thức hiện nay thuộc về những cái không nên đọc đó."

    Văn hóa là sự kết tinh những gì do văn minh đem lại. Văn hóa là phần tinh túy của dân tộc. Đã liệt vào văn hóa tức là đã thừa nhận cái tinh hoa của mọi nền văn minh.

    Đọc sách tức là đọc các tiểu phẩm của văn hóa. Sách có quyển hay và có quyển không được hay hoặc không hay, nhưng nó cũng đều là thuốc. Nhà y dược cần phải biết sâu sắc những chất độc, chất bổ đó mới gọi là tinh diệu. Vô số thuốc độc người ta dùng để chữa bệnh.

    Người đọc sách còn có thể hòa hợp tâm tưởng của mình vào trong ý và lời của tác giả, tự mình có thể thì thầm với tác giả, có thể phản đối hay khâm phục.

    Tóm lại, muốn nâng cao tâm hồn mọi người đều phải cố gắng dành riêng cho mình một khoảng thời gian nào đó để đọc sách. Muốn tiến bộ thật sự, mấy nguyên tắc về cách đọc sách phải nắm vững:

     
    Hoa Nguyệt Phụng, Annie DinhTiên Nhi thích bài này.
  9. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    LỜI HỨA

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong phép giao tế hàng ngày thỉnh thoảng bạn thường sử dụng đến lời hứa. "Chiều thứ 7 tuần này em sẽ đến thăm anh."

    "Anh yên tâm món nợ đó tôi sẽ thanh toán vào cuối tháng này."

    "Ồ được! Tôi sẽ giao chiếc xế hộp của tôi cho anh để anh chở chị đi chơi."

    "Con xin hứa với ba má từ đây con sẽ không bao giờ đến các hí viện nữa."

    Đó là những lời hứa hẹn, nhưng có thực hiện hay không còn tùy theo tâm lý và hoàn cảnh của mỗi người nữa.

    Lời hứa có tính chất nghiêm trọng và quyết tâm sẽ biến thành lời thề. Dù lời hẹn, lời hứa hay lời thề đều mang một tính chất chung là hướng việc phúc đáp ấy đến một tương lai gần.

    Thật tình mà nói, về phương tiện sống ngày nay khác hẳn với ngày xưa. Ngày nay sự việc như những biến cố xảy đến một cách dồn dập. Nếu nhà bạn có điện thoại bạn sẽ nghe những cuộc hẹn hò hoặc những lời xin lỗi "rất tiếc.." xảy ra hàng ngày. Đôi khi ta không muốn thất hứa với ai, nhưng vì tin vào lời hứa của một người khác.. cuối cùng xảy ra một cuộc thất hứa dây chuyền. Nghĩ cũng lạ, ngay trong cơ thể mình có ai biết con mắt sẽ nháy bao giờ?

    Cứ bình thản mà nghiệm: Những cuộc hứa hẹn về tình yêu, những cuộc hẹn hò về nợ nần, những lời hứa hẹn về sự giúp đỡ.. xưa nay mấy khi người ta phúc đáp như ý? Bạn cũng như tôi, chúng ta đều không muốn thất hứa, thế nhưng có những biến cố bất ngờ can thiệp vào nên đành "tùy biến nhi quyền" (theo việc biến mà thay đổi).

    Tiền nhân chúng ta rất tôn trọng lời hứa, thành ra họ ít dám hứa. Người Tây phương ngày nay vẫn giữ được "phong vị hiệp sĩ" của họ. Họ giữ lời hứa đến nơi đến chốn lắm. Đó là tinh thần văn minh và nhân bản. Không phải chúng tôi cố tình đề cao họ. Chúng ta phải khách quan mà nhận xét mới học được những tinh túy của người.

    Những chuyện "thề non hẹn biển" đời nào cũng nhiều, nơi nào cũng nhiều nhưng phần lớn chỉ là sự lợi dụng. Việc yêu đương ngày nay cũng khác với ngày xưa rất nhiều, nên cuộc hứa hẹn "trăm năm" (nếu không có gia đình hai bên đứng ra bảo chứng) chỉ là "tấn tuồng dâu biền" xảy ra trong chớp mắt. Thơ văn bây giờ nói lên nhan nhản những điều đó.

    Việc hứa trăng hứa cuội nào phải chỉ trong tình yêu, trong sự giao tế bình thường "trăng gạt cuội" cũng đầy rẫy không đếm được. Nếu bạn là người bị gạt thì không nên trách người kia. Cứ coi đó là chuyện hợp tan "hợp tan".

    Thói vui đâu chúc đó của người đời ta còn lạ gì! Chuyện muốn bàn ở đây là chuyện giữa tôi và bạn. Chúng ta tự dặn mình nên thận trọng lời hứa hẹn và cũng nên thận trọng về những lời hứa của người khác. Đã đành mười lời hứa cũng có vài ba lời hứa đúng, nhưng những lời hứa không đúng ai đền bù cho đây?

    Đức Khổng Tử là bậc Thánh nhân thế mà vẫn phải "linh động" về lời hứa.

    Trong sử ký, sử gia Tư Mã Thiên (Tiền Hán) có chép một đoạn về Đức Khổng Tử:

    Khổng Tử đi qua đất Bồ, người đất Bồ vây đánh ông. Học trò ông có người tên là Công Lương Nhụ ra sức chống cự với họ. Hai bên đánh nhau rất hăng. Người đất Bồ kêu Khổng Tử nói:

    "Nếu ngài hứa không qua nước Vệ thì chúng tôi thả ngài tự do."

    Khổng Tử cam kết với họ là không qua Vệ. Khổng Tử và người đất Bồ uống máu ăn thề (để làm tin). Sau đó, Khổng Tử đi về phía đông sang nước Vệ. Đệ tử của ông là Tử Cống hỏi:

    "Thầy có thể bỏ lời thề được sao?"

    Khổng Tử nói:

    "Nào ý ta muốn thề, họ ép ta thề đấy chứ? Quỷ thần nào chứng lời thề này?"

    Trong lúc bị ép uổng thì lời thề, lời hứa nào có giá trị gì! Gặp cảnh đó chúng ta không còn đường lựa chọn thì còn con đường nào từ chối? Cho nên "tùng ngộ nhi an" là thượng sách.

    Cho đến những đại danh nhân trong lịch sử vì danh lợi mà phải bán đứng cả danh dự mình, nuốt lời hứa như nuốt thuốc bổ. Chẳng hạn tay thuyết khách lỗi lạc Trương Nghi nói với vua Sở Hoài Vương trước sân triều: "Nếu nhà vua tuyệt giao với Tề, thì nước Tần sẽ tặng cho Sở 600 dặm đất Thương Ô!"

    Sở Hoài Vương nghe lời. Trương Nghi quịt!

    Lịch sử chính trị thế giới cũng đầy rẫy những kẻ bội tín!

    Trong chữ tín, chúng ta cần phải nghiêm khắc với chính mình càng ít thất hứa càng tốt. Điều quan trọng là đừng bao giờ hứa với trẻ nhỏ mà không làm. Chúng ta lấy gương bà Mạnh mẫu mà soi.

    Bà Mạnh mẫu một hôm nói đùa với con: "Nhà bên làm heo để lấy thịt cho con ăn đấy."

    Mạnh Kha đi học. Mạnh mẫu chợt nhớ lại lời đùa, bà không nỡ để con phải nghe lời không thật, liền đem con heo nhỏ của mình ra giết đi để lấy thịt cho Mạnh Kha dùng. Về sau Mạnh Kha thành một đại nho, tư cách không kém gì Đức Khổng Tử, người đời tôn ông là bậc á thánh.

    Ngoài tài năng chúng ta cần phải trau dồi đức hạnh. Một trong những hạnh kiểm lớn là sự thủ tín. Bởi vì sự thất tín cũng gần giống như sự lừa đảo.

    Chúng ta không đóng vai một ngụy quân tử, cũng không nên nói theo kiểu bi quan: "Đời bây giờ có ai thủ tín đâu mà bảo ta thủ tín."

    Bởi vì người đoàng hoàng bao giờ cũng bị thiệt thòi. Nhưng thà chúng ta cam chịu sự thua thiệt về vật chất (mà thật ra không chắc gì có sự thua thiệt), nhưng chúng ta đừng đánh mất thanh danh. Chúng ta cần có gương tốt cho con em chúng ta. Chúng ta giàu lòng vị tha, thì việc giữ tròn lời hứa cũng là đức vị tha đó.

    Cần ghi nhớ:

     
  10. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    TÍNH CAN ĐẢM

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tính can đảm không phải dùng để đánh ai, mà dùng nó để bảo vệ cho mình và cho người. Tính can đảm cần phải được rèn luyện, tập sự và thử thách. Mọi lứa tuổi đều rèn luyện được.

    Người lớn tuổi rèn luyện bằng cách nào? Dễ lắm! Bạn hãy ôn lại quãng đời của bạn, bạn thật sự nhút nhát hay can đảm? Nếu bạn thấy mình không nhút nhát mà cũng không can đảm, đó chính là bạn nhút nhát đó.

    Và hãy xem, trong việc nhút nhát ấy bạn thấy có ích gì? Hay là thấy thiệt thòi về danh dự? Thiệt thòi về mọi mặt? Không! Bạn hãy thành thật với lương tâm bạn đi. Đừng chống chế, đừng viện lẽ. Phải nhớ một điều tối quan trọng: Người đủ đức dũng mới đủ sức tha thứ cho người khác, mới đủ sức nhường nhịn người khác mà không hề có sự nóng giận, còn người hèn nhát thì "cam chịu nhục" mà lòng vẫn còn uất ức. Hèn hay dũng không ở chỗ nhịn mà ở chỗ nóng giận hay không nóng giận.

    Cổ nhân có câu: "Nhẫn được mới là đại dũng". Khi bạn thừa sức đối đầu với người kia, nhưng bạn vẫn mỉm cười với họ, chịu nhường nhịn cho họ một bước mà lòng không hề có sự bực tức, lại cảm thấy thích thú vì đã làm được việc thiện, đó mới là can đảm.

    Xin nói một lời: Cuối cùng rồi ai cũng phải chết, chỉ có can đảm mới là bất tử!

    Can đảm chứ không phải liều mạng. Can đảm là lòng ung dung tự tại, đối với kẻ nghịch thì tha thứ, đối với thú dữ thì dùng mưu trí mà diệt, đối với nghịch cảnh thì bình tĩnh đem trí tuệ ra đối phó, đối với nỗi oan dẫu biện bạch cũng vô ích, thì tốt hơn nên lặng thinh! Bạn cho rằng đây chỉ là lý thuyết suông?

    Năm 1963, trên Bán nguyệt san Phổ thông ở miền Nam, ông Nguyễn Văn Ba có ghi lại một truyện nội dung như sau: Tại thị trấn Bồng Sơn (tỉnh Bình Định) có một nhà sư vào khất thực một nhà dân nằm ven quốc lộ I, lúc ấy chủ nhà là một thiếu phụ đang ở trong phòng tắm, chỉ có đứa bé gái 6, 7 tuổi đang chơi trước sân. Nhà sư đứng đợi chủ nhà ra. Chủ nhà tắm xong bước ra chào nhà sư rồi cấp cơm tiền cho nhà sư, chợt bà hỏi đứa bé: "Chiếc nhẫn của mẹ đâu?"

    Đứa bé ngơ ngác một lúc rồi chỉ nhà sư. Thiếu phụ chắp tay nói: "Khi tôi tắm có giao chiếc nhẫn hai chỉ cho cháu giữ, thầy có nhặt được xin cho lại."

    Nhà sư để tay lên ngực nói: "Mô phật! Bần tăng không hề nhặt được!"

    Chủ nhà làm dữ, nhà sư vẫn "Mô Phật". Lúc ấy, Phật giáo bị chính phủ đàn áp. Người lối xóm và đám "Thanh niên cộng hòa" chạy đến, họ đánh đập dã man nhà sư đó, bình bát cơm bị đổ, họ lột tấm nạp y của nhà sư lục vẫn không có nhưng họ vẫn đánh nhà sư đến bầm dập!

    Người mẹ nhiều lần hỏi lại con mình, đứa bé vẫn nói "ông thầy lấy". Sân nhà bằng đất thịt nện chắc, dĩ nhiên chiếc nhẫn không hề lún dưới sân. Lúc bấy giờ viên cảnh sát cũng vừa đến, đòi đưa nhà sư về đồn. Lúc đó chiếc xe nhà binh chạy qua cán chết một con ngỗng đực, còn con ngỗng mái tránh khỏi. Nhà sư bấy giờ mới nói:

    "Chiếc nhẫn ở trong bụng con ngỗng kia, tôi thấy nó xớt chiếc nhẫn trên tay cháu gái, nhưng tôi chụp lại không kịp."

    Người ta mổ diều con ngỗng ra quả có chiếc nhẫn. Ai nấy đều ngậm ngùi. Có người hỏi: "Sao khi nãy thầy không chịu nói sớm để người ta khỏi đánh thầy?"

    "Mô Phật! Thà bần tăng chịu hình phạt, nếu chỉ cho con ngỗng thì người ta sẽ làm thịt nó mất!"

    Chuyện này thấy đăng trên báo nước ngoài có tựa đề "Un bonze" dịch từ báo Phổ thông. Đức tính của nhà sư đã vượt qua sự can đảm. Thiên nhiên vẫn có tính công bằng. Chỉ có lòng dũng cảm thật sự mới chiến thắng được mọi nghịch cảnh. Nếu bạn chưa thật can đảm, khi gặp một người hung dữ hay một nghịch cảnh bạn sẽ sợ sệt hoặc mất bình tĩnh, hoặc nóng giận, uất ức mất đi phần sáng suốt để đối phó với vấn đề.

    Xin kể thêm một chuyện:

    Tần Thủy Hoàng là một bạo chúa từng chôn sống 460 nho sĩ, từng ra lệnh "tàn sát" những kẻ tài ba trong thiên hạ. Dân chúng sáu nước đều căm giận nhà Tần. Nước nào cũng ngầm tính toán chống lại nhà Tần nhưng chưa dám khỏi sự.

    Bậc anh tài chết nhiều như lá thu rụng. Hàn Tín là bậc hiền tài kiệt xuất nhất thời đó. Tên bán thịt ở chợ thấy Hàn Tín đói khổ mà lại hay mang kiếm đi rong ngoài đường, hắn tức khí muốn làm nhục Hàn Tín, liền kêu Hàn Tín nói:

    "Tín! Mày mang kiếm, mày có dám giết tao không? Nếu không dám giết thì luồn dưới trôn tao mà đi qua."

    Một thoáng suy nghĩ, Hàn Tín ung dung luồn trôn tên bán thịt đó rồi bỏ đi. Người ở chợ cười rộ, khinh bỉ Hàn Tín là tên bất cố vô sỉ. Về sau Hàn Tín làm nguyên soái cho Hán Lưu Bang diệt được Hạng Vũ, được nhà Hán phong vương. Hàn Tín gọi tên bán thịt trước kia làm nhục mình đến phong chức cho hắn, nói:

    "Ngươi xem, Hạng Vũ oai võ thế kia quân cả trăm vạn ta còn trừ được huống gì một kẻ tầm thường như ngươi? Ta dư sức giết ngươi mà không thèm giết chỉ vì ngươi không đáng giết. Vả lại ta muốn giấu ta, giấu tấm thân hữu dụng này để ngày sau còn giúp cho đời."

    Hàn Tín là bậc hiền tài, mình mang tuyệt học đã thỏng tay vào chợ chả khác gì một thiền sư. Hàn Tín là bậc đại dũng cổ kim ít có người sánh bằng. Đó đáng gọi "nhẫn là đại dũng".

    Chắc bạn nghĩ rằng: "Mấy người kia họ có võ nghệ nên họ mới can đảm!"

    Nghĩ vậy là lầm! Võ nghệ chỉ yểm trợ phần nào cho sự can đảm mà thôi! Võ nghệ không thể sánh với lòng can đảm được. Biết bao người sức trói gà không chặt mà thừa lòng can đảm, đến nỗi những kẻ đầy võ nghệ, đầy uy quyền cũng vẫn khuất phục.

    Xin dẫn ra ví dụ khác:

    Tần Thủy Hoàng sai người đến bảo An Lăng quân: "Vua ta muốn đem 500 dặm đất để đổi lấy đất An Lăng, mong ngài hãy bằng lòng."

    An Lăng quân không chịu nói: "Cảm ơn nhà vua đã gia ân. Đất tôi dù có 50 dặm nhưng vẫn là đất của tổ tiên để lại, không thể vâng mệnh!"

    Vua Tần nổi giận, sửa soạn cất quân đi đánh. Bấy giờ có một người áo vải (bần dân) già nua tên là Đường Thư vào xin An Lăng quân để đi sứ sang thuyết vua Tần.

    Vua Tần nói: "An Lăng quân khinh ta chăng mà không chịu đổi 50 dặm để lấy mảnh đất rộng gấp mười? Cỡ như Hàn, Ngụy ta còn diệt huống gì đất An Lăng?"

    Đường Thư nói: "Không phải! An Lăng quân nhận đất của tiên vương nên phải giữ, dẫu nhà vua đem ngàn dặm cũng không đổi chứ đừng nói 500 dặm."

    Vua Tần nổi giận trợn mắt hỏi Đường Thư: "Tên già ngu ngốc kia, ngươi có biết thiên tử giận thì sao không?"

    "Thì sao?"

    "Thiên tử mà giận một cái thì thây phơi trăm vạn, máu loang ngàn dặm."

    Đường Thư ôn hòa hỏi lại: "Đại vương có biết hạng áo vải nổi giận thì sao không?"

    Vua Tần lồng lộn lên đáp: "Tụi áo vải mà giận thì chỉ lột mão cởi dép dập đầu mà lạy!"

    Đường Thư nhếch mép cười:

    "Cũng có thật! Nhưng đó chỉ là bọn thất phu! Chứ kẻ sĩ giận thì khác. Lúc Chuyên Chư đâm Vương Liễu thì sao chổi lấn át mặt trăng, lúc Nhiếp Chính đâm Hiệp Lũy thì cầu vồng trắng vắt ngang qua mặt trời, lúc Yếu Li đâm Khánh Kỵ thì chim ưng xanh đá nhau trên điện. Ba vị đó đều kẻ sĩ áo vải, lòng nén uất nên trời mới hiện lộ những điềm như vậy. Nay sắp có thêm tôi nữa là bốn. Kẻ sĩ mà nổi giận thì thây nằm hai cái, máu loang năm bước, thiên hạ để tang, tức là hôm nay!"

    Nói rồi tuốt gươm đứng lên. Vua Tần sợ quá nhũn người quỳ xuống tạ lỗi: "Thôi, thôi! Mời tiên sinh ngồi! Làm gì đến nỗi vậy! Quả nhân hiểu rồi! Hàn, Ngụy bị diệt mà An Lăng quân chỉ có 50 dặm đất mà vẫn giữ được chính là nhờ có tiên sinh đó!"

    Quả như lời Cousin nói: "Kẻ can đảm là kẻ bình tĩnh nhất trong lúc nguy cấp."

    Đạo Phật chủ trương từ bi. Châm ngôn của Phật tử là bi, trí, dũng.

    "Dũng" chính là gan dạ. Tuy rằng không đánh ai nhưng không sợ ai ức hiếp mình. Trong phép bố thí của nhà Phật có hạnh "vô úy thí" (không sợ khi phải hy sinh) dẫu trong lúc ngặt nghèo vẫn coi xác thân là vật tạm bợ, sẵn sàng hy sinh xác thân để "cúng dường Tam Bảo".

    Hồi tiền bán thế kỷ 20, ở ẤN Độ có phong trào tranh đấu bất bạo động của Thánh Gandhi giành độc lập cho nước nhà. Gandhi đem xác thân đặt trước lưỡi lê và họng súng của kẻ thù, mặc cho kẻ thù muốn đâm muốn bắn tùy ý. Dũng là chỗ đó. Không phải dùng vũ lực đàn áp họ gọi là dũng.

    Chết là điểm cuối cùng của con người mà vẫn không sợ thì còn sợ gì?

    Đó là chúng ta nói đến sự thể cuối cùng như vậy. Sự thật trên đời không ai công nhiên dám giết ta, dẫu kẻ đứng trước mặt ta là một tên sát nhân chăng nữa. Trường hợp đó nếu ta có thái độ rụt rè do dự, van xin lạy lục là chúng ta rước lấy cái tai vạ.

    Không bút nào thuật lại cho hết lòng can đảm của con người. Chúng ta cần ghi nhớ mấy điều:
     
    Hoa Nguyệt Phụng, Annie DinhTiên Nhi thích bài này.
  11. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    TIỀN BẠC

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tiền bạc là vị sứ giả làm trung gian trao đổi các vật giùm cho mọi người, đó là ý nghĩa ban sơ của nó.

    Khi loài người phát triển sinh hoạt về mọi mặt thì ý nghĩa của tiền bạc thay đổi theo một cách tích cực hơn, tinh vi hơn. Chính tiền bạc đã phân chia xã hội ra làm nhiều đẳng cấp và hầu hết mọi người đều bị nó chi phối, và nó chi phối đến tận cùng của tâm tưởng!

    Do đó tiền bạc luôn đồng nghĩa với với địa vị, danh vọng, quyền thế.. Nó đồng nghĩa với mọi thứ có khả năng "làm nên cuộc đời". Tiền bạc có khả năng tạo dựng nên một nền văn minh vật chất, nhưng nếu người ta không tự kiềm chế lấy tâm hồn mình, không để tinh thần hướng thượng, thì tiền bạc cũng có khả năng hủy hoại tâm hồn trong sáng của con người.

    Với cái tâm vọng động dù bạn đem tiền bạc ra bố thí cho người nghèo thì cũng không có nghĩa là bạn đã làm được một điều thiện.

    Tâm lý người đời có nhiều điểm thật khó hiểu. Cũng thì đem tiền cúng chùa, nhưng nhiều người thích đem tiền đến những chùa to lớn mà cúng, mà những chùa nhỏ nghèo nàn dù ở gần bên cạnh nhà họ không bao giờ để mắt đến. Họ dùng ngay cả tiền bạc để đầu tư cho kiếp sau!

    Nên đến với người bằng cái tâm vô phân biệt mới thật sự xúc động. Bởi vì tiền bạc tự nó phân chia được xã hội thành nhiều đẳng cấp, thì hình ảnh nó bên trong mỗi người là một sự chấp trước.

    Henrik Issen nói: "Tiền bạc có thể cho chúng ta rất nhiều về cái bì phu bên ngoài, chứ không ở trong nội tâm. Nó cho ta nhiều thức ăn chứ không phải ngon, cho ta nhiều thuốc men chứ không phải sức khỏe, cho ta nhiều người quen biết chứ không phải là thân thiết, cho ta nhiều người hầu hạ chứ không phải trung thành, cho ta nhiều cuộc vui chứ không phải hạnh phúc."

    Sự trọng vọng do đồng tiền mang đến không dành riêng cho một ai, nó chung cho tất cả mọi người. Người ta dùng tiền bạc để làm ra vẻ đài các. Tiền bạc là vật vô thức mà có sức sai khiến loài hữu tình như chúng ta phải quay tít như một cái vụ, đến nỗi phải đối xử tệ bạc với nhau, giết chóc nhau!

    Người ta dùng tiền vì tiện nghi thì ít, mà dùng tiền để làm se sua để hơn người, để khinh miệt người, để đày đọa người thì nhiều. Đó là sự chấp ngã.

    Chấp ngã vì sự cô đơn, vì sự thua thiệt về thể diện, sợ bị coi thường. Đó là sợ hãi. Chính sự sợ hãi đã đưa con người tìm đến một sự cảm thông nơi kẻ khác để kết thành phe cánh, bằng nhiều phương tiện, mà phương tiện dễ dàng nhất là tiền bạc! Người ta yếu đuối đến thế. Một người có hình vóc, có suy tư mà bị yếu đuối trước tiền bạc, mới nghe như một nghịch lý, nhưng thật ra đó là việc nhan nhản trước mắt mọi người, nhiều đến nỗi người ta không thấy được.

    Bạn đã từng thấy có ai dùng tiền bạc mà xóa hết sự phiền não không? Có ai dùng tiền bạc mà giữ thời gian lại được không? Có ai dùng tiền bạc kéo ngược tuổi già trở lại thời trai trẻ xuân xanh không?

    Lời tục: "Có tiền mua tiên cũng được" hoặc nói: "Nhất chơi tiên nhì giỡn tiền", có ý nói đến mãnh lực của đồng tiền, lại cũng có ý nói đến những kẻ thô tục, ngạo mạn.

    Vâng, tiền bạc có thể mang đến sự vui thích có giới hạn theo khả năng cạn cợt của những kẻ nhẹ dạ. Họ không thể có được những tư duy bùng nổ như một người chợt tỉnh.

    Họ bị tiền bạc nhấn chìm đến tận cùng của hố tội lỗi. Cái khổ của những người thiếu tiền bạc là nỗi khổ của sự chấp nhận và càng khổ hơn nữa khi những kẻ giàu có cố tình gây nên cái đạo ải cho người nghèo.

    Nhưng hóa công cũng rất công bình, kẻ giàu có càng khổ tâm nhiều hơn nữa. Những kẻ giàu có định hướng cho tiền bạc có đến hàng chục con mắt: Con mắt bóc lột những kẻ vốn đã nghèo, con mắt trèo cao để làm quen với những nhân vật đầy quyền thế, con mắt của sự xa hoa làm ra vẻ nhà quý tộc mà tâm hồn họ là cả một sự rỗng tuếch, con mắt của sự keo bẩn..

    Nếu họ có bố thí ai một đồng tiền, thì khi đứng trước bàn thờ cầu nguyện họ nhắc lại việc bố thí ấy cho quỷ thần biết, để quỷ thần giúp đỡ họ nhiều hơn của thừa họ đã bố thí.

    7 năm khổ hạnh nơi rừng già, Thái tử Tất Đạt Đa nào biết mua bán với ai? 49 năm thuyết pháp của Đức Thích Ca là 49 năm không nhà, đầu trần chân đất cũng không có lấy một đồng trong tay, nhưng thế gian phải kính Ngài như là Thần Phước Điền.

    Trong tập hồi ký của cụ Phan Bội Châu có viết về một vị thầy tu ở Nam bộ, dân lục tỉnh gọi thầy là: Đạo Rau.

    Thầy muốn đi Thiên Trúc "thỉnh kinh" nhưng nghĩ rằng mình không có tiền thì không làm sao đi tới nơi được, thầy bèn tập ăn rau, ăn lá để thay cơm. Sau khi luyện quen rồi thầy một mình đi thuyền tới Thái Lan và gặp cụ Phan ở đó. Sau đó thầy đi Ấn Độ, Nepal, Tây Tạng, Trung Quốc rồi trở lại Thái Lan và gặp lại cụ Phan. Thầy vẫn ăn rau, không ăn cơm, không dùng tiền. Tuy là người thoát tục, nhưng thầy cũng là một thành viên hoạt động cứu nước ở hải ngoại.

    Chúng ta là một người trong cộng đồng xã hội, có gia đình chúng ta không thể không dùng đến tiền bạc. Chúng ta rất cần tiền trong mọi sinh hoạt, có nó chúng ta mới làm ra của cải, góp sức với xã hội để tạo nên sự ổn định, nhưng chúng ta quyết không để nó chi phối, mà chúng ta phải điều khiển nó theo ý muốn của mình.

    Muốn được vậy hãy nên đối xử bình đẳng với mọi người. Tự coi lương tâm mình là một vị quan tòa. Giàu hay nghèo là do tài năng của mình thêm vào đó cái lương tâm và cơ hội.

    Lắm người có tài mà vẫn nghèo chớ vội than trách hoặc cay ghét những kẻ giàu có xung quanh, mà phải xem lại tư cách của mình. Cuối cùng mặt sinh hoạt vẫn túng kém, thì phải dùng đến biện tiết kiệm. Người Tây phương có câu: "Tiết kiệm chính là sản xuất" (l'Economie c'est la production), phải lấn tới từng bước khó khăn như những người chèo thuyền trên dòng nước ngược, đừng bao giờ "kết tội" tiền bạc. Đừng cho là tiền bạc có linh hồn, và cũng đừng khinh rẻ tiền bạc, vì đó là thói chửi đời, đó là thói phản tiến bộ và ích kỷ.

    Tôi thấy trong những tiệm buôn lớn của người Hoa, khi họ đếm tiền gặp tờ 200 đồng (VN) hơi rách thì họ dán lại, nhàu thì họ vuốt đi vuốt lại cho thẳng để vào từng cọc thật thứ tự. Đừng tưởng làm vậy là hèn, là keo kiệt, không đâu dù 200đ cũng là tiền và có luật pháp bảo chứng, năm tờ 200đ đổi được tờ 1000đ. Và họ là những nhà tỷ phú. Người Hoa có tinh thần sinh hoạt xã hội rất tích cực. Cộng đồng người Hoa rất đoàn kết. Người Hoa nào nghèo túng thì cộng đồng người Hoa giúp phương tiện cho người nghèo kia để ăn nên làm ra.

    Lời tục nói: "Đồng tiền nối liền khúc ruột" là có ý dặn ta biết kiếm được đồng tiền khó lắm, nên phải tiêu thật cẩn thận. Tiêu tiền đúng cách là tránh cái tội lạm phí, không có ý bảo ta bo bo giữ tiền như tên "mọi giữ cửa", mà phải ung dung sử dụng nó như một cộng tác viên đắc lực của mình phải có chút máu nghĩa hiệp và nhân đạo.

    Chúng ta là những người giàu có hoặc khá giả thì không nên phung phí tiền một cách vô tội vạ và cũng không nên keo kiệt như những tên bá hộ thời phong kiến.

    Vậy thì khi chúng ta là những kẻ nghèo không nên giấu số phận, mà cứ sống vui vẻ, thản nhiên sống, sống tích cực sống cố gắng.

    Tản Đà, Trần Tế Xương, Vũ Trọng Phụng có lần "van nợ lắm khi tràn nước mắt", còn Nguyễn Công Trứ thì: "Đến bữa chưa sẵn bữa trẻ con khóc dường ong, qua kỳ lại hẹn kỳ nhà nợ kêu như ó". Những vị đó tuy nghèo nhưng vẫn sang, vì họ biết cách "vong bần lạc đạo" (quên cái nghèo để vui với đạo). Họ chính là những danh nhân của nước ta.

    Thế giới biết bao nhiêu người nghèo khổ mà trở thành vĩ nhân, bởi vì họ rất tự tin, thương người và yêu đời.

    Đại thi hào Đỗ Phủ bần hàn từ thuở sơ sinh cho đến ngày tạ thế, ông vẫn an nhiên mà vui sống. Văn hào Phạm Trọng Yêm (Tống) đói đến nỗi phải giành một khúc xương khi con chó lôi trộm của mình, triền miên ăn cháo nhưng vẫn học tập.

    Đại văn hào H. Balzac có khi nhịn đói cả mấy ngày vẫn tiếp tục sáng tác và làm việc. Văn hào Dostojevsky (Nga) tuy nghèo nhưng vẫn thương người nghèo, thường nhịn ăn để giúp đỡ kẻ đói.

    Văn hào Mark Twain sống trôi nổi đây đó, cái nghèo vẫn ở chung với ông bằng chu kỳ của sao chổi Halley.

    Thế giới vẫn có vô số nhà giàu mà nhân hậu, thậm chí có người cao hứng phân tán tài sản của mình để nếm mùi vị của người nghèo.

    Nói chung giàu hay nghèo ta nên sống bình tịnh ung dung. Khinh rẻ tiền bạc hoặc keo bẩn, hận thù tiền bạc đó là thói khinh đời. Phải chấp nhận nó như chấp nhận một kẻ trợ tá của mình, hãy đối xử với người trợ tá ấy có đạo lý. Được vậy tiền bạc mới ở với bạn một cách bền bỉ và trung thành.

    Luận về tiền, chúng ta ghi nhớ mấy điểm:
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...