Trung tướng tôn thất đính - Chuyên gia trở mặt

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi giangphamha, 11 Tháng chín 2021.

  1. giangphamha

    Bài viết:
    33
    Tôn Thất Đính sinh ngày 20/11/1926 tại Huế, Thừa Thiên trong một gia đình Tôn thất nhà Nguyễn có truyền thống hiếu học. Thời niên thiếu, ông ta học tiểu học và trung học ở Huế, năm 1944 ông tốt nghiệp Trung học Phổ thông với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Sau đó ông ta lên ở với người anh cả là ông Tôn Thất Đĩnh ở Đà Lạt, tại đây ông ta trúng tuyển kỳ thi ngạch Thông phán (Thư ký Hành chính) và được tùng sự tại Tòa Công sứ Đà Lạt.

    Tháng 8/1945, Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Việt Minh lãnh đạo nhân dân cả nước nổi dậy giành chính quyền từ tay Nhật trên cả nước, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ít lâu sau, thực dân Pháp núp bóng quân Anh dưới danh nghĩa Đồng minh vào giải giáp quân Nhật trở lại xâm lược Nam Bộ rồi tiến ra miền Bắc. Thời gian đầu Đính tham gia kháng chiến chống Pháp trong hàng ngũ Việt Minh, tuy nhiên không lâu sau, sau khi mặt trận Đà Lạt - Đơn Dương tan vỡ, ông ta lại bỏ trốn về Đà Lạt, ẩn náu trong nhà người anh. Để tránh bị bắt bớ giam cầm, ông ta xin làm Thư ký cho Ty Cảnh sát Pháp. Nhưng đầu năm 1948, Đính bị phát hiện từng tham gia Việt Minh chống Pháp nên bị chính quyền Pháp bắt giam. Nhờ sự bảo lãnh của người anh trai, bấy giờ đang là một chuyên viên đang làm việc tại Viện Pasteur Đà Lạt, ông được thả tự do với cam kết không được tham gia các hoạt động chống Pháp.

    Trong một chuyến về thăm gia đình tại Huế, Đính gặp được một người quen cũ là Đỗ Mậu, bấy giờ đang làm Trưởng phòng 3 Bộ Tham mưu Việt binh Đoàn tại Huế, một Lực lượng Quân sự bổ sung (forces supplétives) của quân đội Pháp. Do sự giới thiệu của ông Mậu, Đính gia nhập Việt binh Đoàn. Sau khóa đào tạo Hạ sĩ quan tại Mang Cá (Huế), Đính được phân bổ về làm Thư ký ở phòng Bí thư Bộ Tham mưu với cấp bậc Trung sĩ.

    Tháng 10/1948, Chính phủ Pháp hỗ trợ cho Chính phủ Quốc gia Việt Nam (chính phủ tay sai của Pháp) mở trường đào tạo sĩ quan người Việt lấy tên Trường Sĩ quan Việt Nam ở Đập Đá, Huế với mục đích bổ sung sĩ quan cho Quân đội Liên hiệp Pháp. Với học lực Tú tài Pháp, Đính được cử theo học khóa 1 Bảo Đại, khai giảng ngày 1/10/1948. Ngày 1/6/1949 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông ta được chuyển đến trường Hạ sĩ quan An Cựu, Huế làm Huấn luyện viên. Giữa năm 1950, ông ta được chọn sang Pháp du học ở trường Kỵ binh Saumur (École de cavalerie de Saumur)

    Đầu năm 1951, mãn khóa học về nước, Đính được cử làm Đại đội trưởng Đại đội Ngự lâm quân đồn trú tại Thành Nội Huế. Năm 1952 ta, ông được thăng cấp Trung úy và được chỉ định làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 12 Việt Nam (12e BVN) kiêm Phân khu trưởng Phân khu Hòa Luật, Quảng Bình.

    Đầu năm 1953, Đính được thăng cấp Đại úy chuyển ra Bắc giữ chức vụ Tham mưu trưởng Liên đoàn Lưu động số 2 đồn trú ở Ninh Giang, Hải Dương. Tháng 7 cùng năm, ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức vụ Trưởng Phân chi khu Thái Bình kiêm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 22 Việt Nam (22e Bataillon du Vietnam - 22e BVN). Tháng 1 năm 1954, ông được thăng cấp Trung tá Tư lệnh Liên đoàn Chiến thuật số 31 Bộ binh tại Hải Dương thay thế Trung tá Nguyễn Quang Hoành. Tháng 4 cùng năm, bàn giao Liên đoàn 31 lại cho Thiếu tá Nguyễn Hữu Có, Đính được cử theo học khóa Chỉ huy Liên đoàn Chiến thuật cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Quân sự Hà Nội. Tháng 6 mãn khóa học, ông được cử giữ chức vụ Tư lệnh Liên đoàn Chiến thuật số 32 Bộ binh Việt Nam.

    Sau hiệp định Genève 1954, Đính cùng đơn vị di chuyển vào Nam, đóng quân tại Phân khu Duyên hải Nha Trang, liên tiếp chỉ huy đơn vị hành quân tiếp thu Bình Định, Quảng Ngãi, sau khi Lực lượng Việt Minh kháng chiến tập kết ra Bắc. Đầu tháng 8/1954, được sự giới thiệu của Trung tá Đỗ Mậu ông ta bí mật gia nhập Đảng Cần Lao Nhân vị và trở thành một thành viên tích cực ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm giành được quyền lực, được cử làm Ủy viên Quân ủy Trung ương. Ngày 1/2/1955, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Cùng thời điểm này Liên đoàn 32 Chiến thuật được tổ chức thành Sư đoàn 32 Bộ binh tại Đà Nẵng và ông làm Tư lệnh Sư đoàn.

    Người Pháp bại trận rút về nước, người Mỹ nhảy vào thế chân Pháp phá hoại Hiệp định Genève, ngăn chặn Hiệp thương Tổng tuyển cử thống nhất đất nước, dựng lên chính quyền Việt Nam Cộng hòa tay sai thân Mỹ do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống và nhanh chóng xây dựng lực lượng quân đội Việt Nam Cộng hòa để đàn áp cách mạng miền Nam. Thời gian đầu thấy gia đình anh em Diệm - Nhu có triển vọng quyền lực lớn hơn, Đính lại quay ra ca ngợi, ủng hộ Diệm và sau đó được anh em Diệm - Nhu coi là kẻ "thức thời" trong số các sĩ quan dòng dõi hoàng tộc. Tháng 7/1957, ông ta được lệnh bàn giao Sư đoàn 32 lại cho Trung tá Đặng Văn Sơn. Một tháng sau ông ta được cử đi du học lớp Chỉ huy và Tham mưu cao cấp tại Học viện quân sự Fort Leavenworth, Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ (niên khóa 1957-2, thụ huấn 16 tuần. Tháng 12 năm 1957, sau khi du học ở Mỹ về, Đính được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Dã chiến số 1, cùng năm này ông được cử đi du học ngắn hạn khóa Chỉ huy Hành quân hỗn hợp Binh chủng ở trường Cao đẳng Chiến tranh tại Okinawa, Nhật Bản. Đầu tháng 8/1958, ông ta được thăng cấp Thiếu tướng khi mới 32 tuổi và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II & Vùng 2 Chiến thuật thay thế Thiếu tướng Trần Ngọc Tám, sau khi bàn giao Sư đoàn Dã chiến số 1 lại cho Đại tá Nguyễn Văn Chuân.

    Dù có được sự sủng ái của Tổng thống Ngô Đình Diệm, Đính vẫn bị Cố vấn Nhu đánh giá là một người bốc đồng, tự cao tự đại và huênh hoang, ham thích rượu chè tiệc tùng, những yếu tố rất nguy hiểm cho một tướng lĩnh cầm quân. Bên cạnh đó, ông ta cũng dính vào một số cáo buộc về việc bao che cho người anh trai Tôn Thất Đĩnh độc quyền khai thác gỗ ở Cao nguyên Trung phần cũng như việc đưa người em Tôn Thất Đình làm sĩ quan văn phòng để không phải tham gia chiến đấu. Mặc dù vậy, ông ta vẫn được xem là không có tham vọng chính trị và đứng đầu sổ về lòng trung thành với Tổng thống Diệm. Sau vụ binh biến năm 1962 do 2 phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử thuộc Không lực VNCH lái 2 chiếc máy bay A1 Skyraider ném bom Dinh Độc lập. Ngày 7/12/1962, bàn giao Quân đoàn II lại cho Thiếu tướng Nguyễn Khánh, Đính được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn - Vùng III Chiến thuật thay thế Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm. Đến ngày 21/8/1963, kiêm Tổng trấn Đô thành Sài Gòn, giám sát khu vực xung quanh Đô thành. Với vai trò đó, ông ta trở thành một yếu tố quan trọng trong sự thành công hay thất bại của bất kỳ cuộc đảo chính nào. Có trong tay 2.500 lính Nhảy dù "thiên thần mũ đỏ", 1.500 lính Thủy quân lục chiến, 700 lính Quân cảnh (Cảnh sát quân sự). Ngoài ra, ông ta còn có liên hệ với Sư đoàn 5 bộ binh.. Chính Tôn Thất Đính trên cương vị của mình đã đề nghị Bộ Tổng tham mưu QLVNCH phân tán được 4 đại đội biệt kích dù đi các nơi, trước khi có cuộc đảo chính ngày 1/11/1963. Vì thế, khi đảo chính bùng nổ, lực lượng được coi là đặc biệt của chính quyền Ngô Đình Diệm coi như sạch bách, không còn một sức mạnh tác chiến nào dự trữ tại Sài Gòn..

    Cuối năm 1963, các sĩ quan cao cấp, vốn bị thất sủng, đã thuyết phục Đính kiến nghị Tổng thống Diệm trao cho Đính một chức vụ trong Nội các, Tổng thống Diệm cực lực phản đối vì cho rằng Tôn Thất Đính đeo lon Thiếu tướng đã là được trọng đãi quá rồi. Bất mãn khi bị Tổng thống Diệm khước từ, Đính bí mật gia nhóm các sĩ quan dự định đảo chính.

    Không nắm được những biến chuyển này, khi Tổng thống Diệm và em trai là cố vấn Ngô Đình Nhu biết được có một âm mưu đảo chính, đã lên kế hoạch một cuộc đảo chính giả nhằm bẫy đối thủ. Trong kế hoạch này, Đính đã được giao đóng vai trò quan trọng cốt yếu. Hai anh em Diệm - Nhu đều không ngờ rằng, toàn bộ kế hoạch phản đảo chính đều bị Đính thông tin cho nhóm đảo chính. Qua đó, nhóm đảo chính đã kịp thời bố trí các đơn vị trung thành với chế độ Ngô Đình Diệm ở xa bên ngoài Sài Gòn và điều các lực lượng nổi dậy về gần Sài Gòn sẵn sàng hành động.

    Ngày 1/11/1963, cuộc đảo chính nổ ra, chế độ độc tài gia đình trị họ Ngô bị lật đổ và anh em Diệm - Nhu bị quân đảo chính giết chết sau khi nhận ra một cách muộn màng sự phản bội của Đính. Ngày 2/11/1963, Đính được thăng cấp Trung tướng và được cử vào chức vụ Đệ Nhị Phó Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng kiêm Tổng trưởng An ninh trong Nội các của Chính phủ Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ sau khi bàn giao chức vụ Tổng trấn Sài Gòn lại cho Trung tướng Mai Hữu Xuân.

    Tuần lễ đầu của tháng 11/1963 đã mang lại cảm giác ngất ngây cho Tôn Thất Đính cũng như Trần Văn Đôn. Có lần hai viên tướng này ra dạo chơi quảng trường Lam Sơn đã được những kẻ hâm mộ quá khích công kênh lên như những người hùng của cuộc đảo chính 1/11/1963. Tuy nhiên, chỉ ba tháng sau, cốt khỉ lại hoàn cốt khỉ. Ngày 1/2/1964, do mâu thuẫn quyền lợi, tướng Nguyễn Khánh từ Pleiku đã lén về Sài Gòn tiến hành trót lọt cái gọi là "cuộc chỉnh lý" và Tôn Thất Đính cùng một số viên tướng bị coi là "trung lập" khác bị loại khỏi cuộc chơi lớn. Tôn Thất Đính bị đưa lên biệt giam tại Pleiku trong một thời gian.

    Trong suốt cuốn hồi ký "20 năm binh nghiệp" xuất bản trong cảnh lưu vong sau này, Tôn Thất Đính vẫn rất cay cú, oán hận Nguyễn Khánh về chuyện đó, nhưng đúng như một nhân chứng đã viết, sao ông ta không chịu khó phân tích, để thấy là, nếu Nguyễn Khánh không thực hiện cuộc chỉnh lý ngày 1/2/1964 thì thể nào cũng có một viên tướng khác làm, cũng do lệnh của các quan thầy Mỹ như Cabot Lodge hoặc Maxwell Taylor như họ đã từng ra lệnh để lật đổ triều đại nhà Ngô? Cũng giống như là vào những ngày cuối tháng 10/1963, Tôn Thất Đính và Trần Văn Đôn đã nhận lệnh của điệp viên CIA Conein để làm đảo chính triều đình nhà Ngô vậy! Đã làm phận tay sai thì phải chịu "rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn"!

    Tuy nhiên, là một kẻ trở mặt vào hàng cao thủ, sau này Tôn Thất Đính vẫn tìm đủ mọi cách để năm 1966, trở thành Tổng cục trưởng Quân huấn kiêm nhiệm Tổng thanh tra Quân lực, dù đó là những chức vụ chẳng có mấy quyền lực. Năm 1966, ông ta còn được giữ chức Tư lệnh Vùng I Chiến thuật khi có những sự cố liên quan đến phong trào đấu tranh của Phật tử. Nhưng vì ông cũng bất lực trước tình hình như 2 Tư lệnh tiền nhiệm là các tướng Nguyễn Chánh Thi, Chuân và có xu hướng ngả theo nhóm Phật tử cầm đầu vụ Biến động nên ông bị triệu hồi về Sài Gòn, thay thế ông là Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao. Giữa tháng 7 cùng năm, ông ta bị buộc phải giải ngũ khi mới 40 tuổi.

    Và trong giai đoạn 1967-1968, Tôn Thất Đính vẫn cạy cục để được đắc cử Thượng nghị sĩ trong Liên danh Hoa Sen rồi làm Chủ tịch ủy ban Quốc phòng Thượng nghị viện Sài Gòn. Thậm chí trong giai đoạn từ năm 1970 tới năm 1972, Tôn Thất Đính còn là Trưởng Khối Xã hội Dân chủ. Năm 1973, ông ta tái tranh cử và đắc cử Thượng Nghị sĩ nhiệm kỳ 1973-1979 do Dược sĩ Trần Văn Lắm làm Chủ tịch.

    Cà cuống chết đến đít còn cay, khi làm chủ bút tờ Công Luận, Tôn Thất Đính vẫn giữ cây gậy chỉ huy (bâton de commandement) từ thời còn làm tướng. Có bữa quá nóng giận, mất khôn, ông ta đã dùng cây gậy đó gõ lên đầu anh quản lý, không ngờ bị anh ta giằng được gậy đánh lại..

    Sau tháng 4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng và đất nước thống nhất. Tôn Thất Đính cũng như bao binh lính sĩ quan tướng tá VNCH phải rơi vào cảnh sống tỵ nạn nơi đất khách quê người. Nghe nói, trong những ngày di tản, khi tới đảo Guam, lúc nào Tôn Thất Đính cũng đóng kịch, giả vờ điên khùng, ngớ ngẩn, để gợi lòng thương xót và luôn luôn lo sợ các thuộc cấp cũ nổi khùng lên thượng cẳng chân cẳng tay cho bõ tức. Thế nhưng, khi đã ngồi ấm chỗ ở Mỹ, Tôn Thất Đính lại vẫn nổi máu háo danh lợi cũ, không chịu ngồi yên ăn năn hối lỗi vì những tội ác trong quá khứ mà vẫn để cho mình bị dụ vào những chức vụ hữu danh vô thực để tham gia các hoạt động chống phá Tổ quốc quê hương cho đến khi đi bán muối vào ngày 21/11/2013.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...