Huyền Ảo Thề Ước Đỗ Quyên - Sương

Thảo luận trong 'Truyện Drop' bắt đầu bởi Sương thuỷ tinh, 4 Tháng mười một 2020.

  1. Sương thuỷ tinh

    Bài viết:
    16
    Thề ước đỗ quyên

    Tác giả: Sương

    Tình trạng sáng tác: Đang sáng tác

    Thể loại: Huyền huyễn, thần thoại

    Độ dài: Chưa xác định

    Giới hạn độ tuổi: Không

    Link góp ý: (Thảo Luận - Góp Ý) Các tác phẩm của Sương

    [​IMG]

    Giới thiệu truyện:​

    Đỗ quyên là loài hoa gắn liền với núi rừng nơi ta sống, ta cực kỳ yêu thích. Nhưng không hiểu sao mỗi lần đến mùa đỗ quyên trắng, nhìn thấy những cánh hoa trắng muốt ấy trải dài một dải khắp núi đồi, tim ta lại đau đến như vậy.. Phải chăng mùa này, bệnh tim dễ tái phát, phải chú ý tọa thiền điều hòa khí huyết hơn mới được.

    * * *

    Ta chỉ là một tiểu hồ ly già nua xấu xí, sống ẩn dật nơi núi hoang để tu luyện lên cấp Đại Tiên. Có một ước nguyện nhỏ nhoi là trở thành Vương của muôn loài thuộc hệ Đất. Cớ làm sao lại có một chàng trai xuất chúng tìm đến tận đây để trách móc ta!

    "Nàng đã chạy trốn ta bảy nghìn năm."

    "Ta cũng trọn bảy nghìn năm tìm kiếm nàng."

    "Chúng ta đừng chơi trò trốn tìm nữa được không? Hãy nghĩ đến lời thề ước đỗ quyên năm xưa!"

    Mỹ nam à, ta đã hết tuổi chơi trốn tìm từ rất lâu rồi! Ta cũng không biết gì về "thề ước đỗ quyên" mà ngươi vừa nhắc đến! Có phải ngươi tìm nhầm người rồi không?
     
    Last edited by a moderator: 19 Tháng mười một 2020
  2. Sương thuỷ tinh

    Bài viết:
    16
    Chương mở đầu: Giới thiệu

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ta tên là Hồ Thiên Ly, tên thường gọi ở nhà là Tiểu Thiên, tên gọi ngoài đường là Thiên Ly. Dân gian lại đặt cho họ tộc của ta một cái tên chung mỹ miều mà ta rất thích, đó là Hồ Ly Tinh.

    Ta biết ta biết, Hồ Ly Tinh luôn song hành với thủ đoạn, mưu mô, xảo quyệt, lẳng lơ, trơ tráo.. nhưng quan trọng nhất là rất rất xinh đẹp. Vả lại, nếu không thủ đoạn, mưu mô thì làm sao họ tộc ta có thể giữ vững được chức Vương bao nhiêu đời nay.

    Ai cũng nói ta có số sung sướng ngay từ khi được sinh ra. Là cô công chúa duy nhất trong một gia đình toàn bậc nam nhi. Người mẹ xinh đẹp là Vương của "muôn loài thú thuộc hệ Đất liền". Người cha phong độ là một vị thầy thuốc nổi tiếng giỏi giang. Tương truyền rằng ta từ khi sinh ra đã được định sẵn là người kế thừa "ngai vàng" của mẹ, được dành hết mọi yêu thương, chăm sóc của cả gia đình, được ba ông anh trai nhất mực cưng chiều, ngày ngày cùng chơi đùa với cậu em út cực kỳ dễ thương. Nào ai biết, xuất phát điểm càng cao thì kỳ vọng càng cao. Cũng không ai hay, từ già đến trẻ, từ lớn đến bé, từ thấp đến cao, những con người xinh đẹp rạng ngời mà người ta luôn luôn ngưỡng mộ ấy lại có một điểm chung duy nhất. Tất cả đều rất rất "biến thái"..

    Cha già của ta tên là Hồ Phúc Ly, chuyên nghề bốc thuốc dạo. Ở đâu có bệnh hiểm nghèo khó chữa là ở đó có cha. Ưu điểm của cha là yêu thương mẹ ta. Nhược điểm của cha là cưng chiều mẹ vô điều kiện. Ta biết có vợ làm Vương không phải là điều dễ dàng, nhưng ta tự thấy cha cũng là người xuất sắc rồi, đâu cần phải cố gắng đến mức "thân tàn ma dại" như bây giờ. Cũng may cha ta đã có người nối nghiệp để truyền nghề.

    Huynh trưởng của ta, tên là Hồ Quang Ly, niềm yêu thích duy nhất của huynh ấy là ngao du sơn thuỷ. Đại huynh thích đến những vùng đất mới, khám phá những địa danh mới, bốn bể là nhà, khắp nơi đều có bạn. Trải qua gần năm mươi ngàn xuân xanh, huynh ấy vẫn chưa biết tình yêu nam nữ là gì. Thời gian lấy vợ còn không có, thử hỏi đại huynh lấy đâu ra thời gian để chăm sóc cưng chiều biểu muội chỉ gặp có vài lần như ta. Chẳng phải nói quá lên khi ta cũng không nhớ rõ mặt mũi của đại huynh trông như thế nào. Hồi còn nhỏ, mỗi lần nhắc đến huynh trưởng, ta phải chạy ra vách đá ngoài vườn để nhìn lại khuôn mặt của huynh ấy khắc trên đó.

    Nhị huynh tên là Hồ Huy Ly, khác với đại huynh, điều nhị huynh quan tâm nhất trên đời lại chính là "tình yêu". Cũng có thể nói theo cách dễ hiểu hơn, đó chính là "nữ nhân". Ở đâu có cô nương xinh đẹp nào, cao bao nhiêu, nặng bao nhiêu, eo thon, ngực nở, mông đẫy đà, cứ hỏi nhị huynh nhà ta, đảm bảo cái gì cũng biết. Từ gia thế, tính nết, trải qua bao nhiêu mối tình, thậm chí là chuyện "phòng the". Lý do tại sao huynh ấy tài giỏi lại có thể biết tất cả những chuyện này, ta cũng chịu. Nếu có cơ hội, chắc chắn sẽ xin đi theo một buổi để học hỏi kinh nghiệm cho bản thân. Vậy đó, quá bận thời gian yêu đương, nên không thể quan tâm đến một đứa chỉ là biểu muội đơn thuần như ta.

    Tam huynh tên là Hồ Nhật Ly, là niềm tự hào của cha ta, chỉ đam mê về y thuật. Các vị thuốc trên trời dưới đất, ngoài biển trong rừng, ở đâu huynh ấy cũng phải tìm cho bằng được. Những vị danh y tài giỏi nổi tiếng, những bài thuốc cổ truyền quý báu, không ở đâu là huynh không theo học. Đầu óc lúc nào cũng chỉ nghĩ đến cứu người, quần áo lúc nào cũng vương mùi cỏ cây chữa bệnh. Điểm cộng duy nhất của huynh ấy chính là chị dâu. Chị dâu gốc là loài chim thiên nga, tên là Thiên Bích Nga. Trong một lần chị trải qua kiếp nạn và bị thương nặng, tam huynh tình cờ đi qua và đã dốc hết sức lực để cứu sống chị. Chị Bích cảm động, quyết tâm theo đuổi tam huynh để trả ơn cứu mạng. Sau bao nỗ lực, chị dâu đã lay chuyển được con người gỗ đá đó. Kết truyện là một đám cưới đẹp như mơ diễn ra. Ngoại truyện là nhờ có chị dâu, tam huynh mới thoát chết được bao nhiêu vụ tự mình thử độc để chế thuốc cứu người.

    Người cuối cùng mà ta không muốn nhắc đến nhất, chính là Nữ Vương cao quý của loài Đất, mẹ ta, Hồ Mai Ly. Nữ Vương xinh đẹp nhất, sắc sảo nhất, thông minh nhất, giỏi giang nhất.. Những điều quan trọng của cuộc đời bà được xếp thứ tự như sau. Đầu tiên là muôn loài thú thuộc về phạm vi đất liền, từ con sâu con kiến đến chú voi chú gấu, mẹ đều dốc sức cho tất cả được hạnh phúc. Thứ hai đương nhiên là cha ta, người đã cùng bà thề non hẹn biển, vượt qua mọi khổ ải của nhân gian. Thứ ba không ai khác là các huynh. Cuối cùng mới là ta, một đứa con gái sinh ra trong sự chào đón của cả dòng tộc. Muôn loài Đất đều cưng chiều ta bởi ta là ứng cử viên sáng giá nhất cho ngôi vị vương. Mẹ cũng cưng chiều ta, theo cách của bà..

    Nói một chút về gia thế của ta vậy thôi. Biến thái thì sao, thế gian này điều duy nhất mà vì nó ta sẵn sàng hy sinh mọi thứ chính là những con người ấy, gia đình của ta.

    * * *

    Hiện tại ta đang theo học cấp Đại, cấp cao nhất của khóa tu tiên. Nếu qua được vòng thi này thì sẽ trở thành Đại Tiên, từ đó con đường thăng lên mức Thần sẽ được rút ngắn đi một chút. Cấp học này đạt đến độ cực khó, hai mươi ngàn năm qua chỉ có mười người mới có thể tham gia khóa học. Trong đó có hai người không đủ điều kiện, phải đi cửa sau. Một trong hai người đó, thật vinh dự, là ta.

    Bà cố nội của bên thông gia nhà ông chú lấy bà dì ta có ơn với thím họ hàng đằng bác cách ba đời của sư phụ. Ta cũng không biết ơn đó lớn lao cỡ nào mà mẹ ta có thể dùng nó để uy hiếp thầy làm cái việc không quang minh chính đại này.

    Thầy dạy ta tên là Uyển Khuyên Bạch Như, gốc là chim vành khuyên. Trường ta cũng là nơi tu thân từ lâu của thầy, tọa ở Bạch Vân Sơn hay còn gọi là núi Yên Tử.

    Ngày mẹ dắt con nhóc hai mươi ngàn tuổi là ta lên núi Bạch Vân để bái sư, mẹ dặn ta ti tỉ thứ, ta chỉ nhớ được mỗi một việc. "Bao giờ thi qua được cấp này rồi hẵng nghĩ đến chuyện xuống núi". Lúc mẹ nói còn điều gì cần hỏi hay không, ta lập tức nói lên cái câu đã thắc mắc ngay từ khi ở nhà:

    - Tại sao cấp học cao nhất của muôn loài thuộc hệ Đất, lại phải học của một con chim vành khuyên?
     
    Last edited by a moderator: 4 Tháng mười một 2020
  3. Sương thuỷ tinh

    Bài viết:
    16
    Chương 1: Miếu Đồng

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thấm thoắt cũng đã được năm ngàn năm xa nhà, chẳng ai thèm đến thăm ta lấy một lần. Mỗi buổi chiều rảnh rỗi ta lại leo lên chóp núi nhô cao này, nhìn về phía Bạch Mộc Lương Tử xa xa, nơi có gia đình ta mà chạnh lòng, không biết bao giờ mới được trở về.

    - Tiểu Thiên, mau về am, thầy cho vời mọi người!

    Uyển Minh Sương đứng dưới chân núi réo tên ta. Nàng là bạn thân nhất khi ta theo học ở đây, chính là học viên đi cửa sau còn lại, gốc vốn là một con chồn sương, bị mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được sư phụ Uyển Như mang về nuôi. Sau khi thầy cảm thấy nàng ấy đã lĩnh hội đủ tinh hoa, thầy bỏ qua luôn các vòng thi bậc Sơ Tiên, Trung Tiên, Thượng Tiên, một bước cho nàng lên học cấp Đại. Một người là con ông cháu cha, một người là gia đình lo lót, hai chúng ta trở thành hai học viên bị tẩy chay ở đây, tự nhiên mà xích lại gần nhau.

    - Được, ta về ngay!

    Ta nuối tiếc ngoái nhìn một lần nữa về hướng núi Bạch Mộc rồi thoăn thoắt leo xuống, sánh bước cùng Minh Sương về am Uyển.

    Về đến am, tám người kia đã tụ tập đông đủ trong phòng học. Thầy bước vào, bọn chúng ta hành lễ chào. Thầy gật đầu sau đó cho phép mọi người ngồi xuống bàn của mình. Thầy khoan thai bước lên chỗ sạp cao nhất. Mái tóc dài bay bay, trâm cài bằng vàng ánh lên lấp lánh, bộ váy màu vàng xanh đặc trưng. Thầy của ta là một nữ nhân đẹp, dĩ nhiên, nhưng ánh nhìn luôn nghiêm khắc và khuôn mặt lúc nào cũng vương vất nỗi buồn. Thầy đưa mắt nhìn một lượt sau đó cất cao giọng du dương như chim vành khuyên:

    - Thấm thoắt ta và các con cũng đã gắn bó với nhau một thời gian dài. Cái gì cần chỉ dạy, ta đã cố gắng chỉ dạy hết. Cái gì cần lĩnh hội, tự các con cũng biết kết quả của bản thân mình. Ngày mai ta sẽ lên Thiên Đình, trình lên các vị Phật Tổ và Ngọc Hoàng việc tổ chức thi cấp Đại Tiên trong năm nay. Trong thời gian ta đi, các con ở nhà cứ làm những việc bình thường vẫn làm. Riêng Thiên Ly..

    Thầy dừng lại một chút, nhìn về phía ta.

    - Dạ! - Ta hướng mắt lên thầy, chờ đợi.

    - Tối nay con về chuẩn bị, sáng mai qua chỗ miếu Đồng sớm một chút, mai là tiết sương giáng sau chín mươi năm. Năm nay đến lượt Thiên Ly trực miếu.

    - Dạ, thầy!

    Sư phụ căn dặn một chút công việc của từng người rồi chúng ta giải tán, ai về phòng người nấy.

    Bạch Vân Sơn từ thời xưa đã nổi tiếng là vùng đất giao thoa giữa chúng sinh và thần tiên. Không biết tự bao giờ, dưới nhân gian có một truyền thuyết. Chín mươi năm một lần, vào tiết sương giáng, không phân biệt người hay vật, nếu có đủ khả năng và lòng kiên nhẫn vượt qua được quãng đường núi lên được miếu Đồng, gõ ba hồi vào chuông Đồng, khi đó sẽ vinh hạnh được gặp thần tiên. Lúc sư phụ ta chọn nơi này làm địa điểm tu hành, Ngọc Hoàng đã giao nhiệm vụ cho thầy phải cử người túc trực bảy ngày ở miếu Đồng vào đúng thời điểm đó.

    Tiết sương giáng, là khoảnh khắc đổi thay rõ rệt nhất từ sự mát mẻ của mùa thu sang cái lạnh giá của mùa đông. Chín mươi năm một lần, vào tiết này, mười người đệ tử bọn ta sẽ thay phiên nhau trực ở miếu Đồng đúng bảy ngày. Năm nay đến phiên ta đi canh miếu. Khi ta đang lúi húi gói ghém một bộ quần áo và vài quyển sách vào tay nải, Minh Sương gõ cửa phòng, bước vào, sau đó dúi cho ta một túi đồ. Ta mở túi ra xem, ba cái bánh hoa đào, một gói hạt dẻ rừng vừa rang còn nóng hổi và một hồ lô nước đầy. Nàng nói:

    - Ta bảo cái Đào làm từ lúc chiều, vừa đảo lại hạt dẻ cho nóng. Ngươi đi một tuần, ta không sợ ngươi bị đói, bị khát, chỉ sợ ngươi chết vì buồn chán thôi.

    Ta cười tít mắt cảm ơn nàng ta. Ở chốn hoang vu này, cũng chỉ có nàng ấy là đối xử tốt và hiểu ta nhất.

    Hôm sau trời vừa tờ mờ sáng, ta đã thức dậy, đeo tay nải trên vai, ghé qua vái một vái trước cửa phòng sư phụ sau đó vội vã lên đường xuống núi.

    Sư phụ xinh đẹp của ta, tính tình hiền lành nhưng là một người thầy cực kỳ nghiêm khắc. Sư phụ nói nếu đã chấp nhận làm đệ tử của người, ở tại nơi tu hành của người thì ngoài thời gian tu luyện, càng hạn chế sử dụng phép càng tốt. Miếu Đồng ở phía dưới cách am Uyển không xa, nhưng nếu đi bộ đường rừng thì cũng mất gần nửa khắc. Tiết sương giáng làm cho khung cảnh núi rừng trở nên mông lung huyền ảo, ta cũng không lấy làm vội, thong thả đi bộ vừa luyện sức khỏe vừa ngắm hoa đỗ quyên.

    Đỗ quyên nở suốt bốn mùa, mỗi mùa lại có một màu riêng biệt, là loài hoa đặc trưng của núi rừng, cũng là loài hoa yêu thích của ta. Mùa đông có hoa bạch quyên, không hiểu sao mỗi lần nhìn thấy những cánh hoa trắng muốt trải dài một dải khắp núi đồi, tim ta lại đau như vậy. Chắc là thời tiết này, bệnh tim dễ bị tái phát, phải năng tọa thiền để điều hòa khí huyết mới được.

    Đi bộ được một lúc cũng mệt, ta quyết định làm phép gọi mây, chắc thầy không đến nỗi trách phạt.

    Lúc gần đến miếu Đồng, chợt nghe ba tiếng chuông vang lên, ta lập tức ẩn thân, bay nhanh rồi đáp xuống ngay chỗ chuông Đồng. Ở đó có một nhà sư còn khá trẻ tầm mười sáu, mười bảy tuổi, tướng mạo khôi ngô tuấn tú, sau khi gõ ba hồi chuông thì đang quỳ xuống vái liên tục trước cửa miếu. Tuy quần áo rách rưới và khuôn mặt có chút mệt mỏi nhưng đôi mắt vẫn sáng rực, toát lên nét kiên định.

    Ta nhàn nhã đi vào miếu cất tay nải, quét dọn bụi trên các bức tượng Phật sau đó thắp lên một cây hương trầm. Nhìn ra cửa thì thấy nhà sư trẻ không còn vái mà đã quỳ ngay ngắn trước cửa, mắt nhắm hờ, tay đếm chuỗi hạt, miệng tụng nam mô. Gió đưa mùi hương trầm bay đến, nhà sư khựng lại một chút, mở mắt ra sau đó vái ba vái rồi lại tiếp tục lầm rầm niệm kinh. Quãng đường từ chân núi lên miếu Đồng đối với người thường không phải là đơn giản. Ngoài những nguy cơ như bị đói, bị khát, bị rét, bị bệnh, bị lạc đường, bị hoang mang bỏ cuộc giữa chừng, còn phải có một chữ duyên. Có duyên thì mới gặp được một vị tiên già quắt queo đang ngồi ăn hạt dẻ trong ngôi miếu bám đầy bụi giữa núi rừng hoang vu này. Ta nhàn nhã vừa cắn hạt dẻ vừa đọc sách. Nhà sư kia và ta quả thật có duyên, nhưng cũng phải thử thách một chút xem bản lĩnh cậu ta như thế nào.

    Ta đọc một mạch hết quyển sách thì trời cũng vừa sẩm tối, bọc hạt dẻ đã vơi đi không ít. Ta dọn dẹp đống vỏ hạt, nhìn ra ngoài cửa thấy nhà sư đó vẫn đang nghiêm trang quỳ và niệm kinh. Đảm bảo là bụng đã đói và chân tay mỏi rã rời, vậy mà vẫn có thể nghiêm túc niệm nam mô như vậy. Đúng là con người có chí khí. Ta đi thắp sáng mấy cây nến trên điện thờ, bày lên đĩa ba cái bánh bao thơm nức sau đó mở cửa miếu một cách rất chậm chạp đầy huyền bí. Nhà sư trẻ thấy cửa mở thì mắt ánh lên vẻ mừng rỡ, vội vã vái ba vái sau đó lại lầm rầm cầu khấn. Cậu ta vẫn miệt mài niệm tụng còn ta kiên nhẫn ngồi chờ. Đợi mãi không thấy cậu ta có ý định di chuyển vào trong miếu, ta thở dài sau đó vẫn ẩn thân, khẽ lên tiếng:

    - Người ngoài miếu vào đây!

    Nhà sư trẻ mừng rỡ dập đầu xuống đất:

    - Tạ ơn thần tiên!

    Sau đó chậm chạp đứng dậy, liêu xiêu đi vào trong miếu. Vào miếu lại quỳ xuống vái ba vái. Mặc kệ cậu ta ngồi niệm nam mô, ta tìm một chỗ phù hợp nhất trong miếu rồi vào thế tọa thiền. Chỉ là thương ngươi phải ở ngoài trời cả đêm trong tiết sương giáng này thôi. Còn muốn gặp ta, chờ đến sáng mai hẵng hay.

    Tờ mờ sáng, khi ta đang tọa thiền lơ lửng giữa không trung bỗng ba tiếng chuông lại vang lên làm ta rơi bịch xuống đất. Được rồi, ta thừa nhận là chỉ ngủ quên một chút, có cần phải đánh thức rộn ràng như vậy không!

    Nhà sư trẻ sau khi thúc ba hồi chuông lại nhanh nhẹn tiến vào miếu và quỳ ngay ngắn trước điện thờ. Khuôn mặt trông có vẻ tươi tỉnh hơn, hẳn là sáng sớm đã ra suối rửa mặt. Ta liếc lên điện thờ, ba chiếc bánh bao vẫn còn nguyên, nến và cây hương trầm đã cháy hết. Bánh bao của nàng Minh Sương làm cho ta có nhân dâu rừng và hoa đào khô, ta đã làm phép cho nó lúc nào cũng nóng hổi và tỏa ra mùi thơm ngào ngạt. Nhà sư trẻ đã mấy ngày không được ăn uống tử tế, vẫn có thể giữ vững tinh thần đếm tràng hạt, tụng kinh, quả là đáng khen. Nhìn kỹ khí chất cũng không tệ, chắc hẳn có xuất thân không tầm thường. Ta bó gối ngồi bên cạnh các tượng Phật, suy nghĩ cách xuất hiện sao cho oai hùng một chút, nhưng đừng đến mức làm cho chàng trai trẻ kia kinh hồn bạt vía là được. Suy đi tính lại thấy không cần thiết phải làm to chuyện, ta mới quyết định sửa sang lại quần áo, tay phải chụm lại để dọc trước ngực, tay trái để ngang dưới bụng, hiện thân rồi lướt ra từ sau một bức tượng, lên tiếng:

    - Người quỳ ở dưới mời xưng tên!

    Lúc này giọng nói đã được ta khuếch đại gấp năm lần nên vang vọng khắp ngôi miếu. Nhà sư trẻ sau một chút giật mình, ánh mắt trở nên sáng rỡ, không dám nhìn thẳng vào ta, vái ba vái sau đó dõng dạc nói:

    - Đệ tử tên Ngô Chân Lưu, tên thật là Ngô Xương Tỷ, quê ở thôn Cát Lợi, huyện Thường Lạc, đang thọ giới Cụ túc với thiền sư Vân Phong tại chùa Khai Quốc.

    Ta bấm đốt ngón tay, mặc dù môn xem tướng là môn ta kém nhất nhưng bấm một hồi cũng lờ mờ đoán ra một số chi tiết quan trọng. Quả nhiên là con cháu thuộc dòng dõi đế vương.

    - Ngươi đã tìm lên đến ngôi miếu này, chắc cũng đã rõ quy tắc. Ngươi được hỏi ba câu hỏi và được thực hiện một lời ước nguyện, hãy cân nhắc cho kỹ lưỡng.

    - Đệ tử đã rõ!

    Nói năng rất rõ ràng, quả quyết, sau đó là một chuỗi trầm mặc. Chờ một lúc ta lại lên tiếng:

    - Ngươi có thể hỏi câu thứ nhất.

    - Dạ! Bẩm chư vị thần tiên, đệ tử vốn theo học đạo Nho từ nhỏ, thời gian gần đây mới quy y cửa Phật và đọc sách thánh hiền. Trong sách Phật, có nhiều điều khai sáng cho chúng sinh, có những điều con đã đọc nhưng không thể hiểu hết được ý dạy của các ngài. Hôm nay con có thể hỏi những điều đó không ạ?

    - Phật pháp vô biên, những điều Phật tổ đã truyền dạy không thể nói bằng lời ngày một ngày hai là có thể hiểu hết được. Muốn nắm rõ thì chỉ có thể dùng cả đời người để tiếp thu, dùng đôi mắt để nhìn thấu, dùng đôi tai để lắng nghe, dùng con tim để cảm nhận. Lúc đã hiểu thấu được nhân gian thì mới thấm được những bài dạy của Ngài.

    - Đệ tử đã rõ, tạ ơn thần tiên chỉ giáo!

    Ta rất hài lòng với câu trả lời của mình, im lặng gật gù thiếu điều lấy tay vuốt vuốt râu. Trước khi hỏi câu thứ hai, Ngô Chân Lưu kể cho ta nghe chuyện chính sự dưới nhân gian.

    Tiền Ngô Vương sau khi lập nhiều chiến công hiển hách, trị vì được sáu năm thì bị bệnh nặng, trước khi băng hà truyền chỉ cho em trai hoàng hậu nhà họ Dương phò tá cho người con trai trưởng là Ngô Xương Ngập thừa kế ngôi vua. Ngô Xương Ngập vốn không phải con của hoàng hậu Dương Hậu, họ Dương kia không nghe, tranh ngôi của cháu, tự lập mình làm vua, chính là Dương Bình Vương đang trị vì thời bấy giờ. Một mặt Dương Bình Vương sai quân lùng bắt Ngô Xương Ngập rất gắt gao, mặt khác lại nhận em trai cùng cha khác mẹ của Ngô Xương Ngập tên là Ngô Xương Văn làm con nuôi.

    - Đó chính là chuyện mà đệ tử suy nghĩ mãi vẫn không nghĩ ra được là đúng hay là sai. Một bên là vì máu mủ ruột rà mà giành lấy vinh hoa cho cháu ruột của mình, theo lời Phật dạy là trọn nghĩa tình thân. Một bên lại coi thường ý chỉ của nhà vua, không những phản nghịch truất ngôi con trưởng mà còn lùng bắt giết bằng được. Xét về tình thân ruột thịt là làm đúng, nhưng xét về đạo lý bề tôi là sai. Vậy xin người chỉ dạy như thế là sai hay đúng?

    - Ta cho ngươi hai câu:

    "Người thật sự tu đạo thì không thấy lỗi thế gian."

    "Gieo nhân nào ắt gặp quả nấy."

    Ngô Chân Lưu nghe xong, cúi gập người xuống nền vái ba vái:

    - Đệ tử ngu muội đã được thông suốt, tạ ơn thần tiên chỉ bảo!

    Ta ban cho nhà sư một cái bánh bao ăn lót dạ, sau đó tọa thiền nghỉ ngơi, buổi chiều sẽ tiếp tục đàm đạo. Bánh bao của thần tiên chúng ta, người thường ăn vào sẽ tiếp thêm sinh lực, ba ngày không bị đói. Đến chiều, Ngô Chân Lưu mặt mày sáng rỡ, tiếp tục nêu lên câu hỏi thứ ba:

    - Bẩm Đại Tiên, một người bạn học của đệ tử tên là Trụ Trì nhờ hỏi một việc mà anh ta luôn canh cánh trong lòng. Người ta thường nói đời người là bể khổ, chúng sinh trong nhân gian trải qua mọi kiếp nạn cũng chỉ có mong muốn duy nhất là thoát tục thành tiên. Vậy làm thần tiên có thật sự sung sướng hơn làm người và vật hay không?

    Thật là một câu hỏi hay, ta cũng chẳng dễ để trả lời được thỏa đáng.

    - Đời người là một giấc mộng dài, tỉnh giấc là tỉnh mộng. Vậy nên, tất cả những hỷ nộ ái ố, tất cả những khổ đau cùng cực mà con người phải gánh chịu, chỉ cần kết thúc kiếp người ngắn ngủi đó là được giải thoát, lại an nhiên vui vẻ bước sang kiếp khác, tận hưởng những điều mới mẻ. Thần tiên chúng ta, mang tiếng là trường sinh bất lão, sống thọ với đất trời, chết là hóa thành tro tàn, hòa lẫn vào không gian thời gian. Chúng ta sinh ra đã được định sẵn sẽ sống một đời một kiếp như thế, những tai ương kiếp nạn phải chịu, nào có được giải thoát đâu. Vậy ta hỏi ngươi, làm con người sung sướng, hay làm thần tiên sung sướng?

    Ngô Chân Lưu ngẫm nghĩ một lúc lại cúi người vái:

    - Đệ tử đã rõ, tạ Đại Tiên chỉ giáo!

    Cuối cùng là thực hiện một lời nguyện ước, nhà sư trẻ rơi vào thế trầm mặc, sau đó chậm rãi nói:

    - Đệ tử đã suy nghĩ rất nhiều về điều này. Đệ tử thân là Phật tử, con cháu Phật tổ đại từ đại bi, không hám cao sang, không màng danh lợi. Nói về điều mong ước nhất chỉ là có thể hiểu thấu được lời Phật dạy, có thể đem kinh Phật truyền bá rộng khắp nơi. Những điều ấy đệ tử sẽ tự mình phấn đấu. Lời ước này, đệ tử xin phép được nhường cho cha của đệ tử, tên là Ngô Xương Ngập, hiện đang ở nhà hào trưởng Phạm Lệnh Công tại làng Trà Hương, Nam Sách. Mong chư vị thần tiên chấp thuận!

    Ta mỉm cười hài lòng, chắc hẳn tương lai Ngô Chân Lưu sẽ làm được việc lớn.

    - Chuẩn y!

    Lời ta vừa buông ra, lập tức gọi một đám sương trắng bay vào miếu rồi hòa vào đó mà ẩn thân. Không quên để lại vài lời dặn dò:

    - Ta ban cho ngươi hai chiếc bánh bao, dọc đường chắc sẽ có lúc dùng đến. Trên đường xuống núi nếu gặp ai đang lên miếu này thì dặn người đó cố gắng nhanh chân một chút, ta chỉ ngụ tại đây năm ngày nữa thôi. Về bản thân ngươi, nếu một lòng hướng về Phật pháp, rũ bỏ hoàn toàn ân oán của thế gian, sau này sẽ gặt hái được rất nhiều.

    Ngô Chân Lưu tạ ơn, vái ba vái sau đó cất bánh bao vào tay nải của mình, lên đường xuống núi.

    Năm ngày sau đó, ta đến là chết vì buồn chán. Sách thì đã đọc xong, hạt dẻ vừa ăn vừa thả cho lũ sóc ngoài rừng rồi cũng hết, ngắm hoa đỗ quyên nhiều cũng chẳng làm được bài thơ nào. Tọa thiền mãi vẫn thấy tim đau như cũ đâm chán nản. Ngồi buồn lại nghĩ linh tinh, về mọi người trong gia đình, về những kỷ niệm ngày bé.

    Ngày ấy khi ta tròn mười ngàn tuổi, anh cả Quang Ly đã gần ba mươi ngàn xuân xanh, đang chu du khắp thế gian bỗng nhiên nổi hứng quay về. Ta thích nhất những ngày anh cả trở về, bởi chắc chắn anh sẽ nhớ mang quà cho ta. Có khi là loại bánh lạ anh nếm được trên đường; có khi là những vòng tay, trâm cài làm bằng nguyên liệu quý; có khi là những món đồ chơi dân dã của trẻ con dưới nhân gian mà thuở ấy ta bị mê mẩn.

    Anh Quang Ly về và mang cho ta một con cào cào bằng các loại lá đẹp đến mê hồn. Ta hứng chí chạy khắp núi Bạch Mộc Lương Tử tìm đủ các loại lá để về làm một con cào cào đẹp như vậy. Ta nhớ là ta đã chơi rất vui, nhưng không thể nhớ đã chơi như thế nào. Những ký ức thuở ấy luôn bị rời rạc, không rõ ràng liền mạch. Theo lời anh ba Nhật Ly thì năm mười lăm ngàn tuổi ta bị trúng kịch độc, sau đó ngủ mê man suốt năm ngàn năm, khi tỉnh dậy một mảng ký ức bị ảnh hưởng nên trở nên lẩn thẩn, chuyện nhớ chuyện quên.

    Sáng sớm của ngày thứ tám, ta thu dọn tay nải để chuẩn bị về lại am Uyển, đang lúi húi làm phép niêm phong cửa miếu thì ba hồi chuông Đồng bỗng giòn giã vang lên.
     
    Chỉnh sửa cuối: 6 Tháng mười một 2020
  4. Sương thuỷ tinh

    Bài viết:
    16
    Chương 2: Đại huynh

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ta khẽ nhíu mày, đã là ngày thứ tám, muộn mất rồi! Tuy nghĩ vậy nhưng cũng tiến về phía chuông đồng xem người đó là ai. Không ngờ vẫn là Ngô Chân Lưu. Bên cạnh anh ta còn có một người, đang bất tỉnh nửa nằm nửa ngồi dựa vào một gốc cây gần đó. Ta lập tức hiện thân, hỏi han sự tình. Ngô Chân Lưu quỳ rạp xuống:

    - Thưa Đại Tiên, đệ tử đang trên đường xuống núi thì bắt gặp cô nương này bất tỉnh nằm giữa đường. Đệ tử gọi mãi nhưng cô nương vẫn không tỉnh lại. Bất đắc dĩ, đệ tử đành phải cõng cô ấy lên đây. Đệ tử vướng phải tội "nam nữ thụ thụ bất thân", xin Đại Tiên trách phạt.

    Ta xua xua tay:

    - Cứu mạng người là quan trọng, há phải để tâm đến tiểu tiết đó. Ngươi cứ quay về đi!

    Ngô Chân Lưu nghe lời lại tiếp tục xuống núi. Ta làm phép gọi mây đỡ cô gái lên, thì ra là một sơ tiên, gốc là loài chuồn chuồn kim; bắt qua mạch thì thấy nàng ta bất tỉnh do kiệt sức liền đưa về am Uyển.

    Minh Sương đón ta trước cửa, nhìn thấy ta mang theo một người đang bất tỉnh trở về, chưa kịp hỏi gì, lập tức kêu người soạn sửa một phòng trống rồi giúp ta đỡ cô gái lên giường. Ta bắt mạch kỹ hơn. Cha và anh ba đều là lang y có tiếng tăm nên đối với một số bệnh nhẹ, ta không đến nỗi vô dụng. Ngoài việc bất tỉnh do kiệt sức, kinh mạch của cô nương này còn bị nhiễu loạn. Ta sai Đào nấu nước nóng rồi trở về phòng lấy một ít dụng cụ. Vừa ra đến cửa liền thấy mấy người học viên khác đang tiến đến. Mãng Thương Xà nhìn thấy ta lập tức lên tiếng:

    - Hồ Thiên Ly, ta nghe nói ngươi mang người lạ vào am có đúng không?

    Ta gấp gáp:

    - Nàng ta bị trọng thương! Cứu người đã rồi nói sau!

    Nghe nói liên quan đến tính mạng, mấy người kia thôi không gặng hỏi nữa. Báo Hồng Hoa nói với theo ta:

    - Chữa trị xong, ngươi đến Hương Xá giải thích cho rõ ngọn ngành đi!

    Ta lấy hộp kim châm cứu làm từ gai cây hoàng ngưu mộc được anh ba Nhật Ly điều chế riêng. Sau khi nhúng kim vào nước nóng, ta truyền một ít nội lực vào từng cây kim rồi châm cứu ở các huyệt mạch chủ cho cô gái. Sau nửa canh giờ mới rút kim châm ra, kiểm tra thấy kinh mạch đã ổn định, ta thu dọn đồ nghề rồi tiến về phía Hương Xá. Đó là nơi mà các học viên bọn ta hay tọa thiền hoặc luyện pháp.

    Ta đến nơi thì thấy mọi người đã có mặt đông đủ, ngoại trừ Trà Ngạn My vừa xuống núi để làm một số việc cho sư phụ. Minh Sương nhìn thấy ta, chạy ngay lại, khuôn mặt hớn hở như sắp được xem kịch hay, đúng là bạn tốt. Ta lên tiếng trước khi bị mấy người kia tra hỏi:

    - Trên đường về am thì ta gặp cô nương này bị bất tỉnh, tính mạng ngàn cân treo sợi tóc. Bất đắc dĩ mới phải mang về am Uyển để cứu người.

    Mãng Thương Xà nói to:

    - Sư phụ đã lệnh không được đưa người lạ vào am, sư phụ hiện không ở nhà nên ngươi làm trái lệnh người sao?

    - Lúc đó việc cứu mạng người là quan trọng nhất, đâu có thời gian nghĩ được nhiều như thế!

    Báo Hồng Hoa giọng nghiêm khắc:

    - Ngươi cũng biết lệnh sư ẩn thân ở nơi hoang vu này đã lâu, không muốn nhiều người biết đến để tránh bị làm phiền. Ngươi làm việc không suy nghĩ trước sau, ảnh hưởng đến việc tu luyện của sư phụ, ngươi không có gì để nói sao?

    Ta bình tĩnh đáp lại:

    - Ta tự biết việc mình làm ảnh hưởng đến sư phụ. Nhưng lúc đó tình thế nguy kịch! Đến khi sư phụ trở về, nếu người trách phạt, ta sẽ tự mình chịu trách nhiệm.

    Mấy người kia lập tức vây lại, mỗi người nói một câu trách móc ta:

    - Ngươi đừng ỷ lại được sư phụ yêu thương mà lộng hành!

    - Sư phụ không ở nhà nhưng còn có chúng ta, dù sao cũng là đệ tử của người, có trách nhiệm bảo vệ nơi tu luyện của sư phụ được thanh sạch.

    - Ta thấy ngươi được sư phụ nuông chiều quá nên không coi ai ra gì rồi!

    * * *

    Lúc này, Minh Sương mới lười biếng ngáp một cái sau đó lên tiếng giải vây cho ta:

    - Được rồi, Thiên Ly nàng ta cũng đã nói sẽ tự mình chịu toàn bộ trách nhiệm. Mấy người nói nhiều thế để làm gì?

    Các học viên khác tuy không thích Minh Sương, nhưng dù sao nàng cũng là con nuôi của sư phụ nên có mấy phần kiêng dè. Nàng ấy đã lên tiếng, mấy người kia biết ý im lặng, tự động giải tán kéo nhau về phòng. Chuyện tưởng như xong nhưng ta thừa biết, khi sư phụ trở về mấy người đó sẽ tha hồ mà bới móc, nói xấu ta. Minh Sương cùng ta quay về phòng của cô nương chuồn chuồn kim, nhìn ta bắt mạch cho cô nương đó, hờ hững nói:

    - Cũng không đến mức bị nguy hiểm tính mạng như ngươi nói, sao phải lo lắng cho cô ta đến vậy?

    Sau khi bắt thấy kinh mạch của cô nương kia vẫn ổn định, ta mới kéo tay Minh Sương lại ngồi tại bộ bàn ghế trong phòng, kể cho nàng ta nghe chuyện Ngô Chân Lưu đã cõng cô nương đó từ dưới chân núi lên như thế nào. Lúc đó ta hoàn toàn có thể sai người đi tìm cha hoặc anh ba đến mang cô ấy về để chữa bệnh, nhưng lại bị cảm động trước sự lương thiện của Ngô Chân Lưu. Anh ta một lòng cứu người, vậy thì đích thân ta sẽ chữa trị cho cô gái. Minh Sương nghe xong, thở dài buông một câu:

    - Nhà sư kia cũng thật là, một mình lên núi đã mệt muốn chết còn ngu ngốc vác theo cô nương kia làm cái gì? Đi qua nhìn thấy, không gọi dậy được thì ném lại một cái bánh bao là xong rồi. Chốn núi rừng hoang vu này, bất đắc dĩ phải tự sinh tự diệt thôi!

    Ta lườm cho nàng ta một cái:

    - Thầy Uyển Như cũng thật là, sống một mình đang bình yên, sao còn phải nhận ngươi về làm con nuôi để làm gì? Chốn núi rừng hoang vu này, bất đắc dĩ phải tự sinh tự diệt thôi!

    Minh Sương cười ha hả, đá tung cửa đi về phòng. Trước khi về còn buông một câu:

    - Ngươi cứ chờ đi, sư phụ về chắc chắn sẽ trách phạt ngươi!

    Nàng ta trước giờ vốn khẩu xà tâm Phật, ta cũng chẳng buồn nói lại làm gì.

    Ta dự tính ba ngày sau cô nương đó sẽ tỉnh lại, không ngờ chưa đến hai ngày, nàng ta đã mở tròn mắt nhìn ta và Minh Sương đang nói chuyện cạnh giường, lập tức ngồi dậy đòi hành lễ:

    - Xin cảm tạ ơn cứu mạng của ân nhân!

    - Không cần đa lễ, bọn ta không phải là ân nhân của ngươi!

    Ta ghì cô nương đó nằm xuống giường cho đỡ choáng váng. Nàng ta lại hỏi:

    - Xin hỏi hai vị, đây là nơi nào ạ?

    - Đây là am Uyển trên núi Bạch Vân Sơn, nơi tu luyện ngàn năm của thượng thần Uyển Khuyên Bạch Như.

    Ta lườm Minh Sương, một mực trách ta mang người lạ về am nhưng nàng lại khai vanh vách địa điểm tu hành của sư phụ. Minh Sương biết mình lỡ lời, vội im bặt. Cô nương kia lại bật dậy, hỏi giọng gấp gáp:

    - Xin hỏi trong hai vị ai là thượng thần Uyển Khuyên?

    Ta ngạc nhiên ấn cô ta nằm xuống giường:

    - Sư phụ bọn ta hiện không ở tại am. Ngươi tìm người có việc gì sao?

    - À không!

    Cô nương đó nói giọng đầy luyến tiếc.

    Cô nương tên Lệ Kim, không còn ai thân thích ruột thịt. Lý do tại sao Lệ Kim bị bất tỉnh nằm giữa rừng thì cô không nói, ta cũng không hỏi. Tên người ân nhân trực tiếp cứu mạng, cô không hỏi, ta cũng không nói.

    Mấy ngày sau ta bắt mạch, thấy khí huyết Lệ Kim đã ổn định, nhưng cô liên tục bị choáng đầu và đi lại không vững. Ta có gợi ý việc nhờ người đi mời lang y đến nhưng cô nương Lệ Kim có vẻ không đồng ý, nói nghỉ ngơi vài ngày khỏi rồi sẽ rời đi không làm phiền bọn ta nữa. Bất đắc dĩ, ta đành phải để cô ở lại am. Mấy người học viên khác tỏ ý không bằng lòng nhưng cũng bận rộn nên chưa nói gì.

    Thêm mấy ngày trôi qua, sư phụ vẫn chưa về. Ta còn nhiệm vụ thực hiện nguyện vọng của cha Ngô Chân Lưu, nếu không làm sớm e là ông ta sẽ đầu thai sang kiếp khác mất. Ta bàn bạc nhờ Minh Sương để ý cô nương Lệ Kim đó cho ta vài ngày, nàng ta làu bàu một lúc rồi cũng đồng ý. Buổi chiều, ta ghé qua dặn dò Lệ Kim về việc nghỉ ngơi và uống thuốc, cô nghiêm túc gật gù nhưng có vẻ không để tâm đến lời của ta cho lắm. Khi ta bước ra từ phòng Lệ Kim, Mãng Thương Xà đang hớt hải chạy đến, nhìn thấy ta mắt sáng rỡ, thân thiết nói:

    - Thiên Ly, mau ra ngoài, có người đến am tìm ngươi!

    Thái độ lạ kỳ như vậy làm ta mơ mơ hồ hồ tiến ra phía đình ngoài hay tiếp khách. Quả thật thấy thấp thoáng một vạt áo trắng, dáng người cao cao nhưng rất uy nghiêm, mái tóc đen dài được buộc hờ hững sau đầu, tay phải cầm quạt, tay trái đặt sau lưng. Dáng người quen thuộc này? Người đó quay lại, nở một nụ cười ấm áp, gọi tên ta:

    - Tiểu Thiên!

    Ta tròn mắt ngạc nhiên, suýt thì nhảy cẫng lên vì vui mừng:

    - Đại huynh Quang Ly, sao huynh lại ở đây?

    Mấy ngàn năm không gặp, huynh cả nhíu mày, câu thứ hai nói với ta là:

    - Sao muội lại phát tướng như thế này?

    Được rồi, huynh cứ thử suốt ngày ăn, ngủ và ở một chỗ không di chuyển xem có bị béo ra như muội không. Ta không thèm để ý, lôi xềnh xệch vạt áo của huynh ấy vào chỗ bàn đá trong đình. Ta ngồi xuống rót trà, còn huynh ấy đứng yên khẽ phe phẩy quạt nhìn ta từ trên xuống dưới. Ta nói giọng bất mãn:

    - Huynh không phải nhìn, muội bị người nhà của chúng ta bỏ rơi nên mới ra nông nỗi này!

    Quang Ly khẽ thở dài, xoa xoa đầu ta, hỏi một câu:

    - Tiểu Thiên, muội sống ở đây có tốt không?

    Ta gật đầu, vốn không phải người yếu đuối, vậy mà sống mũi bỗng cay cay:

    - Tốt!

    - Thượng thần Uyển Như có tốt với muội không?

    Ta nghĩ ngợi, ngoại trừ lúc thầy nghiêm khắc thì nói chung cũng được, liền gật đầu:

    - Cũng tốt!

    - Các học viên khác có tốt với muội không?

    Ta nhìn nhìn ra mấy cái dáng người đang lấp ló thoắt ẩn thoắt hiện phía sau mấy cây hoa lan, miễn cưỡng gật gật:

    - Tốt, tốt, tất cả đều tốt! Muội sống ở đây rất tốt! Ai cũng tốt với muội! Chỉ có điều nhớ gia đình mình đến phát điên thôi.

    Đại huynh không có ý kiến, ngồi xuống im lặng uống trà. Ta tự thấy mình xả cục tức không đúng người, huynh ấy chắc cũng lâu rồi không về núi Bạch Mộc. Thật sự rất muốn hỏi huynh ấy đi khắp nơi như vậy, không lúc nào thấy nhớ nhà sao? Vậy mà ta lại hỏi sang một câu khác:

    - Tại sao hôm nay huynh lại đến đây?

    Đại huynh Quang Ly đặt chén ngọc xuống bàn rồi nói:

    - Đợt vừa rồi huynh có ghé về nhà, thấy mẹ nói muội đang tu luyện ở xa nhưng không nói là ở đâu. Mấy ngày trước huynh có việc đi ngang qua đây, nhìn thấy muội đang mang một người bay về phía am này. Lúc đấy có việc gấp phải đi ngay, hôm nay xong việc nên ghé qua đây xem thử, quả nhiên đúng là nơi muội tu luyện.

    Ta tỏ ra thất vọng:

    - Cứ tưởng là huynh sắp thành thân chứ!

    Đại huynh bật cười thành tiếng, rồi lại phất phất tay quạt nhưng không nói gì.

    Hai huynh muội bọn ta ngồi nói chuyện một lúc nữa, sau đó đại huynh vội đi, ta cũng phải về nghỉ sớm để sáng mai lên Thiên Đình. Đại huynh nhìn ta thở dài một cái rồi lướt mây đi mất.

    Về đến phòng thì thấy Minh Sương đang chờ ngoài cửa. Nàng ấy nhìn ta chằm chằm, ta ngạc nhiên hỏi:

    - Chuyện gì?

    - Mỹ nam kia là gì với ngươi? Vị hôn phu?

    - Đại huynh Quang Ly.

    Ta nói năng bình thản mà Minh Sương giật mình như có tiếng sét ngang tai:

    - Cái gì? - Sau đó đổi giọng chì chiết ta. - Tên hồ ly nhà ngươi, trước đến giờ kể cho ta nghe nào là lão huynh già cả năm mươi ngàn tuổi, nào là ông già ham chơi. Ta còn hình dung huynh ấy tóc trắng hơn cả sư phụ, da nhăn nheo hơn cả lão thổ địa trong rừng. Không ngờ huynh Quang Ly lại là một trang nam tử tuấn kiệt như vậy. Ta thật uổng phí đối tốt với một người lừa bịp, dối trá như ngươi..

    Ta mặc kệ cái đồ háo sắc ấy đứng lảm nhảm, ngáp dài một cái thay cho tiếng chào rồi đi vào phòng mình. Nàng ta chắc chắn đang hậm hực dẫm chân phía sau lưng.

    Sáng hôm sau, ta dậy sớm, nói một tiếng với đám học viên trong nhà sau đó gọi mây bay về phía Thiên Đình.

    Ta dừng ở trước cửa cung Nam Tào, không đi vào nhà mà vòng ra phía sau chỗ ao sen. Quả nhiên nhìn thấy hai dáng người trên bàn ngọc dưới cây liễu đang rung đùi đánh cờ. Một người thân hình mảnh khảnh, quần áo lụa là thư sinh, khuôn mặt luôn giữ nét tươi như hoa. Một người thì cao lớn, quần áo kiểu binh giáp võ tướng, khuôn mặt có chút hung dữ. Ta lên tiếng:

    - Tào, Đẩu, đã lâu không gặp! Sáng sớm mà có hứng đánh cờ rồi sao?

    Phải nói sơ qua một chút về hai người bằng hữu này. Họ vốn dĩ được sinh ra trước cả con tiểu hồ ly đầu tiên trong họ tộc ta. Có tố chất và năng lực phù hợp, được Ngọc Hoàng tin cậy và giao cho trọng trách "sinh tử" của dân gian. Nam Tào mặt trắng, mũi cao, tướng mạo tươi vui, hay giữ nét cười nơi đáy mắt được giao nhiệm vụ viết và giữ sổ sinh. Bắc Đẩu thân hình cao lớn, tướng tá có phần hung hăng, thích việc chân tay hơn bàn giấy, được giao viết và giữ sổ tử. Tuy nhiên tâm hồn hai người lúc nào cũng như đứa trẻ con mới lớn, nhất là cái tên mặt mũi hung tợn Bắc Đẩu kia.

    Vậy cho nên, khi ta được mẹ nuôi đưa về Thiên Đình để nuôi dưỡng một thời gian, bọn họ là hai người mà ta thân thiết nhất. Họ luôn cùng ta bày ra những trò nghịch ngợm của trẻ con. Chúng ta thân thiết như bằng hữu nên cũng không câu nệ thứ bậc và tuổi tác, mặc nhiên xưng hô ngang hàng với nhau.

    Hai người nhìn thấy ta, mắt sáng rỡ. Nam Tào vẫy vẫy tay:

    - Tiểu Thiên, ngươi mau lại đây phân xử giúp ta ván cờ này, ta và Bắc Đẩu đã chơi từ hôm qua đến hôm nay vẫn chưa xong.

    Ta bật cười. Trò chơi cờ này là do ta nghĩ ra. Bọn ta sẽ dựa vào luật cờ tướng có sẵn từ trước đến nay, từ đó thay đổi luật lệ cho dễ hiểu, mỗi ngày nghĩ ra một quy luật mới khiến trò chơi vốn dĩ dành riêng cho các bô lão lại trở thành trò yêu thích của trẻ con. Không ngờ lâu như vậy, hai người bọn họ vẫn tiếp tục duy trì trò này.

    - Hai ngươi thật là ấu trĩ, đến giờ này vẫn còn chơi đánh cờ, định mãi không chịu lớn sao?

    Nam Tào bĩu bĩu môi:

    - Dạo gần đây thiên cơ lỏng lẻo, dưới dương gian người ma lẫn lộn, bọn ta khó kiểm soát sinh tử nên thường xuyên bị mắc sai lầm. Mỗi lần như vậy Ngọc Hoàng lại tức giận giáng tiên vi của chúng ta xuống, làm giảm đến mấy trăm năm tu hành. Sợ là bây giờ số năm còn lại cũng không bằng của ngươi đâu.

    Bắc Đẩu gạt đi:

    - Tào thối, Tiểu Thiên lâu lắm mới có dịp ghé qua, đừng có than thở chuyện vớ vẩn ấy! Thiên Ly, tại sao lâu như vậy không đến chơi với bọn ta? Hay ngươi gặp phải chuyện gì?

    Ta cười:

    - Chuyện dài lắm, kể cả ngày chắc cũng không hết. Hôm nay ta sợ là không có thời gian để hàn huyên với hai ngươi, bởi ta đến để nhờ một việc quan trọng.

    Nghe nhắc đến công việc, hai người kia lập tức cất đi bộ cờ trên bàn. Nam Tào mặt lúc nào cũng tươi như hoa lại tỏ ra nghiêm túc, ta thật sự nhìn không quen nhưng cố gạt đi cơn buồn cười, kể cho hai người đó nghe chuyện lời ước của Ngô Chân Lưu. Nghe xong hai người kia gật gù hiểu điều ta đang muốn nhờ cậy. Việc đầu tiên chúng ta cần biết là tuổi thọ của Ngô Xương Ngập. Bắc Đẩu nhanh chóng lấy ra một quyển sổ dày cộm có bìa đen. Sau khi xem xong, Nam Tào nói:

    - Bây giờ cho ngươi đầu thai xuống dương gian thành một người có liên quan đến cha của hắn thì không khó..

    - Nhưng sợ là người đó sẽ không kịp chờ ngươi lớn lên. - Bắc Đẩu tiếp lời còn ta gật đầu. Đó cũng là điều ta lo sợ. Nam Tào nhăn nhó:

    - Nếu cho ngươi nhập vào một người nào đó vừa chết đi thì mới to chuyện. Ta sẽ phải trình lên trên và chờ chỉ thị của Ngọc Hoàng, còn Bắc Đẩu phải đi bàn bạc với Diêm Vương.

    Ta lắc đầu:

    - Như thế cũng lâu lắm.

    Bắc Đẩu liếm môi:

    - Ta có một cách nhanh hơn!
     
  5. Sương thuỷ tinh

    Bài viết:
    16
    Chương 3: Ngô Nam Hưng

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thấy ta và Nam Tào cùng nhìn mình, Bắc Đẩu hạ giọng xuống:

    - Nam Tào lựa chọn một tên nào đấy phù hợp, ta sẽ cho hắn chết bất đắc kỳ tử. Sau đó khi bọn thuộc hạ của Diêm Vương chưa kịp nắm rõ tình hình, Tào ngươi đẩy ngay Tiểu Thiên vào thế chỗ..

    Ta hốt hoảng:

    - Như thế là phạm đến thiên quy, Ngọc Hoàng mà biết thì hai người bọn ngươi chỉ có đường chết.

    Bắc Đẩu gạt đi:

    - Việc này chỉ có ba người chúng ta biết. Không ai nói thì làm sao lộ ra được!

    Nam Tào cũng lớn tiếng:

    - Ngươi yên tâm, mạng bọn ta lớn! Cùng lắm là bị giảm thêm mấy trăm năm tu hành nữa thôi!

    Ta vốn không phải là kẻ nhát chết, cũng chỉ sợ liên lụy đến hai người bọn họ. Dù sao thời gian cũng không còn nhiều, thôi thì cứ làm vậy, có chuyện gì xảy ra, ta sẽ nhận hết trách nhiệm về mình. Nam Tào thấy ta mãi không có ý kiến, sốt ruột lên tiếng:

    - Dưới dân gian hiện giờ đã là năm Canh Tuất, cái tên Ngô Xương Ngập đó đến năm Giáp Dần là thăng rồi, chờ ngươi suy nghĩ xong, chắc hắn đã đầu thai được vài kiếp.

    Ta đập bàn:

    - Quyết thế đi!

    Nói thì đơn giản, đến lúc thực hiện mới thấy khó. Nam Tào, Bắc Đẩu bày ra một đống sách dày cộm trên bàn, ba chúng ta cùng chụm đầu vào nghiên cứu. Hai người kia xem xét để tìm người phù hợp, còn ta vừa đọc vừa cố ghi nhớ về hoàng thân quốc thích liên quan đến nhà họ Ngô kia. Đọc sách cả một ngày trời cảm thấy đầu óc u mê hơn hẳn, ta xây xẩm hết mặt mày vội đứng dậy nói:

    - Ta còn phải về am để nói với sư phụ một tiếng. Hai ngươi xem tình hình thế nào rồi báo với ta.

    Nam Tào ngước lên từ đám sách dày cộm:

    - Tiểu Thiên, ngươi cứ về đi. Độ hai ngày nữa quay lại đây, bọn ta sẽ sẵn sàng mọi thứ chờ ngươi.

    - Còn một việc, mấy ngày gần đây hai ngươi có nhìn thấy thượng thần Uyển Khuyên Bạch Như trên Thiên Đình này không?

    Bắc Đẩu lúc này mới nhìn lên:

    - Mấy hôm trước ta có thấy bà ấy lên gặp Ngọc Hoàng, sau đó lướt mây đi về phía nào không rõ.

    Ta gật đầu, trước khi đi còn dặn dò:

    - Trông cậy cả vào hai ngươi.

    Nam Tào cười nhăn nhở:

    - Yên tâm, bọn ta sẽ kiếm cho ngươi một mối thật tốt!

    Ta lướt mây bay đi mà lòng không yên, cảm thấy điệu cười của gã Tào này có gì đó rất gian xảo.

    Tại am Uyển, sư phụ vẫn chưa thấy về, cô nương Lệ Kim đó chưa chịu đi. Mọi người đều đang tất bật chuẩn bị thứ gì đó. Ta tóm được Minh Sương ở gian nhà trong liền hỏi han. Nàng ta gấp gáp:

    - Sư phụ gửi tin về nói việc thi cử đã được Phật Tổ và Ngọc Hoàng chấp thuận. Độ một vài tháng nữa là sẽ tổ chức cho chúng ta. Bên cạnh đó, ngày mười lăm tháng này, Tây Vương Mẫu tổ chức đại tiệc trăng tròn, mời tất cả thầy trò chúng ta đến dự.

    - Sư phụ đâu?

    - Người còn bận thu xếp mấy việc nên chưa về được, dặn chúng ta ở nhà chuẩn bị.

    - Vẫn chưa về? Vậy ta làm sao kịp báo cáo chuyện của mình đây! - Ta cắn môi.

    - Việc của ngươi.. - Minh Sương chưa nói hết câu, nhìn thấy ai đó vội gọi theo. - Ngươi, ngươi, người kia, cái đấy là của ta! - Rồi lại quay sang ta. - Nói chuyện với ngươi sau, ta phải làm cho xong việc đã.

    Nàng ta vội chạy đi ngay, không kịp nhìn thấy cái gật đầu của ta.

    Về phòng ta sẽ phải đi qua phòng cô nương Lệ Kim đó, ta nhìn thấy cửa mở nên hắng giọng mấy cái rồi bước vào. Trong phòng tràn ngập mùi thơm của hoa khô, khắp nơi bày la liệt các giỏ hoa đủ loại, đủ màu sắc. Ngay giữa phòng là một tấm lụa trong suốt, mượt mà, mềm như suối đang được trải ra trên một khung thêu to, đính thấp thoáng vài cánh hoa đỏ vàng. Không biết Lệ Kim lấy đâu ra loại hàng thượng hàng này. Chưa kịp lên tiếng hỏi, Lệ Kim nhìn thấy ta đã nói giọng ấm ức:

    - Thiên Ly người xem, Minh Sương nàng ta nhờ tiểu nữ đính hoa khô vào tấm lụa này, lại còn nói phải thêu bằng tay mới đẹp. Nhiều như vậy, một mình tiểu nữ làm bao giờ mới xong.

    Ta nhíu nhíu mày:

    - Nàng ta đính hoa vào tấm lụa này để làm gì?

    - Tiểu nữ nghe nói là để làm quà biếu cho Tây Vương Mẫu.

    Thì ra đó là lý do nàng ta bận rộn như vậy, hiển nhiên là phải chuẩn bị lễ biếu cho cả sư phụ. Ta nhìn mấy giỏ hoa đào hồng, hoa mận trắng, hoa đỗ quyên đỏ, nhìn sang tấm lụa mềm mại trải khắp phòng rồi lại nhìn Lệ Kim đang tập trung thêu thêu vá vá, tỏ ra vô cùng cảm thông:

    - Vất vả cho ngươi rồi!

    Buổi tối, Minh Sương đã rảnh hơn, ta sang phòng kiếm nàng ta. Sau khi nghe ta kể sơ qua việc lên gặp Tào Đẩu đã xong, giờ về am chuẩn bị mọi thứ để xuống dương gian, Minh Sương ngẫm nghĩ:

    - Thôi thì ngươi cứ tập trung làm cho xong việc đi, có gì sư phụ về ta sẽ báo trước với người một tiếng.

    Ta cũng yên tâm, liền hỏi sang chuyện cô nương Lệ Kim:

    - Minh Sương ngươi cũng thật biết cách tận dụng người rảnh rỗi.

    Nàng ấy cười:

    - Ta thấy cô ta ăn không ngồi rồi ở đây mãi, ngứa mắt nên nhờ chút việc thôi. Mà còn không phải là làm cho ngươi!

    - Sao lại làm cho ta? - Ta ngạc nhiên.

    Minh Sương lườm ta:

    - Quà biếu Tây Vương Mẫu, ta không chuẩn bị cho ngươi thì còn ai.

    Ta mới vỡ lẽ, hóa ra Minh Sương còn không quên cả ta, đúng là bằng hữu tốt. Ta cười ha hả rót cho nàng ấy một chén trà.

    Hai ngày sau, ta lại thu xếp để lên Thiên Đình. Lúc lướt qua đình hóng gió, ta nhìn thấy một vị sơ thần khí chất phi phàm, áo gấm thêu hình phượng, tóc dài nửa buộc nửa không, dáng thanh cao, tiên khí tỏa ra ngời ngời. Người có khí chất này ắt hẳn là đến để tìm sư phụ.

    Nhìn thấy có người đã ra tiếp đón, ta đang vội nên đi ngay, ánh mắt của ta và người đó chỉ kịp lướt qua nhau. Tim ta nhói lên một cái, mắt phượng mày ngài, đường nét hoàn mỹ, thì ra trên đời này cũng có thể có một nam nhân đẹp đến nhường ấy. Ta bay nhanh trên cánh rừng đỗ quyên trắng muốt, tim đau thắt từng hồi, cảm thấy tuổi già đang đến rất gần.

    Tại cung Nam Tào, ta và Bắc Đẩu được dẫn vào động Sen ở ngay phía sau ao sen của hắn. Động Sen là một nơi bất khả xâm phạm cất giấu những thứ bí mật của Nam Tào - tương tự như hang Ly ở núi Bạch Mộc của dòng họ ta. Nam Tào nói hắn ta sẽ giấu phần thân xác và tiên pháp của ta ở dưới này, để đảm bảo an toàn tuyệt đối. Ta nằm trên một chiếc giường làm bằng ngọc Hàn Băng, nó tỏa ra khí lạnh giúp giữ cho thân thể được nguyên vẹn. Nam Tào nói:

    - Dù sao ngươi cũng là con gái của Hồ Mai Ly nên không thể tùy tiện tìm một thân phận tầm thường, bọn ta đã phải trằn trọc suy nghĩ, hao tâm tổn trí mãi mới quyết định được. Đừng khiến cố gắng của bọn ta thành công cốc. Ngươi nhớ quy định chưa?

    - Không được sử dụng tiên phép, không được để lộ thân phận. - Ta chán nản nói.

    - Nhớ một điều nữa. - Lần này là Bắc Đẩu dặn dò. - Thân phận của ngươi sẽ chết vào năm Quý Sửu, trước Ngô Xương Ngập một năm, cố gắng thu xếp thực hiện ước nguyện của hắn sớm chừng nào hay chừng đó.

    - Lý do chết là gì? - Ta thắc mắc.

    - Bị hạ độc dược. - Bắc Đẩu nhìn ta, ánh mắt có gì đó áy náy. Cặp mắt hí hửng của Nam Tào là chuẩn bị được xem trò vui. Ta chợt thấy nhộn nhạo trong lòng, nhìn gã Tào gian xảo đó rút đi phần lớn tiên pháp theo quy định của tiên giới. Có tiếng Bắc Đẩu vang lên:

    - Tào thối, ta xong một phần rồi. Đến việc của ngươi, ta phải đi xử lý hồn của gã kia.

    Tất cả đột nhiên biến mất, ta dần dần trôi vào chốn vô thức.

    Lúc tỉnh lại, đập vào mắt là hai khuôn mặt lo lắng đang nhìn ta. Một người thanh niên tuấn lãng, khuôn mặt hiền từ, nhìn qua cách ăn mặc là biết con nhà quyền quý, nhìn thấy ta tỉnh lại thì ánh mắt trở nên vui mừng. Không tồi, nếu có thể là thê tử hoặc tỷ muội của nam nhân tuấn tú đó, ngày ngày sẽ được ngắm mỹ nam.

    Thiếu niên thứ hai nhỏ tuổi hơn, khuôn mặt nhanh nhẹn, tươi sáng, lớn lên chắc hẳn rất có tương lai. Có tiếng người nói, tiếng người chạy ra chạy vào, chắc là thấy ta đã tỉnh lại nên đi gọi đại phu.

    Hai tên Tào, Đẩu không uổng là bằng hữu tốt của ta, cho ta nhập vào thân phận vừa giàu sang vừa có mỹ nam vây xung quanh.

    Hai tên đó cũng rất xứng danh là hai kẻ đại bỉ ổi, cho ta biến thành một tên nam nhân còn đẹp hơn mấy tên kia cộng lại, chỉ hận là không thể yêu chính bản thân mình. Ta nhìn vào khuôn mặt trắng trẻo, da dẻ mịn màng như nữ nhân ở trong chậu nước rửa mặt, liên tục thở dài. Nàng hầu bên cạnh thấy vậy liền lo lắng hỏi:

    - Công tử, người vừa thoát khỏi một trận thập tử nhất sinh, đáng lẽ phải rất vui mừng, cớ sao lại buồn như vậy?

    Ta buồn rầu đưa chiếc khăn mặt cho nàng hầu đó, xua xua tay không nói gì.

    - Công tử, hoàng tử Ngô Xương Văn có lời, nếu người đã khỏe hẳn thì ra dùng bữa tối cùng mọi người trong phủ ạ! - Trước khi đi nàng ta cung kính nói.

    - Được! - Ta miễn cưỡng lên tiếng, chất giọng nam tính này, quả thật không quen.

    Ta hiện tại tên là Ngô Nam Hưng, em trai ruột của Ngô Xương Văn, em cùng cha khác mẹ với Ngô Xương Ngập, chú của Ngô Chân Lưu, năm nay vừa tròn mười bốn tuổi. Dưới ta còn có một em trai, nhỏ hơn ta một tuổi tên là Ngô Càn Hưng. Dương Bình Vương Dương Tam Kha đang trị vì bấy giờ chính là cậu ruột của ta, nhưng y chỉ nhận mỗi Ngô Xương Văn là con nuôi nên hắn được phong làm hoàng tử. Ta và Càn Hưng không có chức vị, chỉ là được Ngô Xương Văn xin với Dương Tam Kha cho hai bọn ta về ở trong phủ của hắn.

    Từ bé đến giờ Ngô Nam Hưng ta và Ngô Càn Hưng được mẫu hậu nuôi dưỡng trong cung của người, vừa mới được Ngô Xương Văn đón về, hiển nhiên nhiều chuyện cũng chưa nắm rõ. Ta tuy đã đọc qua cuộc đời của những người này nhưng không để tâm kỹ lắm, chỉ chú ý đến các mỹ nhân, mỹ nữ liên quan đến họ. Hai gã Tào Đẩu đó không thèm nói trước với ta một tiếng, giờ đây ta chỉ có thể dựa vào trí nhớ mông lung này để thực hiện việc lớn thôi. Thấy ta thở dài, hoàng tử Ngô Xương Văn nói giọng quan tâm:

    - Nam đệ, dù sao cũng đã tai qua nạn khỏi rồi, đệ đừng suy nghĩ nữa.

    - Nhị huynh, đệ không sao! Chỉ là..

    Ta bỏ lửng câu nói, gắp một miếng dưa muối cho vào bát. Càn Hưng nhìn ta tủm tỉm cười:

    - Chỉ là tam huynh không ngờ rằng mình lại có thể suýt tử nạn chỉ vì một hạt na.

    Ta tím mặt, không nhắc thì thôi, nhắc đến lại sôi hết ruột gan. Gã Bắc Đẩu đó nghĩ ra lý do chết bất đắc kỳ tử cho gã Nam Hưng này cũng thật là.. Chí ít cũng phải giữ chút thể diện cho ta chứ, đằng này lại cho gã đó bị nghẹn hạt na mà lăn đùng ra chết. Xong đợt này về không tìm hai tên đó tính sổ, ta thề ta không làm hồ ly..

    Một tuần trôi qua, ta cũng dần nắm bắt được nhịp sống của Ngô Nam Hưng. Nhị huynh Ngô Xương Văn là một người hiền lành, nhân hậu, làm việc luôn vẹn toàn, suy nghĩ trước sau, Dương Tam Kha quả nhiên có mắt nhìn người. Ngô Càn Hưng là một cậu em lanh lợi, hiếu động, rất thích học võ nhưng việc đấy tuyệt đối bị cấm trong phủ.

    Theo cách mà mọi người đối xử với mình, ta tạm suy ra được tính cách của Ngô Nam Hưng, có vẻ ít nói nhất, hay trầm tư suy nghĩ, thích đọc sách và vẽ tranh. Mặc dù nhiều hơn Càn Hưng có một tuổi nhưng suy nghĩ chín chắn hơn và luôn được Xương Văn tin tưởng hỏi ý kiến về một vấn đề quan trọng nào đó. Trong phòng của Nam Hưng có rất nhiều sách, toàn là sách viết về việc giao thương, buôn bán. Những loại sách về binh pháp, chiến lược dường như cũng bị cấm ở đây. Đó là một minh chứng cho việc suy nghĩ thấu đáo của Xương Văn.

    Ta và Càn Hưng có vào cung thỉnh an mẫu hậu một lần. Dương Hậu, người phụ nữ trải qua nhiều biến cố ấy là một người lặng lẽ, trầm tư. Chúng ta vui vẻ dùng bữa trưa, sau đó cùng ngồi thưởng trà trong vườn. Chỉ yên lặng nhìn nhau mà cũng thấy bình an. Phải chi cuộc sống cứ yên ả thế này mà trôi qua, con người không có tham sân si, không sinh ra đấu đá tranh giành quyền lực thì hay biết mấy.

    Ta cũng không biết sự xuất hiện của mình có làm thay đổi những việc sẽ xảy ra trong sổ Sinh mà Nam Tào đã soạn sẵn hay không. Chỉ biết là những sự kiện quan trọng vẫn sẽ diễn ra và sổ Tử của Bắc Đẩu thì không bao giờ thay đổi được. Ngô Nam Hưng sẽ không tránh khỏi việc bị đầu độc vào năm Quý Sửu. Ngô Càn Hưng vẫn sẽ phải ra đi trong oan khuất. Ngô Xương Văn bị chính sự thiện lương của mình tạo nên cái chết tang thương. Quy luật của tạo hóa, thật quá bi ai!

    Ta chẳng làm được gì dù đã biết trước những việc đau lòng đó, cái cảm giác bất lực này thật sự không muốn nếm trải thêm một lần nào nữa. Dù sao thầy trò nhà Nam Tào, Bắc Đẩu cũng đã phải nghiên cứu rất kỹ bảy đời bảy kiếp của từng người rồi mới viết nên câu chuyện cuộc đời họ. Buồn bã, cảm thán hay đau thương, vẫn phải hoàn thành cho tốt nhiệm vụ của Hồ Thiên Ly ta.

    Ngày qua ngày, ta mải mê suy tính làm sao để có thể ra ngoài dò la tin tức của đại huynh Ngô Xương Ngập. Ta cũng thừa hiểu nhất cử nhất động của huynh đệ ở đây sẽ luôn bị theo dõi nên mọi việc không thể làm bừa được.

    Dựa theo trí nhớ của mình, ta đoán là đại cục sắp có sự chuyển biến, chi bằng cứ dựa theo số Tào đã sắp đặt, còn hơn làm những việc thừa thãi. Ta kiên nhẫn tĩnh dưỡng trong phòng chờ đợi, quả nhiên sau hai tuần thời cơ đã tự đến.

    Hôm đó, ba huynh đệ bọn ta đang cùng nhau dùng bữa tối như bình thường. Sau khi đám người hầu dọn dẹp xong trên bàn, Xương Văn cho bọn họ lui ra hết rồi đưa mắt ra hiệu cho Càn Hưng. Cậu em út hình như đã quen thuộc với việc này. Cậu ta vác ghế lại ngồi ngay phía cửa ra vào của phòng, tai ghé sát cửa như để canh chừng điều gì đó. Xương Văn thắp thêm nến, nhẹ nhàng lấy giấy bút và một nghiên mực đã mài sẵn đặt lên bàn. Càn Hưng chợt lên tiếng:

    - Nhị huynh, đệ muốn học võ.

    Xương Văn trả lời, tay bắt đầu cầm bút chấm mực để viết:

    - Càn đệ, đệ vẫn còn bé, chờ đệ lớn thêm một chút sẽ được học.

    Càn Hưng nói giọng tức tối (nhưng khuôn mặt vẫn đầy cảnh giác chăm chăm nhìn ra ngoài cửa) :

    - Tại sao lúc nào đệ hỏi huynh cũng nói đệ còn bé. Đệ mười ba tuổi rồi, đã quá tuổi để bắt đầu học võ thuật.

    Xương Văn lại nói (tay đẩy mảnh giấy qua cho ta) :

    - Càn đệ, việc đệ muốn luyện võ nếu đến tai mẫu hậu, người sẽ rất đau lòng.

    Ta cầm mảnh giấy lên, trên đó ghi: "Thời cơ đã đến!"

    Ta chấm mực ghi lại: "Bao giờ?"

    Càn Hưng và Xương Văn vẫn đang nói qua nói lại chuyện học võ của đệ ấy. Xương Văn viết lên tờ giấy hai chữ: "Ngày mai."

    Ta cầm lấy nó, đang yên lặng suy nghĩ thì Xương Văn lại viết một mảnh giấy khác, đưa qua: "Mẫu hậu và Càn Hưng.."

    Ta chấm bút viết lại: "Đệ hiểu, huynh yên tâm!"

    Thấy hai huynh đệ kia sắp hết chuyện để nói, ta cũng góp thêm một câu:

    - Càn đệ, nếu rảnh rỗi quá không có việc gì làm, ta cho đệ mượn mấy cuốn sách dạy về nghệ thuật làm thương nhân của ta.

    Càn Hưng bĩu bĩu môi:

    - Tam huynh, huynh cứ giữ mấy cuốn sách đó mà làm giàu đi, đệ không có hứng thú.

    Xương Văn và ta cùng bật cười, ta chuyền cho huynh ấy mảnh giấy vừa viết, trên đó ghi hai chữ: "Bảo trọng!"

    Xương Văn mỉm cười, gật đầu sau đó nói:

    - Nam Hưng, tự dưng huynh thấy hơi lạnh, đệ mang chậu sưởi lại gần đây một chút!

    - Được! - Ta hiểu ý, bê chậu than đang cháy âm ỉ lại gần bàn, Càn Hưng cũng đang xách ghế tiến lại. Xương Văn mang toàn bộ đống giấy vừa viết bỏ vào chậu sưởi, tiếng lửa vang lên tách tách thật vui tai. Ba huynh đệ bọn ta nhìn ngọn lửa đang cháy, mỗi người có một suy nghĩ.
     
    Chỉnh sửa cuối: 8 Tháng mười một 2020
  6. Sương thuỷ tinh

    Bài viết:
    16
    Chương 4: Ngô Xương Ngập

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sáng hôm sau, ta và Càn Hưng vào cung thỉnh an mẫu hậu, mang theo hai hộ vệ võ nghệ cao cường. Trời trở rét nên thay vì thưởng trà ngoài vườn, ba chúng ta quây quần quanh chậu than ấm. Mẫu hậu đánh đàn, Càn Hưng thổi sáo, ta vẽ tranh. Khung cảnh không thể êm đềm hơn.

    Cuối giờ Thìn đầu giờ Tỵ, ta nghe thấy tiếng ồn ào ngoài cửa, tiếng chạy huỳnh huỵch, tiếng gươm kiếm va vào nhau. Ta lập tức gạt giấy bút sang một bên, tay nắm chặt chuôi dao giắt sẵn trong người, đứng chắn phía trước mẫu hậu và Càn Hưng. Hai người kia cũng dừng đàn và sáo lại. Một lúc sau, ba viên tướng mặc võ phục xông vào phủ. Tên đi đầu mặt mũi phàm phu, chưa hành lễ đã lên tiếng:

    - Mạt tướng được lệnh của Dương Bình Vương tới hộ giá Trưởng công chúa. Xin thất lễ với người!

    Hắn nhìn thấy hai bọn ta cũng chỉ nhướn mày không có ý kiến gì. Ta nghe mẫu hậu hít vào rất nhẹ ở sau lưng rồi nhẹ nhàng nói:

    - Làm phiền ba vị tướng quân rồi!

    Mẫu hậu bình thản ngồi uống trà, tỏ rõ bản lĩnh của một Vương hậu. Càn Hưng có chút căng thẳng, dù sao đệ ấy vẫn còn ít tuổi. Ta cũng ra vẻ thản nhiên ngồi xuống, nhận lấy chén trà từ mẫu hậu, tay kia vẫn nắm chặt chuôi dao dưới lớp áo.

    Bản thân ta tuy không liên quan đến đại cục, nhưng dù sao cũng mượn thân phận của Ngô Nam Hưng, có trách nhiệm bảo vệ mẫu hậu và đệ đệ của hắn là đương nhiên.

    Ta đã suy tính kỹ càng chuyện này. Dương hậu tuy là chị ruột của Dương Bình Vương nhưng đến bước đường cùng, không thể tránh khỏi việc bị hắn lợi dụng để uy hiếp nhị huynh. Càn đệ tuổi còn nhỏ, lại quá non nớt, chắc chắn cũng bị để ý đến. Ta chỉ có thể kéo hai người về một chỗ cho tiện việc bảo vệ.

    Hai hộ vệ ta mang theo có võ nghệ cao cường vẫn bị ba tên này đánh gục trong thời gian ngắn, chứng tỏ không phải hạng tầm thường. Ngô Nam Hưng tuy là nam nhân trói gà không chặt, nhưng Tiểu Thiên ta thì không dễ bị bắt nạt.

    Sự im lặng đáng sợ bao trùm toàn bộ cung cho đến tầm giữa giờ Ngọ, cửa bị phá tung ra, hai viên tướng khác xông vào, lập tức đánh nhau với hai tên chực sẵn ở đây. Tên cầm đầu còn lại tay phải giương kiếm lao thẳng về phía bọn ta. Y nhác thấy Càn Hưng đứng gần mình nhất nên nhắm đến đệ ấy. Ta rút vội con dao giắt ở lưng quần, nhắm hướng tay phải của y mà phi. Tuy bị bất ngờ nhưng y vẫn né được, chỉ bị sượt một tí qua da, lập tức đổi hướng tấn công về phía ta. Ta nhanh trí chộp lấy ấm trà ném thẳng vào mặt y, bị y chém luôn một nhát vào vai.

    Vừa lúc đó, Ngô Xương Văn cùng với một đám binh lính kịp xông vào và chế ngự cả ba người của Dương Bình Vương. Nhìn thấy nhị huynh, ta như trút được gánh nặng đang đè nặng trước ngực. Thì ra, khi không được sử dụng tiên pháp, ta lại trở nên vô dụng như vậy.

    Sau khi phân phó nhiệm vụ và cho quân lui ra ngoài, Xương Văn quỳ xuống trước mặt mẫu hậu vẫn đang ngồi, ta và Càn Hưng cũng quỳ xuống theo:

    - Mẫu hậu, nhi thần bất hiếu tới trễ, đã để mẫu hậu phải kinh sợ.

    Dương hậu nhìn khắp lượt ba chúng ta, sau đó thở dài và nói:

    - Xương Văn, dù sao cũng nên mở một con đường sống cho Tam Kha.

    - Nhi thần tuân chỉ!

    Mẫu hậu nhắm mắt lại, một giọt nước khẽ lăn xuống gò má, cũng không biết là vì nhẹ nhõm hay vì đau lòng. Bất chợt Càn Hưng la lên:

    - Tam huynh, máu kìa!

    Ta giật mình nhìn xuống mới thấy cánh tay áo màu tím than đã sẫm lại, ươn ướt, dính vào cánh tay, từng giọt màu đỏ tươi đang thi nhau rỉ xuống. Tiếng Xương Văn và mẫu hậu hốt hoảng gọi thái y trở nên xa xăm, đầu óc ta quay cuồng.

    Mùa đông năm Canh Tuất, Dương Bình Vương sai Ngô Xương Văn cùng hai tướng khác đem quân đi đánh hai thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình. Ngô Xương Văn đi được nửa đường dẫn quân quay lại lật đổ Dương Bình Vương, lên ngôi trị vì, tự xưng là Nam Tấn Vương, đóng đô ở Cổ Loa.

    Ngô Xương Văn không giết Dương Tam Kha, giáng xuống làm Chương Dương Công, ban cho đất làm thực ấp.

    Mùa xuân năm Tân Hợi, được Dương thái hậu ân chuẩn, Nam Tấn Vương cho người đón Ngô Xương Ngập về cung và cũng lên làm vua, hiệu là Thiên Sách Vương.

    Ngày Ngô Xương Ngập trở về và làm đại lễ lên ngôi vua, vết thương ở vai trái của ta cũng đã lành hẳn. Ta cùng Càn Hưng hoan hỉ đứng chờ trước cổng cung để đón đại huynh.

    Xương Ngập có khuôn mặt nam tính và dáng vẻ điềm tĩnh, chín chắn của một nam nhân trưởng thành. Từ đầu đến cuối buổi tiệc, cặp mắt huynh ấy nhìn mẫu hậu, nhìn Xương Văn, nhìn ta và Càn Hưng, tuyệt nhiên là ánh nhìn hờ hững, lạnh nhạt. Tiền Ngô Vương, sợi dây duy nhất liên kết giữa huynh ấy và chúng ta dù sao cũng không còn nữa.

    Ngô Xương Văn có vẻ rất bất ngờ khi ta ngỏ ý muốn sang cung của Thiên Sách Vương. Huynh ấy nói:

    - Nam Hưng, ta cũng đã tính sẽ cho một ai đó thân cận sang giúp đỡ Thiên Sách Vương, nhưng ngươi là người ta nghĩ đến cuối cùng.

    Ta mỉm cười:

    - Đa tạ Tấn Vương đã coi trọng! Thần vốn không có tài cán gì, chỉ mong có thể ở bên cạnh mà giúp đỡ về mặt tinh thần cho Thiên Sách Vương. Bên cạnh Tấn Vương còn có rất nhiều người tài, Càn Hưng cũng ngày một trưởng thành hơn. Thần tin tưởng người sẽ luôn sáng suốt và anh minh như hiện tại.

    Xương Văn không nói gì, chỉ thở dài rồi sai người mang giấy bút ra viết mấy dòng. Ta thẳng tiến đến cung của Thiên Sách Vương, dâng lên chiếu chỉ của Nam Tấn Vương đã viết sẵn. Xương Ngập đọc kỹ một lượt chiếu chỉ, dường như không bất ngờ lắm, sai người thu xếp chỗ ở cho ta, không tỏ rõ thái độ gì.

    Ngày qua ngày, ta sống như một phi tần bị thất sủng ở cấm cung. Thiên Sách Vương luôn dè chừng ta, tránh ta như tránh tà. Khi ta tìm cớ muốn dâng sớ hay tâu lên điều gì, hắn lập tức bận rộn việc khác mà không có thời gian, hoặc lăn đùng ra ốm. Ta tìm mọi cách để tiếp cận và giành lấy thiện cảm từ hắn, đọc mọi loại sách, nghĩ ra bao nhiêu kế hay về việc cai trị dân, việc thu thuế má, về sản xuất canh tác, về giao thương buôn bán. Những sớ chương dâng lên đều không có hồi đáp.

    Ngôi vua chưa được bao lâu, Xương Văn và Xương Ngập lại phải kéo quân đi dẹp loạn ở Hoa Lư. Hai người bọn họ đi cả tháng trời vẫn chưa thấy về. Ta cùng Càn Hưng qua thỉnh an Thái hậu. Người nhìn thấy khuôn mặt nhăn nhó buồn thảm của ta, mỉm cười vẻ hiểu biết:

    - Nam Hưng, nói cho mẫu hậu nghe, con có chuyện gì khó nghĩ phải không?

    Ta ngẫm nghĩ, hỏi cao kiến của một người từng trải cũng là cách hay, liền nói:

    - Thái hậu, tại sao có người con càng tỏ ý muốn tiếp cận thì lại càng tránh xa và đề phòng con? Phải chăng người đó thấy con vẫn chưa có đủ lòng thành?

    - Nam Hưng, có những chuyện không phải cứ nóng vội là được, người đó có thể đang cần thời gian để hiểu thấu lòng con. Cũng có khi người đó lại không thích sự vồ vập, vội vàng. Con hờ hững, lạnh nhạt thì người ta mới bắt đầu tò mò và để ý đến con hơn.

    Ta gật gù, mẫu hậu nói cũng có phần hợp lý. Người lại nói tiếp:

    - Nam Hưng, con có ý với tiểu thư nhà ai? Có cần mẫu hậu đứng ra làm chủ cho không?

    Càn Hưng bịt miệng cười, còn ta đỏ bừng mặt:

    - Mẫu hậu nói gì vậy? Nhi thần vẫn còn ít tuổi mà!

    Thái hậu và Càn Hưng càng cười to còn ta đỏ tới tận mang tai, chẳng lẽ lại phải nghiêm túc nói thẳng ra rằng: "Khởi bẩm mẫu hậu, nhi thần chỉ thích nam nhân mà thôi!"

    Hai vị Vương không đánh được Đinh Bộ Lĩnh, rút quân trở về. Các phi tần, cung nữ, nô tài trong cung đều kéo nhau ra cửa đón Thiên Sách Vương. Ta không có hứng thú, ngồi uống rượu một mình trong vườn đào. Tửu lượng của ta không tệ, rượu dưới dương gian lại nhẹ hơn rượu tiên giới mấy phần, nên uống bao nhiêu cũng không thấy say.

    Uống vào lại nhớ trước đây trên Thiên Đình, ta và hai tên Nam Tào, Bắc Đẩu thỉnh thoảng buồn lại rủ nhau uống rượu ngắm trăng. Uống đến mức cả ba đều nằm gục trên bàn rượu, lúc đó mẹ nuôi bắt được sẽ trách phạt rất nặng. Ta chỉ nhớ là ta không phải thực hiện hình phạt của mình nhưng không tài nào nhớ được vì sao.

    Trời về khuya ta uống một mình mãi cũng chán, loạng choạng đứng lên định đi vào phòng thì nhìn thấy vạt áo của ai đó đứng trước mặt. Ngước lên thì thấy Thiên Sách Vương, tưởng là hắn đi đường xa đã nghỉ ngơi từ lâu rồi mới phải, ta không thèm hành lễ, ngạc nhiên hỏi:

    - Thiên Sách Vương, người chưa nghỉ ngơi sao?

    Xương Ngập không trả lời, cho tên hầu bên cạnh lui đi. Sau đó hắn thản nhiên ngồi xuống đối diện ta. Ta rót rượu vào hai ly, hắn cầm lấy một ly, uống một hơi ngon lành, tuyệt nhiên không nói năng gì. Chúng ta cứ im lặng ngồi uống rượu như vậy đến hết đêm.

    Sáng hôm sau ta tỉnh rượu, đầu óc mơ hồ nhớ lại chuyện tối qua, cảm thấy dường như ta và Xương Ngập đã có bước tiến triển. Đến khi chạm mặt nhau, hắn vẫn một mực thờ ơ và lạnh nhạt, ta liền quyết định không quản việc của hắn nữa.

    Thấm thoắt một năm nữa trôi qua, Thiên Sách Vương ngày càng chuyên quyền, tự mình quyết định nhiều việc triều chính trọng đại. Nam Tấn Vương hiền lành luôn nhường nhịn cho đại huynh. Dương Thái hậu cả nể người con trưởng nên "mắt nhắm mắt mở" bỏ qua. Ta cũng không thèm để ý can ngăn gì, bởi có nói cũng vô ích.

    Ngày ngày ta chỉ an phận thủ thường nâng cao tay nghề vẽ tranh, vẽ phong cảnh chán lại quay sang vẽ chân dung các phi tần, mỹ nữ trong hậu cung đại huynh. Thỉnh thoảng đêm đến, ta sẽ cùng Thiên Sách Vương nhâm nhi vài chén rượu ngọt, ăn bánh trôi nước, nói dăm ba câu sáo rỗng.

    Một ngày trăng tròn cuối xuân năm Nhâm Tý, ánh sáng dìu dịu xuyên qua những cánh hoa đào cuối mùa đã nở bung và sắp tàn. Thiên Sách Vương hôm nay có tâm trạng tốt, uống hết hai bình rượu vẫn chưa chịu rời đi. Hắn nói:

    - Nam Hưng, ngươi cũng đã đủ trưởng thành rồi, ta sẽ phong cho ngươi làm Thân vương và ban cho ngươi một cung riêng.

    Trong lòng ta có một chút xáo trộn nhưng vẫn bình thản trả lời:

    - Tạ ơn Thiên Sách Vương đã lưu tâm, thần tự thấy bản thân vô dụng, không có tài cán gì nên không dám nhận chức Thân vương ấy. Chỉ mong Thiên Sách Vương vẫn cho phép thần ngụ tại đây bình yên sống qua ngày là đã mãn nguyện lắm rồi.

    Ta rót cho Xương Ngập một chén rượu, sau đó múc thêm hai viên bánh trôi vào bát của hắn. Hắn nhìn hai viên bánh trôi chằm chằm rồi lại nói:

    - Thái hậu cũng đã có lời, nói ta tìm cho ngươi một nữ nhi con nhà quan lại phù hợp. Ngươi cũng phải có cung riêng để "yên bề gia thất" chứ!

    - Thiên Sách Vương trách tội, vi thần quả thật vẫn chưa nghĩ đến chuyện đấy!

    Xương Ngập ngạc nhiên nhìn ta. Không màng sự nghiệp, cũng không đoái hoài đến nữ nhân, chắc là hắn đang nghĩ ta là loại "nam nhi đại trượng phu" gì vậy. Trước đây ta cũng đoán được hắn coi ta là người của Ngô Xương Văn, được gửi qua để giám sát hắn, tìm mọi cách nịnh bợ lấy lòng để tiếp cận hắn, họa mong có được chút lợi danh. Đến khi ta tỏ ra thờ ơ, hắn nghĩ ta đã bỏ cuộc nên coi thường ta, nhưng cũng bỏ đi chút ít đề phòng đối với ta. Hắn nghĩ, khi ban cho ta chức Thân Vương mục rỗng đó, ta sẽ phải mừng rỡ mà quỳ xuống tạ ơn hắn chăng?

    Một cánh hoa đào rơi xuống và xoay tròn trong chén rượu, ta thở dài, mùa hè lại sắp đến rồi, thời gian không còn nhiều nữa.

    Một ngày nọ, Thiên Sách Vương có chuyện không vui, hắn đã uống ở đâu say khướt, nửa đêm đến cung ta đập cửa đòi uống rượu tiếp. Từ lúc nào ta trở thành bạn tửu của hắn vậy?

    Ta phân phó cung nữ đi làm vài món rồi lại sai người hầu mang một bình rượu nếp cẩm ra. Hắn đã say đến vậy, cũng nên uống nồng độ nhẹ thôi. Nhưng Xương Ngập không màng uống rượu, hắn ngồi nói còn ta chống cằm ngồi nghe. Thì ra khi uống đến mức độ nào đó, Ngô Xương Ngập sẽ nói rất nhiều chuyện, những chuyện tưởng như không liên quan, chẳng đâu vào đâu, nhưng nghĩ kỹ sẽ ngẫm ra được vài thứ. Hắn nói:

    - Các ngươi nói ta chuyên quyền cũng được, dù sao ta cũng là con trưởng, dù sao ngôi Vương đó vốn là của ta cơ mà..

    Ta hiểu hắn đang nói đến chuyện gì, hẳn là hôm nay trên triều lại bị các quan phản đối chính sách nào đó. Chuyện này ta cũng có phần hiểu hắn, Nam Tấn Vương tính tình quá nhu mì, không thích hợp làm việc lớn. Những chuyện phải kiên quyết và ra tay nhẫn tâm một chút, Xương Văn không nỡ làm, Xương Ngập sẽ đứng ra một mình quyết định hết.

    Hắn lại nói:

    - Tại sao Xương Xí không mau chóng trưởng thành lên?

    Hiển nhiên Xương Ngập trông đợi rất nhiều vào đứa con trai này, nhưng Ngô Xương Xí mới chỉ có bảy tuổi, muốn cậu bé gánh vác việc lớn từ bây giờ, có nhẫn tâm quá không?

    Hắn hỏi ta:

    - Ngô Nam Hưng, ta hỏi ngươi, nếu ngày đó, ngươi là người của ta trước. Nếu rơi vào trường hợp ta và Ngô Xương Văn đối đầu nhau, ngươi cũng sẽ vì ta mà đỡ một nhát kiếm ở vai chứ?

    Câu hỏi này làm ta có chút bất ngờ, thì ra Thiên Sách Vương lại luôn cảm thấy cô đơn đến vậy. Hắn không thể tin tưởng ai, cũng không biết bày tỏ nỗi lòng cùng ai.

    - Thiên Sách Vương nghĩ nhiều rồi! - Ta nói. - Người và Nam Tấn Vương sẽ cùng nhau giữ vững triều đại nhà Ngô. Làm sao có chuyện đối đầu nhau được.

    - Trả lời câu hỏi của ta đi!

    - Thần đã thề trung thành với ai ngay từ đầu thì há gì cái mạng bé nhỏ này! - Ta bình thản nói.

    Thiên Sách Vương gạt hết chén đĩa trên bàn, sau đó giận dữ bỏ về.

    Ta những tưởng sau hôm đấy Xương Ngập sẽ không ngó ngàng gì đến ta nữa, không ngờ một tuần sau lại thấy hắn xuất hiện, tiếp tục ngồi thưởng rượu với ta, dường như không nhớ một chút gì về buổi tối hôm đó. Chúng ta lại tiếp tục uống rượu, thưởng trăng, không nói nhiều chuyện. Cũng chỉ là ta đang tìm cơ hội để chuốc hắn uống thật say và hỏi cho rõ thắc mắc của mình mà thôi.

    Một ngày mùa hạ đẹp trời, trăng thanh gió mát, bên cung Nam Tấn Vương vẳng lại tiếng sáo của Càn Hưng. Thiên Sách Vương và ta cùng ngồi uống rượu, yên lặng lắng nghe tiếng sáo dặt dìu, khi trầm bổng, lúc lại thanh toát. Xương Ngập rất có nhã hứng, tay gõ lên mặt bàn, thỉnh thoảng còn ngâm nga theo điệu sáo.

    Đến nửa đêm, Càn Hưng thôi thổi sáo, không gian trở nên yên tĩnh. Hai chúng ta cũng đã uống khá nhiều rượu, nói đúng hơn là Thiên Sách Vương đã gần say, ta chỉ ngồi chăm chăm châm tửu cho hắn và rung đùi ăn lạc rang. Ta đang thầm tính toán xem đã đến mức độ của hắn chưa để hỏi một số chuyện, không ngờ Xương Ngập lại lên tiếng trước:

    - Nam Hưng, ngươi nói xem, cuộc đời nam nhân thì cái gì là quan trọng nhất?

    Ta cúi đầu nghĩ xem hắn có ý gì rồi trả lời:

    - Thưa Thiên Sách Vương, theo thần thì đó chính là công danh, sự nghiệp và địa vị.

    Hắn nói giọng mỉa mai:

    - Ngươi mà cũng biết nhắc đến ba từ ấy?

    Ta cười nhẹ:

    - Thần đang xét về nam nhân trong thiên hạ, hoàn toàn không đứng ở góc độ của bản thân.

    Đoạn đưa bình rượu lên rót cho hắn một chén. Hắn cầm lên, một hơi uống sạch. Ta cũng biết, khi người ta đã đạt được tất cả những thứ đó rồi, cũng là lúc cảm thấy cô đơn nhất.

    Ta yên lặng châm tửu vào cả hai chén. Hắn vẫn lảm nhảm:

    - Ta và Ngô Xương Văn đều có tất cả những thứ đó. Tại sao chúng ta lại không giống nhau!

    Xương Văn còn có thêm Thái hậu, có ta, có Càn Hưng, có bá quan văn võ một mực trung thành, làm sao có thể giống hắn được. Ta thở dài, ly rượu vừa nhấp trên môi trở nên đắng ngắt, khẽ hỏi:

    - Thiên Sách Vương, thần có câu hỏi này hơi mạo muội, mong ngài đừng trách phạt!

    Xương Ngập khẽ gật đầu:

    - Cứ nói!

    Ta khẽ chạm vào chén rượu của mình, điểm qua một lần nữa câu hỏi rồi mới mở lời:

    - Hiện tại, nguyện ước lớn nhất của người là gì?

    Xương Ngập nhìn ta, ánh trăng đã bị một chút mây che phủ, ta không thấy rõ đôi mắt, không đoán được hắn đang nghĩ gì. Một lúc lâu sau Xương Ngập mới lên tiếng:

    - Con trai trưởng của ta tên là Ngô Xương Tỷ, trước đây vì chạy loạn nên phải gửi gắm nơi cửa Phật, hiện giờ cũng không biết đang lưu lạc ở phương nào. Nếu có thể chỉ muốn gặp mặt một lần nữa để xem nó sống có tốt hay không.

    Nói xong liền đứng dậy loạng choạng rời đi, ta nhìn theo bóng lưng đơn độc của hắn, cảm thấy mình chưa thật sự hiểu hết về con người này. Một cơn gió mát lành thổi đến, len lỏi khắp cơ thể, cảm giác thật dễ chịu. Ngô Chân Lưu, không uổng công ngươi nhường lời ước lại cho cha của mình. Giữa lúc đã đạt được mọi thứ quyền lực, ông ấy cũng chưa bao giờ quên ngươi.

    Từ bây giờ, ta bắt đầu mường tượng ra được những việc cần làm tiếp theo.

    Đầu tiên ta thảo một sớ văn rất dài, nói về mối liên hệ và sự cấp thiết của việc truyền bá đạo Phật đi kèm với công cuộc dựng nước. Sau đó ta dâng sớ lên Nam Tấn Vương lẫn Thiên Sách Vương. Hai vị Vương sau khi đọc xong lập tức triệu ta lên buổi thiết triều để phân tích về việc này. Hầu hết các vị quan đều đồng thuận với cao kiến của ta sau một hồi thảo luận.

    Tiếp đó ta nêu ra việc chủ chốt trước mắt là phải cử một vị sứ giả đi tìm hiểu về đạo Phật trong dân chúng, đến các ngôi chùa nổi danh thời bấy giờ, tìm gặp các vị cao tăng am hiểu sâu sắc về Phật pháp. Đương nhiên ta cũng đứng ra nhận luôn trách nhiệm làm vị sứ giả quan trọng đó. Thiên Sách Vương ân chuẩn ngay cho ta, Nam Tấn Vương sau một hồi chần chừ cũng đã chấp thuận.

    Khó khăn tiếp theo là thuyết phục Thái hậu cho phép ta lên đường. Mẫu hậu quả nhiên phản đối rất gay gắt. Người nêu ra những khó khăn trở ngại ta sẽ gặp phải trên đường, người nói ta vẫn chưa đủ trưởng thành, người sợ ta không có ai chăm sóc. Ta cười giả lả cố gắng trấn an mẫu hậu, sau đó nhấn mạnh vào việc truyền bá đạo Phật quan trọng như thế nào đối với hai vị Vương. Thái hậu cau mày:

    - Nhưng tại sao vị sứ giả đó lại phải là con?

    - Bởi vì vi thần là người đã nghĩ ra và tấu trình lên việc này, thần sẽ là người thực hiện nó tốt nhất. - Mẫu hậu yên lặng suy nghĩ, ta nói thêm. - Thái hậu, thần thật sự đã trưởng thành rồi! Nam Tấn Vương cũng sẽ cử rất nhiều cao thủ đi theo bảo vệ cho thần!

    - Đối với mẫu hậu, chưa yên bề gia thất tức là con vẫn chưa trưởng thành. - Thái hậu nghiêm khắc nói.

    Ta cười, chớp lấy cơ hội:

    - Mẫu hậu, con hứa với người sau chuyến đi này, khi trở về cung, con sẽ suy nghĩ về việc thành gia lập thất.

    Thái hậu mắt sáng rỡ:

    - Nam Hưng, con nói thật sao?

    - Quân tử nhất ngôn, vi thần đã hứa với mẫu hậu thì đương nhiên sẽ làm.

    Nhờ thế Thái hậu mới gật đầu ân chuẩn cho ta. Ta có phần háo hức lập tức trở về cung chuẩn bị lên đường. Mẫu hậu à, thật có lỗi với người, khi con trở về e là thảm kịch đầu độc sẽ xảy ra, lúc đó sợ rằng muốn nghĩ đến chuyện hôn sự cũng hơi khó. [\BOOK]
     
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng mười một 2020
  7. Sương thuỷ tinh

    Bài viết:
    16
    Chương 5: Bôn ba

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cuối cùng thì cũng có thể lên đường, Thiên Sách Vương cử năm người tinh thông võ nghệ, một người hầu cận đi theo bảo hộ cho ta. Ta liếc đội quân phía trước và phía sau, len lén thở dài sau đó thúc ngựa phóng đi.

    Cảm giác phi ngựa qua những con đường thành quách mấp mô, cánh đồng thảo nguyên bao la, những rừng cây cao vút, đồi núi quanh co, thật không ngờ lại thú vị đến vậy. Giờ ta đã hiểu vì sao các bậc anh hùng lại thích hành tẩu giang hồ, đại huynh tại sao lại suốt ngày bôn ba khắp nơi. Thì ra cảm giác phiêu diêu tự tại chính là đây.

    Hiện tại đang là mùa thu năm Nhâm Tý, ta cũng không có gì phải vội, vui vẻ kết hợp giữa công việc sứ giả được giao cùng với tận hưởng những tháng ngày rong chơi dưới dương gian. Chỉ có điều mang theo tận sáu người hộ tống hình như hơi phiền, ta cũng không thể thoải mái cưỡi ngựa thưởng ngoạn cảnh đẹp hay nếm thử tất cả các món ăn ngon ở những vùng ta đặt chân đến.

    Nơi đầu tiên ta muốn đến đương nhiên là Khai Quốc Tự, nơi Ngô Chân Lưu từng thọ giới cụ túc với thiền sư Vân Phong.

    Một hộ vệ mặt mũi khá sáng sủa, nghe ta nói muốn đến chùa Khai Quốc trước tiên vội lên tiếng ngăn cản:

    - Chủ tử, tiểu nhân trộm nghĩ, hiện giờ nơi tập trung đông đảo chùa chiền nhất chính là thành Luy Lâu vùng Vũ Ninh. Tại sao chúng ta không đến đó trước rồi lại vòng về Đại La sau?

    Ta nhìn hắn một lát rồi nhẹ nhàng hỏi:

    - Ngươi tên gì?

    Hắn hơi ngỡ ngàng sau đó dõng dạc trả lời:

    - Tiểu nhân tên Phùng Tứ, là đội trưởng đội hộ vệ số năm.

    Ta gật gù, cân nhắc về việc giữ hắn lại bên cạnh, phân tích cho hắn hiểu:

    - Chính vì thành Luy Lâu là nơi tập trung các ngôi chùa, sẽ cần rất nhiều thời gian ở đó nên ta chọn Vũ Ninh là vùng cuối cùng chúng ta đặt chân đến.

    Phùng Tứ hiểu ý ta, thôi không thắc mắc, ra lệnh cho đội hộ vệ lên đường theo chỉ đạo. Bọn ta cưỡi ngựa đến chùa Khai Quốc khi trời đã nhá nhem tối, ta một mình vào chùa mang theo bức thư của Thiên Sách Vương, diện kiến thiền sư Vân Phong. Sau đó ta sai người tìm một khách điếm phía ngoài để nghỉ ngơi, tránh ảnh hưởng đến sự thanh tịnh của chùa.

    Sáng hôm sau, ta dậy sớm để vào chùa, chỉ mang theo hai người hộ vệ. Ta tự xưng mình là Tam Hưng, đơn thuần là sứ giả của triều đình để tránh tai mắt không đáng có. Ta dành cả buổi sáng đàm đạo với thiền sư Vân Phong về Phật pháp, hỏi người một số vấn đề liên quan đến việc thuyết giáo, việc truyền bá đạo Phật trong dân chúng. Ba chúng ta được mời bữa cơm chay đạm bạc nhưng rất ngon miệng.

    Buổi chiều, ta mang theo một người hộ vệ có vẻ ít nói và kín tiếng nhất trong đám tên là Hải Bình, đi dạo trong thành Đại La. Sau khi nếm đủ mọi món ngon mà ta nhìn thấy trên đường, đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm thành Đại La, mặt trời đã dần khuất sau núi, ta quay sang hỏi tên hộ vệ vẫn yên lặng từ đầu buổi đến giờ:

    - Hải Bình, theo ngươi, buổi chiều hôm nay chúng ta rút ra được kết luận gì?

    Tên hộ vệ gãi đầu gãi tai, thật thà nói:

    - Chủ tử, tiểu nhân nói thật mong ngài đừng giận. Suốt buổi chiều nay, tiểu nhân chỉ biết được là mấy món ăn ven đường dù rẻ tiền nhưng rất ngon, các món thịt và cá ở quán ăn đông khách nhất thành đều hơi mặn. Các con phố, ngõ hẻm toàn là mùi của ngũ tạng động vật, lông gà lông vịt rải khắp nơi..

    Ta gật gù hài lòng, không uổng công tin tưởng mang hắn đi theo, những người ít lời thường có mắt quan sát rất tốt.

    Hôm sau, ta dành cả ngày để nghiên cứu về kiến trúc và cách bố trí sắp xếp của ngôi chùa. Thiền sư Vân Phong bận giảng đạo cả ngày nên ta cũng không muốn làm phiền. Ta có ghé qua pháp đường một lát, thấy thiền sư đang rất tập trung vào bài giảng, phía dưới chủ yếu là các vị tăng ni và chú tiểu chăm chú lắng nghe, có rất ít Phật tử là dân thường.

    Buổi tối, ta thảo ngay một bức thư báo lại tình hình để gửi về Cổ Loa. Đại khái trong thư kể lại sự xuống cấp cần phải tu bổ của một số nơi trong chùa Khai Quốc. Tiếp đó ta nói về phương pháp giảng dạy và truyền bá kinh pháp của nhà chùa. Sau cùng ta nói về việc người dân vẫn chưa thực sự chú ý lắm đến đạo Phật, vẫn giữ thói quen ăn mặn và giết mổ động vật tràn lan.

    Hôm sau ta xin phép thiền sư Vân Phong được nghiên cứu các loại sách về Phật giáo đang được lưu trữ tại chùa. Thiền sư lập tức sai một vị tăng ni dẫn ta đến nhà kho lưu sách. Ta xem xét mấy cuốn sách quý, cảm thấy nếu có thể chép lại chúng để lưu truyền cho muôn đời sau thì thật tốt. Một lúc ta vô tình hỏi thăm về nhà sư Ngô Chân Lưu, vị tăng ni kia liền trả lời:

    - Thưa thí chủ, nhà sư Ngô Chân Lưu trước đây đúng là có thọ giới cụ túc tại chùa này. Sau đó, thiền sư Vân Phong đã cho phép thầy đi tham vấn Thiền học ở khắp nơi. Hiện thầy đang ngụ tại nơi nào thì không ai biết được.

    Ta khẽ thở dài, xem ra đúng là phải tự mình đi tìm thật.

    Quá trưa, ta sai một người hộ vệ mang bức thư ta soạn lúc tối về thành Cổ Loa, còn lại sáu người chúng ta từ biệt thiền sư Vân Phong cùng các tăng ni chùa Khai Quốc, tiếp tục lên đường.

    Chúng ta tiến về phía Nam, bắt gặp bất cứ chùa chiền hay miếu hoang, am tự nào cũng dừng lại quan sát. Ta tập hợp rồi viết thư tay, sai một người hộ vệ mang về kinh thành. Chẳng mấy chốc đội quân sáu người ban đầu chỉ còn lại hai, tên hầu cận vướng víu chân tay cũng đã bị ta sai mang thư về, chỉ giữ lại Phùng Tứ nhanh nhẹn, hiểu biết và Hải Bình trầm lặng, hay quan sát. Trên đường đi gặp khá nhiều gian truân, bị cướp chặn trong hẻm núi, bị kẻ gian trộm mất túi tiền. Cũng may mấy người hộ vệ đều có võ nghệ cao cường, còn ta nhanh ý chia nhỏ số tiền mang theo, phát cho mỗi người một túi dắt ở lưng quần, mất túi này còn có túi khác mà dùng.

    Khi ta khăng khăng tiến về phía Hoa Lư, Phùng Tứ ngăn cản mãi không được đành phải nghe theo. Ta biết đây là địa phận của người họ Đinh mà Thiên Sách Vương và Nam Tấn Vương đã từng đích thân đi dẹp loạn nhưng thất bại. Chỗ này địa hình núi non hiểm trở, rất thích hợp cho bọn sơn tặc làm địa bàn lâu dài. Nhưng biết đâu được Ngô Chân Lưu đang lưu lạc tại chốn này, có ai lại đi cướp tiền và gây khó dễ cho một nhà sư nghèo khổ đang đi khất thực bao giờ.

    Chúng ta đến đền Đông Hội và ở lại một ngày, vẫn không thấy tung tích của Ngô Chân Lưu. Trên đường đi và về may mắn không gặp phải thổ phỉ, xem ra người họ Đinh đó cai quản vùng đất này không tệ. Không cần Phùng Tứ và Hải Bình ngăn cản, ta cũng không có ý định đi sâu vào các vùng loạn lạc Ái Châu và Hoan Châu làm gì.

    Ba người chúng ta thúc ngựa quay lại, thẳng tiến đến thành Luy Lâu ở vùng Vũ Ninh. Lúc này thời tiết đã sang đông, gió rét căm căm, cưỡi ngựa chạy liên tục trên đường đúng là cơn ác mộng. Cuộc hành trình nhiều lúc phải dừng lại do thời tiết quá khắc nghiệt, thành ra khi đến được thành Luy Lâu, cũng đã là cuối năm, sắp sửa bước sang năm mới, năm Quý Sửu.

    Đến thành Luy Lâu thì đã nhá nhem tối, trời đang mưa rả rích, lạnh đến thấu xương. Bọn ta dừng lại trước một quán ăn có vẻ đông khách. Ta run lẩy bẩy đưa nón, áo tơi và ngựa cho Phùng Tứ, sai Hải Bình đi kiếm một khách điếm để thuê phòng trọ.

    Bước vào quán ăn, cảm giác ấm áp lùa vào mọi ngóc ngách cơ thể, ta mang đôi giày ướt sũng lê bước đến một bàn trống phía góc trong cùng, Phùng Tứ vừa vào liền vội vàng đi gọi món. Chợt một tên thiếu niên to béo ở dãy bàn giữa đứng bật dậy, va vào người làm ta suýt ngã. Gã liếc ta một cái rồi lật đật đi mất. Ta có cảm giác chuyện gì đó không đúng vừa xảy ra, định quay lại gọi Phùng Tứ thì nhìn thấy một vị công tử đang đạp cho gã béo một cước ngã lăn ra đất. Vị công tử đó nói:

    - Tiểu tử, ngươi quên gì kìa?

    Sau đó lấy từ trong người hắn ra một bọc tiền quen thuộc, ném về phía ta:

    - Ngươi quên trả lại tiền cho công tử đây rồi!

    Ta tóm lấy bọc tiền, đầu óc mịt mờ âm u. Đây là bọc tiền duy nhất còn lại của ba người chúng ta, nếu để mất không biết sẽ phải sống thế nào trong những ngày sắp tới. Phùng Tứ đã quay lại, kịp hiểu sự việc, túm lấy gã thiếu niên đó và sắp sửa cho hắn một trận. Ta lên tiếng ngăn cản:

    - Phùng Tứ, chỉ là một gã thiếu niên mới lớn chưa biết suy nghĩ, tha cho nó.

    Phùng Tứ nghe lời ta, đá cho gã đó một cú lăn cù ra cửa, quát lên:

    - Cút! Đừng có để chủ tử ta nhìn thấy mặt một lần nữa.

    Chủ quán và bọn tiểu nhị chạy đến, rối rít xin lỗi. Ta xua xua tay, không có ý làm to chuyện, bọn họ liền lập tức lui về quầy. Lúc này mới có dịp nhìn đến vị ân nhân của ta, mắt phượng mày ngài, dáng thanh cao mặc một bộ đồ màu xanh lam nhạt làm tôn lên nước da trắng trẻo, tóc được búi lại gọn gàng ở trên đầu, trong đáy mắt thấp thoáng một tia vui vẻ, khí chất không tệ. Ta lên tiếng:

    - Đa tạ vị công tử đã ra tay nghĩa hiệp. Xin được mạn phép hỏi quý danh cùng chỗ ở, sau này có dịp nhất định sẽ trả ơn.

    Hắn cười:

    - Vị huynh đệ này không cần khách sáo. Ta chỉ thấy chuyện bất bình giữa đường không thể làm ngơ, không dám nhận là ơn huệ.

    Ta liếc thấy hắn đang ngồi một mình, vui vẻ nói:

    - Nếu công tử không chê, xin mời dùng bữa cùng thầy trò chúng tôi, chỉ là vài món ăn đạm bạc, thêm người thêm ngon miệng.

    - Công tử đã có lòng, ta sẽ không khách sáo.

    Sau đó tự nhiên như đã thân quen từ lâu, chúng ta tiến lại bàn và ngồi xuống đối diện nhau. Hải Bình cũng vừa về, đồ ăn và rượu nhanh chóng được dọn ra. Ta vốn là người không câu nệ lễ nghĩa, Phùng Tứ cùng Hải Bình đi theo ta lâu cũng hiểu được. Hai người bọn họ cắm cúi ăn uống, ta và vị công tử kia thong thả vừa ăn vừa trò chuyện. Người đó tên là Đại Thiên, vốn là người ở thành Đại La, đang đi chu du khắp thiên hạ. Ta cũng chỉ nói qua là chủ tớ bọn ta đang đi công chuyện cho người nhà.

    Sau bữa ăn, chúng ta cáo biệt nhau ở trước cửa quán, hẹn ngày tái ngộ. Ta nhìn những hạt mưa bay bay rơi xuống chiếc ô màu tím than của hắn, nhìn những bước chân tiêu sái như không hề nhiễm bụi trần, trong lòng bỗng quặn lên một cái. Ta lên tiếng gọi:

    - Hải Bình.

    Hải Bình hiểu ý, đội nón, che áo tơi cho ta sau đó thấp giọng nói:

    - Chủ tử, người này lai lịch không rõ ràng, khí chất lại phi phàm, chắc hẳn có xuất thân không tầm thường. Nếu có gặp lại, chủ tử nên cẩn trọng.

    Ta gật đầu, rất giống ý ta. Sau đó Phùng Tứ mang ngựa đến, ba người chúng ta cưỡi ngựa trong mưa, trở về khách điếm.

    Tối hôm đó, ta có một giấc mơ. Ta mơ thấy lúc ta còn nhỏ khoảng năm ngàn tuổi, đang ở tại cung của mẹ nuôi trên Thiên Đình. Một ngày ta gặp một cậu bé trạc tuổi, tóc đen hơn tóc mẹ Mai Ly, mắt phượng sắc sảo, da trắng hơn da ta, miệng cười sáng hơn cả ánh dương phía sau cậu ấy. Trước đến giờ ta đã tưởng nhị huynh Huy Ly là người con trai đẹp nhất trên thế gian, không ngờ còn có người đẹp hơn anh ấy rất rất nhiều. Cậu bé đó cười rạng rỡ nắm lấy tay ta:

    - Thiên Ly, ta có thể chơi cùng muội không?

    Ta cứ cười một cách ngây ngốc để yên cho cậu ấy nắm tay lôi đi.

    Sáng mai tỉnh dậy, nụ cười ngây ngốc vẫn đang đọng lại trên môi, ta đang thẫn thờ ngồi nhớ lại giấc mơ thì có tiếng Phùng Tứ khẽ gọi bên ngoài. Ta vội chuẩn bị mọi thứ để tiếp tục lên đường. Trời còn giá lạnh nhưng không mưa nữa, ta nhìn bầu trời vẫn còn xám xịt nhưng khô ráo, tâm trạng thật tốt, có cảm giác hôm nay sẽ gặp được chuyện vui.

    Quả nhiên, khi ba người chúng ta dừng ngựa trước cửa chùa Pháp Vân, gặp được một lúc hai người quen.
     
  8. Sương thuỷ tinh

    Bài viết:
    16
    Chương 6: Đầu độc

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngay trước cổng chùa Pháp Vân, bọn ta gặp Ngô Chân Lưu và Đại Thiên đang đi cùng nhau, sắp sửa bước vào chùa. Nhà sư kia không thay đổi, vẫn khuôn mặt thanh thoát, vẫn cặp mắt sáng ngời, tính cách dường như có phần chín chắn thâm trầm hơn. Ngô Chân Lưu đương nhiên không biết ta, Đại Thiên kia cũng xem như là quen biết. Chúng ta liền chào hỏi hàn huyên một lúc.

    Thì ra Ngô Chân Lưu và Đại Thiên gặp nhau trên đường nhà sư đi tìm hiểu về Phật pháp, sau mấy lần đàm đạo, Chân Lưu nhận ra Đại Thiên có một hiểu biết rất thâm thúy và sâu sắc về đạo Phật liền ngỏ ý mời anh ta đi tìm hiểu cùng mình. Sẵn dịp đang bôn ba nên Đại Thiên vui vẻ đồng ý. Hai người đã đến thành Luy Lâu một thời gian, Chân Lưu ngụ trong chùa Pháp Vân còn Đại Thiên thuê một phòng trọ ở khách điếm bên ngoài. Khi ta giới thiệu mình là sứ giả của triều đình, Ngô Chân Lưu lập tức trở nên vui vẻ còn Đại Thiên không tỏ rõ thái độ gì.

    Thiền sư trụ trì chùa Pháp Vân đã tiếp đón ta rất chu đáo, nhưng thiền sư khá bận rộn nên Chân Lưu đứng ra nhận trách nhiệm sẽ dẫn ta đi thăm các ngôi chùa nằm trong vùng Vũ Ninh này. Ta vui mừng không để đâu cho hết.

    Chân Lưu dẫn ta, Đại Thiên và hai hộ vệ đi một vòng chùa Pháp Vân, giới thiệu về kiến trúc, cách bố trí nhà, chùa, tháp, các bức tượng được đặt trong chùa. Chúng ta say sưa ngắm nhìn các pho tượng được điêu khắc tỉ mỉ, ngôi tháp cao và những ao sen trắng, hoa súng tím xen lẫn vào nhau. Tất cả tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp đặc trưng nhất của một ngôi chùa. Mọi người quyết định nghỉ dừng chân tại bộ bàn ghế gỗ đặt dưới cây đa cổ thụ khổng lồ. Tại đây Chân Lưu say sưa kể chuyện về thiền sư Khâu-Đà-La và Phật mẫu Man Nương.

    Những ngày sau đó, Chân Lưu dẫn ta cùng Đại Thiên đi khắp hệ thống chùa chiền ở vùng đất trung tâm của Phật giáo này. Mỗi ngôi chùa có những nét riêng biệt, những câu chuyện riêng, đều được nhà sư trẻ giới thiệu và kể một cách rất tự hào. Ba chúng ta cũng từ đó mà trở nên thân thiết, có lúc say sưa luận đàm về Phật pháp đến nỗi Phùng Tứ phải lên tiếng nhắc nhở, ta mới biết đã qua giờ Tuất mà chúng ta vẫn chưa dùng cơm tối.

    Những khi Chân Lưu bận việc trong chùa, ta lại cùng Đại Thiên rong ruổi trên khắp thành Luy Lâu. Tiếp xúc với Đại Thiên mới thấy ta và hắn có rất nhiều điểm chung, giống như đã thân quen từ lâu vậy. Hắn và ta có thể ngồi hàng giờ trong một quán trà đạo, chỉ im lặng ngồi uống trà, nhìn ngắm người qua lại trên phố, tuyệt nhiên không nói năng gì, vậy mà không hề cảm thấy khó chịu hay ngượng ngùng. Đôi lúc chúng ta lại cùng say sưa lắng nghe khúc đàn bầu trong một góc tửu quán. Chiếc đàn chỉ gồm một dây này lại có thể tạo ra những thanh âm rất đặc trưng, khi buồn bã, khi da diết, khi ngọt ngào.

    Đại Thiên vốn không phải người bình thường, ta tuy đã bị rút đi tiên pháp, không còn nhãn lực nhưng cũng nhìn ra được khí chất siêu phàm của hắn. Vả lại kiến thức hắn cũng rất sâu rộng, không chỉ về vấn đề Phật pháp. Bất cứ câu hỏi về lĩnh vực nào đó mà ta đặt ra cũng được hắn giải đáp một cách kỹ lưỡng và khiến ta tâm phục khẩu phục. Đối với mọi chuyện hắn dường như đều đã biết rõ nên luôn tỏ ra hờ hững, không có hứng thú với bất kỳ cái gì. Vậy nhưng từ hắn, ta cảm nhận được sự ấm áp, đáng tin cậy. Vẻ ngoài hắn tuấn lãng, ưa nhìn, không gọi là xuất sắc, nhưng đôi lúc ta lại thấy đáng lẽ hắn phải đẹp hơn thế mới phải.

    Đông qua xuân tới, ta dường như mải rong chơi mà quên mất khái niệm thời gian, thoắt một cái đã sang năm mới Quý Sửu. Lần đầu tiên ta được đón Tết Nguyên Đán dưới dương gian nên không tránh khỏi phấn khích. Đêm giao thừa, sau khi dự đại lễ đón năm mới trong chùa Pháp Vân, Ngô Chân Lưu tiếp tục ở lại để tụng kinh, ta hăm hở xắn tay áo chạy ra ngoài phố xá tấp nập. Đại Thiên nhìn vẻ háo hức của ta, tự nhiên mà bật cười. Ta bỗng dưng ngây ngốc đứng nhìn hắn cười, cảm thấy còn đẹp hơn cả pháo hoa đang nở đầy trời. Đại Thiên không để ý, kéo ống tay áo ta lôi đi:

    - Ta dẫn đệ đến một nơi.

    Nơi Đại Thiên dẫn ta đến lại là một quán ăn bé xíu ở góc phố. Quán ăn này chỉ vẻn vẹn có dăm, sáu cái bàn, quanh mỗi bàn là hai chiếc ghế gỗ tròn thấp tè, hai người ngồi đã thấy chật, Phùng Tứ và Hải Bình phải ngồi ở chiếc bàn bên cạnh bọn ta. Ta quay quay người, quán bé nhưng lại tạo cảm giác ấm áp lạ lùng. Đại Thiên gọi hai bát canh cá to. Đợi một lúc thì hai bát đại nghi ngút khói được bưng ra, mùi thơm ngào ngạt. Trong bát là một con cá chép to đang ẩn mình giữa đám dưa muối, cà chua, thì là.. Ta kiên nhẫn ngồi chờ Đại Thiên tỉ mỉ dùng đũa xé mình cá trắng phau ra, sau đó múc cho ta một bát đầy. Hắn nói:

    - Giao thừa năm ngoái ta may mắn được một người bạn dẫn đi ăn tại quán này, sau đó rất ấn tượng với món canh cá ở đây. Năm nay quả thực không thể bỏ lỡ.

    Ta cười híp mắt, vốn tưởng hắn giống như thần tiên thoát tục, thì ra cũng có sở thích ăn uống bình thường này. Ta húp thử một thìa nước canh, cảm nhận luôn được ngũ vị, mùi thơm ngậy không hề bị tanh của cá, vị chua vừa phải của dưa muối và cà chua, mùi cay nồng của ớt, vị mặn ngọt của nước dùng. Tất cả hòa quyện với nhau xóa tan đi cái lạnh giá của mùa đông, khiến ta cảm thấy trên đời không thể có món nào hoàn mỹ hơn nó. Đại Thiên chỉ yên lặng nhìn ta ăn, hắn còn gọi thêm vài món nữa cũng đậm đà hương vị, ta chỉ nếm sơ qua đã no muốn xỉu.

    Ta vác cái bụng no căng, lấy lại vẻ háo hức ban đầu, đi đón lễ giao thừa. Ta sà vào các nhà đốt pháo, hỉ hả lắng nghe tiếng pháo đì đùng bên tai. Sau đó lại ghé qua những nơi đang gói và nấu bánh chưng, bánh dày, ngắm nghía những chiếc bánh căng mọng đẹp đẽ và đặc trưng nét truyền thống này. Người đi lại rộn ràng trên phố, quán xá tấp nập khách vào ra. Ta chen giữa dòng người, tận hưởng từng trò chơi, từng khoảnh khắc, từng hoạt động đang diễn ra. Phùng Tứ và Hải Bình theo ta muốn hụt hơi, trong khi đó Đại Thiên luôn bắt kịp ta mà vẫn giữ được dáng vẻ thong dong, tự tại.

    Lúc ta và hai người hộ vệ đang say sưa đứng xem người ta biểu diễn trò múa rối nước. Đại Thiên biến đi đâu mất một lúc, lát sau quay lại dúi vào tay ta một chiếc đèn trời. Phùng Tứ và Hải Bình hì hục thắp đèn, sau đó đưa cho ta ước. Đúng vào thời khắc giao thừa, năm mới Quý Sửu đến, tiếng pháo tét nổ inh tai, pháo hoa bay rợp trời, ta thả nhẹ chiếc thiên đăng trên tay, cùng với hàng trăm, hàng nghìn chiếc đèn khác, theo gió bay lên trời. Đêm đó rất vui, ta cứ cười mãi không ngậm miệng lại được, chỉ ước thời gian có thể dừng lại.

    Sau ba ngày Tết chè chén và chơi bời no say, ta chợt giật mình nhận ra năm tử của mình đã đến, việc cần làm phải làm gấp, không thể trì hoãn thêm được nữa. Ta liền dành một ngày để thảo luận với Đại Thiên và Chân Lưu những việc cần thiết phải ghi lại để gửi lên hai vị Vương về tình hình chùa chiền và Phật giáo ở thành Luy Lâu.

    Hôm sau, Đại Thiên có việc bận, ta cũng kiếm việc để sai Phùng Tứ và Hải Bình rời khỏi chùa. Cuối cùng thì cũng có cơ hội được gặp riêng Ngô Chân Lưu. Ta dạm hỏi:

    - Đại sư Chân Lưu, thầy có ý định trở về Cổ Loa cùng với tại hạ để tiếp tục luận bàn việc xây dựng chùa chiền hay không?

    Chân Lưu khiêm tốn nói:

    - Bần tăng tự cảm thấy hổ thẹn, kiến thức về Phật pháp vẫn chưa gọi là nhiều, nếu có thể thì còn muốn đi về phía biển sau đó vòng lại vùng núi, không dám đi theo để làm lỡ mất hành trình của thí chủ.

    Ta cũng thẳng thắn mà thổ lộ:

    - Không giấu gì đại sư, Thiên Sách Vương vẫn luôn có ý định mời thầy ghé qua thành Cổ Loa một lần, chẳng hay thầy có thể dành thời gian hay không?

    Chân Lưu có chút ngỡ ngàng, hỏi lại:

    - Là Thiên Sách Vương sao?

    - Phải! - Ta khẳng định.

    Chân Lưu suy nghĩ một lúc rồi kiên quyết lắc đầu:

    - Bần tăng đã thề một lòng hướng Phật, cũng chẳng còn gì để vấn vương với chốn ấy. Cảm phiền thí chủ nhắn lại với ông ấy rằng: Bần tăng đã được cảm hóa Phật pháp, cả đời này không có điều gì phải nuối tiếc.

    Ta lại nói:

    - Đại sư Chân Lưu, mong thầy suy nghĩ cho kỹ càng. Nếu ta nói đó là lời nguyện ước của một người cha thì sao?

    Chân Lưu mở lớn cặp mắt nhìn ta, tay phải nắm lấy chuỗi tràng hạt đeo trên cổ, tay trái chụm lại để trước ngực:

    - Xin hỏi thí chủ, ngài là?

    Ta mỉm cười:

    - Tại hạ họ Ngô, tên thật là Ngô Nam Hưng, là tam đệ của Thiên Sách Vương và Nam Tấn Vương.

    Chân Lưu cúi đầu, một lúc lâu sau mới ngẩng lên nói với ta:

    - Thí chủ, có thể để bần tăng suy nghĩ thêm không? Ngày mai bần tăng sẽ có câu trả lời.

    Ta gật đầu. Sau đó Chân Lưu rời đi, còn ta trở về khách điếm sai Phùng Tứ và Hải Bình thu dọn đồ đạc, tầm một vài ngày nữa là lên đường trở về kinh thành.

    Hai ngày sau, chúng ta năm người năm ngựa thong dong tiến về phía thành Cổ Loa. Ngô Chân Lưu cuối cùng cũng đồng ý gặp Thiên Sách Vương. Đại Thiên nói có việc cần làm ở kinh thành nên đồng hành cùng bọn ta luôn.

    Năm người chúng ta trở về kinh thành trong sự chào đón hân hoan của mọi người. Ta giới thiệu Ngô Chân Lưu và Đại Thiên là những vị khách am hiểu về Phật pháp, có góp phần to lớn trong chuyến đi vừa rồi của ta, Nam Tấn Vương tiếp đón hai người rất nhiệt tình, Thiên Sách Vương không bộc lộ nhiều, trong đáy mắt có hàng vạn điều muốn nói. Ngô Chân Lưu khiêm nhường, chỉ xin ở trong một gian phòng nhỏ trong cung của Thiên Sách Vương, bên cạnh chỗ ở của ta. Đại Thiên dường như cũng rất rảnh rỗi, vui vẻ chấp nhận một căn phòng nhỏ khác bên kia phòng Chân Lưu, chẳng hiểu sao ta lại lấy làm vui mừng vì điều đó.

    Mấy ngày sau ta giải quyết các bản báo cáo đã gửi về kinh trước đó, Chân Lưu và Đại Thiên có tham gia hỗ trợ. Hai người bọn họ còn dành thời gian giúp ta phân tích và nghiên cứu những ngôi chùa, ngôi miếu, am tự cần thiết phải tu bổ, lượng kinh phí cần thiết.. Công việc kể ra cũng nhiều, mất hai tuần mọi kế hoạch bắt đầu trở nên có quy củ và rõ ràng hơn, lúc này mọi người mới có thời gian để làm những việc khác. Đại Thiên ngỏ ý muốn nhờ ta cùng huynh ấy đi thăm thú và xem xét việc giao thương ở kinh thành. Ta tuy không có kinh nghiệm thực tế nhưng trước đây cũng đã đọc nhiều sách về nghệ thuật buôn bán, vả lại không hiểu sao không thể mở lời từ chối. Vậy nên Đại Thiên và ta cùng Phùng Tứ, Hải Bình đi theo bảo vệ lại cùng nhau rong ruổi trên khắp kinh thành Cổ Loa.

    Ngày hôm sau, Ngô Chân Lưu đến gặp ta và từ biệt lên đường. Đại Thiên vẫn còn việc ở kinh thành chưa xong nên không đi cùng nhà sư. Chân Lưu vái chào hai vị vương, sau đó ta và Đại Thiên tiễn nhà sư một đoạn. Chẳng biết cha con họ đã nói với nhau những gì, chỉ thấy đôi mày của Chân Lưu luôn chau lại, bước chân cũng trở nên nặng nề hơn.

    Càn Hưng háo hức thông báo cuối tháng giêng đệ ấy sẽ tổ chức yến tiệc mừng ngày sinh của ta, cũng coi như chúc mừng ta lập công trở về. Ta vui vẻ đồng ý, trong lòng ngầm hiểu đây là ý của thái hậu. Ngay từ ngày ta về kinh và bái kiến người, mẫu hậu đã vội vàng bóng gió xa gần chuyện chọn vợ cho ta. Lúc này chắc là không thể né tránh và trì hoãn được nữa.

    Ta vẫn thản nhiên đi tìm hiểu việc buôn bán cùng Đại Thiên, yến tiệc giao hết cho Càn Hưng chuẩn bị. Nam Tấn Vương dường như cũng rất quý Đại Thiên, luôn miệng khen hắn tài giỏi trước mặt mọi người, còn thường xuyên cho vời hắn vào cung để luận bàn chuyện phát triển giao thương của đất nước.

    Bên cạnh đó, từ ngày Ngô Chân Lưu rời khỏi kinh, Thiên Sách Vương ngày càng trở nên xuống dốc. Không những chuyên quyền, công khai muốn gạt hẳn Nam Tấn Vương khỏi việc triều chính, còn làm những chuyện khiến muôn dân oán thán. Mắt nhắm mắt mở để mặc cho đám quan tham vơ vét hết của dân, liên tục mở đợt tuyển chọn các mỹ nhân trên khắp đất nước để nạp vào hậu cung, tham dự những buổi tiệc rượu của bè lũ nịnh thần diễn ra ngày này qua ngày khác. Thái hậu buồn lòng, Nam Tấn Vương can ngăn không đặng. Ta dù sao cũng đã hoàn thành nguyện ước với Ngô Xương Ngập, chuyện triều chính thì càng không muốn can dự vào. Nhưng cũng không thể nhắm mắt làm ngơ, để mặc Xương Ngập như vậy.

    Đêm trăng rằm đầu xuân, Đại Thiên được Nam Tấn Vương gọi sang cung của hắn, ta tạm thời rảnh rỗi nên lại bày rượu giải sầu dưới trăng. Ta dặn cung nữ làm nhiều món nhắm một chút. Bầu rượu chưa hết quá nửa mà đồ ăn trên bàn đã vơi đi không ít, quả nhiên một bóng người quen thuộc lại xuất hiện, ngồi xuống đối diện ta. Ta không nói gì, chỉ lấy thêm chén, rót đầy rượu sau đó đặt trước mặt người kia. Người đó cũng không nói gì, đưa chén rượu lên uống cạn một hơi rồi lại đặt chén xuống.

    Hai chúng ta chỉ ngồi uống rượu, tuyệt nhiên không nói chuyện, giống như ngày đầu thời xưa. Chén sóng sánh đầy rượu, bánh trôi nước tròn lẳn, đĩa lạc rang vàng ươm, tất cả đều được tắm trong ánh trăng. Thiên Sách Vương ngồi trước mặt ta, trăng vàng chiếu lên bộ quần áo lụa là gấm vóc, làm cho nỗi cô độc của hắn dường như càng trở nên rõ nét hơn. Ta có một chút cảm thông với hắn, dù sao thời gian ta sống ở đây cũng không còn nhiều nữa, liền nói:

    - Đại sư đã sớm một lòng hướng Phật, không màng danh lợi vinh hoa, đó cũng là điều tốt. Thiên Sách Vương đừng lấy làm phiền muộn, muôn dân bá tánh thật sự đang rất cần sự anh minh và sáng suốt của người.

    Ngô Xương Ngập đặt mạnh chén rượu xuống, hắn cũng như ta, đã uống khá nhiều. Hắn hỏi, không liên quan đến việc ta vừa nói:

    - Nếu ta hỏi ngươi một lần nữa câu hỏi trước đây, ngươi vẫn giữ nguyên câu trả lời?

    Ta biết hắn đang nói đến chuyện gì, khẽ thở dài, nhìn thẳng vào mắt hắn. Ta nhắc lại câu đã từng nói:

    - Thần đã thề trung thành với ai ngay từ đầu thì há gì cái mạng bé nhỏ này!

    Xương Ngập không nói gì, đứng dậy rời khỏi bàn rượu. Ta cũng tự hiểu, đây là lần cuối cùng uống rượu của hai người chúng ta. Trăng treo trên đầu, hoa đào đầu xuân chớm nở trên cành cây khẽ rung rung trong gió. Ta nhớ Bạch Vân Sơn, nhớ những cánh đỗ quyên vàng của mùa xuân, nên quay về thôi..

    Yến tiệc linh đình, cung nữ chuẩn bị cho ta một bộ đồ trắng điểm thêm vài chiếc lá cây bằng ngọc dưới tà áo, đơn giản nhưng cũng rất tinh tế. Ta vui vẻ ngồi xuống chỗ Càn Hưng đã bố trí trước, ngay phía dưới chỗ của thái hậu và hai vị vương. Yến tiệc ồn ào, đàn sáo tưng bừng, vũ nữ say sưa biểu diễn các điệu múa mê người, đồ ăn thức uống không thiếu thứ gì. Bá quan văn võ đua nhau đến chúc rượu thái hậu, hai vị vương và ta. Các vị tiểu thư con nhà đại quan được mẫu hậu mời đến, tập trung đông đủ ở dãy ngay bên tay phải ta, quả nhiên toàn là các mỹ nhân hoa nhường nguyệt thẹn. Đại Thiên ngồi dưới ta mấy dãy ghế, hắn chưa đến chúc rượu nhưng vẫn luôn dõi về phía này.

    Thái hậu thấy ta không để ý gì đám mỹ nhân mà người đã cất công chuẩn bị đã bực mình rời khỏi tiệc sớm. Rượu ngà ngà say, các bá quan lần lượt cáo việc về trước. Chỉ còn lại Xương Văn và Càn Hưng đang vui vẻ chúc rượu nhau, Xương Ngập uống rượu rất cầm chừng, Đại Thiên đang được một vị tiểu thư bắt chuyện. Ta không còn người đến chúc rượu, đang định kiếm cớ rời khỏi đây thì thấy Càn Hưng cười cười tiến lại phía mình:

    - Nam huynh, đệ biết huynh đã rượu no say mà vẫn chưa có món gì trong bụng. Đệ đã chuẩn bị trước món mà huynh thích nhất. Đợi lúc thích hợp mới mang ra.

    Nói rồi Càn Hưng đưa mắt cho một cung nữ gần đó, một lúc sau cười bí hiểm, đích thân đặt trước mặt ta một bát nhỏ. Ta tò mò nhìn hắn chỉ thấy hắn cười hì hì, những người còn lại của buổi tiệc cũng đang chú ý lại đây. Ta mở nắp bát ra một cách từ tốn, mùi gừng xông lên mũi, những chiếc bánh trôi to tròn, trắng trẻo chen chúc nhau trong bát nước xâm xấp. Ta mỉm cười với Càn Hưng, vui vẻ nói:

    - Cảm ơn Càn đệ!

    Càn Hưng cười tít mắt. Ta nhớ không có mấy người biết ta thích ăn bánh trôi nước, Càn Hưng cũng không biết. Ta nhìn lên cao, Xương Văn và Xương Ngập đều đang cười nhìn về phía này, trong ánh nhìn không có gì kỳ lạ. Ta liếc về phía Đại Thiên, hắn đã rời khỏi chỗ ngồi, đang tiến về hướng này. Ta lấy muỗng múc một chiếc bánh to nhất, đưa lên miệng, cảm thấy mùi vị này quả nhiên hoàn hảo. Vài giây sau, muỗng bánh trôi trong tay ta rơi xuống, miệng nôn ra một ngụm máu, sau đó toàn thân ngã xuống đất. Hình ảnh cuối cùng nhìn thấy là vạt áo thiên thanh của Đại Thiên bay đến trước mặt, đôi tay hắn kịp đỡ lấy thi thể của Nam Hưng.

    Mùa Xuân năm Quý Sửu, Ngô Nam Hưng bị trúng độc ngay trong bữa tiệc mừng ngày sinh, toàn bộ thái y được truyền đến đều không thể cứu chữa. Ngô Càn Hưng bị buộc tội đầu độc anh trai mình, nhất định không chịu nhận tội, bị giam vào đại lao và đã tự sát trong đó. Bi kịch bi thảm sớm bị chôn vùi theo thời gian.
     
  9. Sương thuỷ tinh

    Bài viết:
    16
    Chương 7: Đức Mẹ Âu Cơ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ta tỉnh dậy ở giường Hàn Băng của Nam Tào, hàn khí tỏa ra ngùn ngụt, ngấm vào tận tim, chỉ thấy lòng lạnh ngắt. Nam Tào đang lúi húi truyền lại tiên pháp cho ta, không thấy bóng dáng Bắc Đẩu đâu. Nam Tào hình như có việc gì bận, ta cũng không muốn hỏi tội hay hàn huyên với hắn. Cả hai chào nhau rồi gọi mây bay đi.

    Ta từ Thiên Đình bay về núi Bạch Vân Sơn, trong lòng tràn ngập vô vàn điều tiếc nuối, chẳng còn tâm trạng để ngắm nhìn lớp lớp đỗ quyên vàng rực trước mắt. Dừng lại ở cửa am Uyển, nhìn thấy một bóng dáng cao cao thanh thanh trong đình, ta thoáng ngạc nhiên, không ngờ vị khách đó vẫn còn chờ sư phụ ta sau bấy nhiêu ngày. Lần trước vội vàng nên thất lễ, ta nghĩ lần này cũng nên chào hỏi qua một tiếng, liền tiến bước về phía đình. Người đó quay lại, nhìn thấy ta, mắt phượng sáng lên, miệng cười như có như không, vẻ tuấn lãng còn hơn cả trong trí nhớ. Sau một thoáng choáng váng, ta lại chuyển sang sửng sốt, chỉ có vẻ ngoài khác đi, khí chất này, cốt cách này, chẳng lẽ lại là..

    - Đại Thiên?

    Người đó cười:

    - Tiểu Thiên, nàng nhận ra ta sao?

    "Tiểu Thiên.. Đại Thiên.." Hai cái tên này..

    - Xin sơ thần thứ lỗi, chẳng lẽ chúng ta có quen biết nhau?

    - Không quen biết! - Đại Thiên hơi nhíu mày, đáy mắt ánh lên vẻ đau lòng sau đó biến mất ngay. - Mà phải nói là cực kỳ thân thiết. Tên thật của ta là Phượng Điểu Hoàng Niên, còn gọi là Hoàng Niên.

    Hoàng Niên? Phượng Điểu Hoàng Niên? Ta không có ấn tượng! Nếu đã từng gặp qua một mỹ nam như thế này, đương nhiên ta sẽ phải nhớ rõ. Đang định hỏi thêm mấy câu thì nhìn thấy Đào từ trong dãy nhà hớt hải chạy ra.

    - Thiên Ly, người đã về! Minh Sương gặp chuyện rồi.

    Nói đến đây nước mắt nàng ta bỗng rơi lã chã khiến ta có chút hoảng hốt:

    - Minh Sương có chuyện gì? Đào, ngươi bình tĩnh nói cho ta nghe!

    Đào hít một hơi thật sâu sau đó kể lể qua hàng nước mắt:

    - Người đi được một hôm thì Trà Ngạn My trở về. Nàng ta nhìn thấy Lệ Kim liền nhận ra cô ta chính là cung nữ đã đánh cắp ngọc Cầu Hồn ở cung Đức Mẹ Âu Cơ, đang bị Thiên Đình truy đuổi gắt gao. Mấy người bọn họ lập tức đi báo cho quan quân, Minh Sương một mực nhận trách nhiệm trong việc đưa cô ta về am Uyển. Hôm qua người ta đã đến và đưa cả Lệ Kim lẫn Minh Sương về cung Đức Mẹ rồi. Những học viên khác cũng đều kéo đến đó. Thiên Ly, người mau mau đi cứu Minh Sương.

    Nghe nhắc đến Đức Mẹ Âu Cơ, lòng ta có chút bình tĩnh trở lại, tuy nhiên giọng vẫn đầy gấp gáp:

    - Sư phụ thì sao? Có ai báo cho sư phụ chưa?

    Đào mếu máo:

    - Thượng thần Uyển Khuyên nói chờ Hồ Thiên Ly trở về, người sẽ tự có cách.

    Ta khẽ thở dài sau đó dặn dò Đào:

    - Được rồi, ngươi cứ ở nhà đừng lo lắng, ta sẽ đi giải quyết việc này.

    Sau đó quay người gọi mây thì bắt gặp ánh mắt của Đại Thiên, à phải nói là Hoàng Niên mới đúng, suýt nữa thì quên mất hắn. Ta đang định cất lời cáo biệt thì thấy hắn cũng làm phép gọi mây, chắc hẳn thấy ta có việc bận nên hắn vội đi ngay. Ta đang lo lắng cho Minh Sương nên không để tâm đến hắn nữa. Vội vàng bay một mạch đến cung Âu Lạc của Đức Mẹ Âu Cơ.

    Đức Mẹ Âu Cơ vốn là nữ thần sinh ra trăm trứng nở ra trăm con, là Đức Mẹ của loài người. Đức Mẹ bản tính hiền lương, nhân hậu, luôn bao bọc, chăm nom cho không chỉ loài người mà cả muôn loài trên thế gian. Vậy nên muôn loài bọn ta đều cung kính gọi người một tiếng Đức Mẹ. Nếu là ở cung Âu Lạc thì ta biết Minh Sương tuyệt đối không tổn hại gì, chỉ sợ nàng ta vốn tính bướng bỉnh nên sẽ bị các nữ quan ở đó gây khó dễ.

    Mải suy nghĩ, ta không để ý đến một đạo thân ảnh đang mải miết bay theo mình. Lúc nhận ra quay lại thì nhìn thấy tà áo trắng phất phơ trong gió, mái tóc hững hờ nửa buộc nửa không cũng tung bay. Màu trắng tuyệt mỹ nổi bật giữa cánh rừng đỗ quyên vàng bên dưới. Tim ta đánh rơi mất một nhịp, rơi xuống và biến mất giữa những cánh hoa vàng mượt dưới kia. Không ngờ Hoàng Niên hắn lại đi theo ta.

    Ta và Hoàng Niên đáp xuống trước cổng cung Âu Lạc, hai vị trung tiên giữ cửa lạ mặt, ta không quen. Hai người họ chặn bọn ta lại, cất giọng nghiêm khắc:

    - Cảm phiền hai vị thần tiên! Nếu không có lệnh của nữ thần Âu Cơ, hai người sẽ không được vào cung.

    Ta tìm kiếm ở thắt lưng và hoảng hốt nhận ra lúc nãy vội quá đã không kịp lấy ngọc bội luôn mang theo bên người. Bây giờ mà quay lại am Uyển thì quả là mất công. Ta cắn cắn môi đánh mắt sang phía Hoàng Niên. Hắn thấy ta nhìn hắn liền hành lễ nói với hai vị nữ quan giữ cửa kia:

    - Chúng ta đến đây quả thật vì việc gấp, liên quan đến vụ án ngọc Cầu Hồn, làm phiền hai vị có thể vào trong thông báo một tiếng hay không?

    Hai người kia nhìn nhau rồi một người hành lễ lại với Hoàng Niên:

    - Sơ thần trách tội, hai chúng tôi không thể rời khỏi vị trí của mình. Nếu việc của hai vị là quan trọng, nữ thần sẽ sớm cho người ra đón các vị.

    Vừa lúc đó sau lưng ta vang lên một tiếng gọi:

    - Thiên Ly!

    Ta quay lại, vui mừng nhận ra đó là nữ quan chuyên lo việc nấu ăn cho Đức Mẹ. Ta vội chạy lại đỡ lấy giỏ đồ trong tay bà:

    - Bà Xiêm, lâu lắm rồi con không gặp bà!

    Bà Xiêm gốc vốn là cây hồng xiêm, đã nấu ăn cho Đức Mẹ từ thuở ban đầu còn ở bên Thiên Đình cho đến khi người dọn qua cung riêng này. Bà Xiêm cười với ta:

    - Con bé này, lại quên ngọc Lạc Hồng phải không? - Rồi quay sang mắng hai nữ quan giữ cửa. - Hai người các ngươi gây khó dễ với con bé, chuẩn bị mà nghe nữ thần trách phạt đi!

    Ta cùng Hoàng Niên theo bà Xiêm bước vào cung Âu Lạc trước sự ngơ ngác của hai nữ quan kia.

    Bà Xiêm dẫn ta và Hoàng Niên đến nơi xử phạt sau đó vội đi ngay để kịp chuẩn bị bữa trưa cho Đức Mẹ.

    Người gác cửa phòng nhìn thấy ta và Hoàng Niên, lạnh lùng nói:

    - Cảm phiền hai vị thần tiên! Đây là chỗ xử án, nếu không có lệnh của đại nữ quan Mạc Liễu, hai vị không thể tự tiện ra vào.

    Ta hành lễ rồi nhẹ nhàng nói:

    - Làm phiền nữ quan có thể vào thông báo cho đại nữ quan rằng ta, Hồ Thiên Ly mới chính là người đã gặp và đưa cô nương Lệ Kim đó về am Uyển, không liên quan đến Uyển Minh Sương.

    Nữ quan đó nhìn ta và Hoàng Niên đánh giá sau đó gật đầu:

    - Hai vị thần tiên xin chờ một lát!

    Một lúc sau, nữ quan đó ra và dặn ta chỉ nên đứng yên lặng đón xem xử án, sau khi đại nữ quan hỏi đến tên mới được lên tiếng. Ta gật đầu hiểu ý, sau đó cùng Hoàng Niên bước vào.

    Chúng ta tiến vào phòng xử phạt, nhìn thấy cô gái tên Lệ Kim và Minh Sương đang bị vây giữa các nữ quan và đám bạn học của ta. Các nữ quan đứng ở trên bậc đá cao nhất nhìn xuống, đang nghiêm khắc nêu lên các câu hỏi cho hai người kia. Ta chen vào giữa Trà Ngạn My và Báo Hồng Hoa, đứng ở các bậc đá thấp hơn một chút, nhìn xuống Minh Sương lọt thỏm ở giữa vòng, dù nàng ta rất kiên cường nhưng rơi vào thế bị bao vây này cũng sẽ gặp không ít hoang mang. Báo Hồng Hoa nhìn thấy ta vội nói nhỏ:

    - Thiên Ly, ngươi được lắm, không hiểu ngươi cho Minh Sương cái gì mà nàng ta một mực nhận hết tội cho ngươi.

    Ta lạnh lùng nhìn Báo Hồng Hoa nhưng không thèm nói gì. Mãng Thanh Xà cũng lên tiếng thầm thì:

    - Lần này dù cho sư phụ có tha cho ngươi thì Đức Mẹ Âu Cơ nổi tiếng nghiêm khắc cũng sẽ trách phạt ngươi rất nặng. Cứ chờ đi!

    Lúc này mấy người kia lại mỗi người lao xao một câu:

    - Sư phụ lần này cũng không thèm đếm xỉa đến ngươi nữa, xem ra người cũng chán nản vì ngươi lắm rồi.

    - Đương nhiên, vì Thiên Ly mà con gái cưng Minh Sương của người bị hàm oan cơ mà..

    Ta không để ý đến mấy người đó, chăm chú theo dõi việc xử án. Một người mặc đồ nữ tướng, khuôn mặt chữ điền, mắt sáng quắc, tướng tá cao to, ta đoán là đại nữ quan Mạc Liễu, đang hỏi Minh Sương:

    - Uyển Minh Sương, ta cho ngươi thêm một cơ hội nữa, trả lời thành thật cho ta biết. Ngươi có liên quan gì đến Lệ Kim hay không?

    - Thưa nữ quan, Minh Sương chỉ là người vô tình gặp Lệ Kim bất tỉnh ngoài rừng và cứu cô nương đó về am của sư phụ, tuyệt đối không biết cô ta là người ăn trộm ngọc Cầu Hồn của Đức Mẹ Âu Cơ.

    - Ngươi nói ngươi đã đưa Lệ Kim về am Uyển? Vậy tại sao một người khác cũng tự nhận đã gặp và cứu cô ta?

    Minh Sương có chút bất ngờ, nàng ta cắn môi nhìn xung quanh:

    - Việc này..

    Đại nữ quan Mạc Liễu dõng dạc lên tiếng:

    - Ai là Hồ Thiên Ly, xin mời bước xuống!

    Ta thong dong thoát ra khỏi đám đông, bước xuống những bậc đá, tiến về phía Minh Sương, ném cho nàng ta một ánh nhìn trấn an, sau đó hành lễ với các nữ quan:

    - Thượng tiên Hồ Thiên Ly bái kiến các nữ quan!

    Tầm năm, sáu nữ quan xử án đang đứng trên bậc cao nhìn xuống phía ta. Đứng ở dưới này, quả thật có cảm giác bản thân trở nên nhỏ bé một cách kỳ lạ. Trước đây ta chưa từng ghé qua phòng xử phạt, thì ra cung Âu Lạc còn có một nơi mới mẻ như vậy. Một vị nữ quan hỏi ta:

    - Hồ Thiên Ly, ngươi tự nhận mình là người cứu Lệ Kim. Vậy cũng tức là ngươi tự nhận mình cùng một phe với cô ta?

    - Thưa nữ quan, Thiên Ly trên đường từ miếu Đồng trở về am Uyển thì gặp Lệ Kim đang nguy kịch đến tính mạng bất tỉnh giữa đường. Thiên Ly động lòng trắc ẩn nên đã mang cô ta về am Uyển chữa trị, quả thật không hề biết đó là người đang bị Thiên Đình truy đuổi.

    - Hỏi qua hỏi lại, chi bằng hỏi chính người đã gây án. - Mạc Liễu lên tiếng. - Lệ Kim, ngươi hãy thành thật khai ra, trong hai người trước mặt ngươi, có ai là kẻ đồng mưu về tội ăn cắp ngọc Cầu Hồn hay không?

    Ta nhìn về phía người im lặng từ đầu buổi đến bây giờ. Cô nương Lệ Kim đó không khóc lóc hốt hoảng kêu oan, cũng không mở lời nói đỡ cho Minh Sương một tiếng, chỉ bình thản đứng yên ở đó. Phòng xử án được thắp bằng hàng ngàn ngọn nến ở trên cao, ánh nến vàng rực hắt xuống, soi rõ bóng Lệ Kim trên nền nhà. Cô ta đang nhìn về phía này, mái tóc màu nâu thường ngày bối lên cẩn thận, giờ đây xõa tung ra, che khuất khuôn mặt và cặp mắt to xanh biếc. Cô ta nói, giọng điệu có gì đó lạnh tanh:

    - Có một người liên quan.

    Ta và Minh Sương ngạc nhiên nhìn nhau, tiếng lao xao xung quanh lớn dần lên. Một nữ quan quát hỏi:

    - Là ai?

    Lệ Kim giơ một ngón tay mảnh khảnh, chỉ về phía này, giọng thản nhiên:

    - Là cô ta, Hồ Thiên Ly!

    - Nói dối! - Minh Sương hét lên át giọng cô ta. - Thiên Ly làm sao có thể liên quan đến ngươi!

    Ta cũng bị chấn động, ngạc nhiên nhìn cô gái không thù không oán với mình.

    - Uyển Minh Sương, giữ yên lặng! - Một nữ quan nghiêm khắc nhắc nhở.

    Minh Sương nói, giọng điệu có chút ghê tởm:

    - Thưa các vị nữ quan, cô ta đang điêu ngoa đổ tội cho chính vị ân nhân đã cứu mạng mình.

    - Ngươi có thể chứng minh là Hồ Thiên Ly bị oan không? - Mạc Liễu lên tiếng.

    - Việc này.. - Minh Sương cắn môi nhìn sang ta.

    Ta bình tĩnh nói:

    - Thiên Ly nhận nhiệm vụ canh giữ ở miếu Đồng, suốt một tuần lễ chỉ gặp đúng hai người, cô nương Lệ Kim đây và một nhà sư dưới dương gian tên là Ngô Chân Lưu. Quả thực không ai có thể đứng ra làm chứng cho Thiên Ly cả.

    Tiếng xì xào lại nổi lên rõ hơn, Minh Sương giương ánh mắt đau lòng lẫn bất lực nhìn ta. Các nữ quan dường như đang thảo luận với nhau. Một lúc sau, Mạc Liễu nhìn xuống, nghiêm khắc nói:

    - Nhà sư dưới dương gian chỉ là người trần mắt thịt, không thể làm chứng cho ngươi về việc có cùng với Lệ Kim lập mưu trộm ngọc Cầu Hồn hay không. Chính miệng người gây án đã khai ra tên của ngươi, hai người sẽ tạm thời bị giam lại, chờ chúng ta tiếp tục xem xét..

    - Ta có thể làm chứng cho con bé!

    Một giọng nói trầm ấm và dịu dàng vang lên, trong lòng ta trào dâng sự ấm áp quen thuộc. Mọi người nhất loạt cúi đầu hành lễ:

    - Nữ thần Âu Cơ!

    Đức Mẹ mỉm cười nhẹ nhàng nói:

    - Được rồi!

    Người nhìn ta, vẫn giữ nguyên nụ cười, sau đó quay sang Lệ Kim, ánh mắt thoắt trở nên nghiêm khắc:

    - Tội ăn cắp đương nhiên sẽ bị xử phạt, nhưng không thể dung tha nhất vẫn là tội nói dối. Ta cho ngươi thêm một cơ hội để thành thật.

    Lệ Kim đã sợ hãi ngay từ khi nhìn thấy Đức Mẹ bước vào, giờ đây hai chân dường như không thể đứng vững nữa, vội vàng quỳ xuống, thành khẩn nói:

    - Nữ thần tha tội! Việc ăn cắp ngọc Cầu Hồn từ đầu đến cuối quả thật chỉ có một mình tiểu nữ ra tay, hoàn toàn không có ai giúp đỡ.

    Đức Mẹ nhìn sang Mạc Liễu:

    - Thể theo luật để luận tội!

    Mạc Liễu cung kính nói:

    - Dạ nữ thần, chúng quan đã rõ!

    Đức Mẹ lại quay xuống phía ta, ân cần nói:

    - Thiên con, ở lại dùng bữa trưa với ta.

    Ta vui vẻ nói:

    - Dạ, Đức Mẹ!

    Ta nhìn về phía Lệ Kim đang quỳ dưới đất, khẽ thắc mắc:

    - Tại sao lại đổ oan cho ta?

    Cô ta ngước lên, nhìn thẳng vào ta, đáy mắt có bao nhiêu lạnh lùng, giọng nói có bấy nhiêu băng giá:

    - Bởi vì ngươi là em gái của Hồ Quang Ly.

    Ta không có thời gian để hỏi thêm, vội vàng đi theo Đức Mẹ Âu Cơ rời khỏi phòng xử phạt với một mớ ngổn ngang trong lòng. Lúc ngang qua Hoàng Niên, Đức Mẹ đột nhiên dừng lại nhưng không nói gì, sau đó người lại cất bước đi ngay. Ta chào từ biệt hắn, dù sao cũng đã có lòng tốt theo ta lên đến tận đây.

    Ta từ nhỏ đã mang thể trạng yếu ớt, cha mẹ vất vả nuôi ta đến khi năm ngàn tuổi, ta bị một cơn bạo bệnh, da dẻ bỗng dưng trở nên lở loét, khắp người đều mưng mủ, tính mạng ngàn cân treo sợi tóc.

    Lúc đó cha ta nghe người ta mách rằng chỉ có nước ở hồ Thiên Nhiên trong cung của Đức Mẹ Âu Cơ mới có thể chữa khỏi bệnh cho ta. Cha mẹ liền mặt dày đưa ta lên Thiên Đình, cầu xin Đức Mẹ giúp đỡ. Không ngờ nữ thần vừa nhìn thấy ta đã mang lòng yêu thương, liền nhận ta làm con nuôi. Sau đó ta ở tại cung của người năm ngàn năm, cho đến khi thể trạng trở nên hoàn toàn khỏe mạnh.

    Từ lúc người đang ở trong cung của Thiên Đình cho đến khi chuyển ra cung Âu Cơ, chứng kiến biết bao thăng trầm buồn vui của vị nữ thần được muôn loài kính trọng ấy. Nhớ lại cũng lâu rồi ta không dành thời gian lên đây thăm người, quả là đứa con bất hiếu.
     
    Diệp Minh Châu, Tiên NhiPhan Kim Tiên thích bài này.
  10. Sương thuỷ tinh

    Bài viết:
    16
    Chương 8: Vị hôn phu

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thuở xa xưa từ thời hồng hoang, trời và đất đang hòa làm một, vũ trụ chìm trong đêm đen, chỉ tồn tại hai loài Thần và Quỷ. Thần và Quỷ vốn sống bình yên, không liên quan đến thế giới của nhau.

    Bấy giờ, các vị Thần cùng góp sức để tạo nên một thế gian nhiều màu sắc và có phần sinh động đỡ nhàm chán hơn. Mỗi vị Thần sẽ có một nhiệm vụ của riêng mình, tự đặt tên cho thứ mà mình sinh ra. Từ đó muôn loài mới bắt đầu xuất hiện. Thần Gió tạo ra gió, thần Mưa sinh ra mưa, thần Mây tạo ra mây, thần Cây tạo ra cây cối..

    Nữ thần Mặt Trời vốn có nguồn sức mạnh lớn lao nên mang một nhiệm vụ đặc biệt là sinh ra ánh sáng cho muôn loài. Thần Mặt Trời làm tốt nhiệm vụ của mình, ánh sáng rạng rỡ có mặt ở khắp mọi nơi, chiếu sáng ngày này qua ngày khác. Nhưng điều đó lại gây ra sự bất lợi, các vị Thần trở nên ngày càng mệt mỏi, họ không thể nghỉ ngơi khi ánh sáng cứ rực rỡ tỏa ra xung quanh như vậy. Loài Quỷ cũng bắt đầu khó chịu và có ý kiến về thứ ánh sáng mà chúng không thể thích nghi đó. Thần Bóng Đêm liền có nhiệm vụ mới, tạo ra bóng đêm để thay phiên xen kẽ với ánh sáng của Mặt Trời. Từ đó vũ trụ sinh ra ngày và đêm. Và một cách tự nhiên nhất, nữ thần Mặt Trăng từ lâu đã say mê ngưỡng mộ thần Bóng Đêm lạnh lùng, bí ẩn. Nàng tạo ra mặt trăng để chiếu sáng trong bóng đêm, để cho người nàng thương không bị cô đơn mỗi khi các vị Thần đều đã nghỉ ngơi. Ánh trăng tròn hay khuyết, tỏ hay mờ đều phụ thuộc vào sức lực còn lại của thần Mặt Trăng sau một ngày làm việc mệt nhọc.

    Bên cạnh đó, việc sinh ra các loài vật thật sự sống động và có linh hồn cũng là một trọng trách to lớn, các Thần đều phải góp sức tạo nên. Mỗi vị thêm thắt một ý tưởng, mọi nguồn tiên pháp tụ hội lại, đầy đủ các loài động vật lần lượt được tạo ra. Cây cối của thần Cây cũng được phát triển thêm phong phú và đa dạng hơn.

    Bấy giờ Ngọc Hoàng là nam thần trẻ trung, sôi nổi, giỏi giang và có tài lãnh đạo nhất. Tất cả các vị Thần đều thống nhất chọn ra Ngọc Hoàng là người đứng đầu, chịu trách nhiệm theo sát và chỉ đạo mọi nhiệm vụ.

    Khi tất cả các vị Thần đều đã làm tốt phần việc của mình, đang góp sức để hoàn thiện muôn loài dần trở nên tốt đẹp, sung túc hơn. Lúc này tới nhiệm vụ của nữ thần xinh đẹp Âu Cơ. Vị nữ thần tài giỏi và khéo léo ấy sẽ sinh ra loài người là loài đẹp đẽ nhất, hoàn thiện nhất, có trái tim, có cảm xúc, có tâm hồn. Nữ thần Âu Cơ đã chọn cách dùng chính cơ thể của mình để hoài thai, mang bầu và tự mình nuôi nấng con người. Nữ thần Âu Cơ kết hôn với người mà nàng yêu - thần Lạc Long Quân mạnh mẽ, anh dũng - trong sự chúc phúc của mọi người và sự tiếc nuối của không ít nam thần. Trong thời gian thần Âu Cơ mang thai, nàng không quên góp tay vào việc gây dựng muôn loài. Thần Lạc Long Quân thì vẫn miệt mài làm nhiệm vụ cùng với thần Nước và các vị Thần khác để tạo ra biển cả.

    Thế giới các vị Thần tạo ra đẹp và hấp dẫn đến nỗi loài Quỷ đã bắt đầu dòm ngó và nổi lòng tham, muốn chiếm lĩnh nơi tràn đầy sinh lực đó.

    Một vấn đề phát sinh thêm là khoảng không gian ngày càng trở nên chật hẹp, các vị Thần đều cảm thấy bức bối, không thoải mái. Sau khi bàn bạc lại đi đến thống nhất sẽ chia tách ra trời và đất, để cho muôn loài mới sinh ra được phát triển trong một không gian rộng lớn hơn. Tuy nhiên việc chia tách nói thì đơn giản nhưng lại cực kỳ phức tạp. Tất cả các vị Thần đều hợp nhất về một chỗ, tập trung dồn hết toàn bộ sinh lực và tiên pháp mà bản thân đang có để thực hiện sứ mệnh này. Ngọc Hoàng, Tây Vương Mẫu cùng một số vị thần được giao nhiệm vụ bảo vệ muôn loài vừa được sinh ra. Nữ thần Âu Cơ đang mang thai nên cũng được bảo vệ. Lạc Long Quân vốn dĩ nằm trong số đội quân bảo vệ, nhưng người anh hùng ấy đâu chịu ngồi yên, tình nguyện rời xa người vợ và những đứa con chưa kịp chào đời, tham gia vào nhóm Thần chia tách vũ trụ. Việc chia tách diễn ra năm này qua năm khác, bầu trời lúc nào cũng rền rĩ, ủ ê. Chỗ này rách nát, chỗ kia bị vùi dập, các vị Thần lại hớt hải kéo nhau đi vá. Đến khi sức cùng lực kiệt, việc phân chia đất trời cuối cùng cũng hoàn thành. Còn chưa kịp làm lễ ăn mừng, loài Quỷ đã lập tức thừa cơ kéo đến, hòng cướp lấy mọi thứ mà các vị Thần đã tạo ra. Lúc này phần lớn tiên pháp đã bị rút kiệt đi, các vị Thần chiến đấu rất kiên cường nhưng không thể thắng được đám Quỷ hung tợn đó. Đám Quỷ kéo đến vòng bảo vệ, cùng với đội quân do Ngọc Hoàng cầm đầu chiến đấu hàng năm trời, một sống hai chết. Nhóm bảo vệ hoàn thành được nhiệm vụ, giữ an nguy cho chúng sinh, lũ Quỷ bị đánh bại te tua chạy về địa bàn của chúng và không dám bén mảng đến nữa, tuy nhiên tổn thất đám Quỷ gây ra quá nặng nề, những vị Thần còn sống sót chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay.

    Âu Cơ khóc ngất đi bên đống cát bụi còn lại của các vị Thần đã hy sinh, trong đó có cả Lạc Long Quân chồng nàng, cha của các con nàng. Các linh hồn bị xé thành hàng ngàn hàng vạn mảnh, trôi nổi vô định trong không trung. Sau đó nữ thần Âu Cơ gạt đi nước mắt đau thương, sử dụng cơ trí và sự khéo léo của mình, trích ra một phần linh hồn, một phần trái tim và phần lớn tiên pháp còn sót lại để tạo ra ngọc Cầu Hồn.

    Ngọc Cầu Hồn được sinh ra để tụ hội toàn bộ những phần linh hồn còn vương vất, trôi nổi ở khắp nơi về một chỗ. Lúc này Ngọc Hoàng, Tây Vương Mẫu và các vị Thần sống sót dốc hết phần sinh lực và tiên pháp còn sót lại để hồi sinh các vị Thần đã hy sinh. Phần linh hồn của Thần Lạc Long Quân cảm nhận được trái tim vợ mình nên tập trung được nhiều nhất, hồi sinh một cách kỳ diệu, mạnh mẽ và hoàn chỉnh trong sự mừng mừng tủi tủi của nữ Thần Âu Cơ. Một số vị Thần khác cũng đã sống lại hoàn thiện hoặc một phần. Lúc này các Thần lại cùng nhau dời mọi sinh vật vừa được tạo ra xuống đất và biển để sinh sống.

    Nữ Thần Âu Cơ hạ sinh được trăm trứng, nở ra trăm con. Nàng và Thần Lạc Long Quân cùng nhau nuôi dạy loài người mọi thứ có thể dạy. Những cung bậc cảm xúc, tình yêu thương, hỉ nộ ái ố là những thứ ngày càng được hoàn thiện hơn. Việc sinh tử của loài người được Ngọc Hoàng giao phó cho Nam Tào, Bắc Đẩu cai quản.

    Khi có quá nhiều việc phải quản lý mà số lượng các vị Thần còn lại không quán xuyến được, Đức Mẹ Âu Cơ nảy ra ý tưởng mọi vật đều có thể tu thành Tiên, nếu có đủ lòng tin tập trung đủ sinh lực và trải qua đủ kiếp nạn. Muốn tu thành Tiên đương nhiên cũng không phải chuyện đơn giản, phải trải qua tu luyện khổ sai, đầy đủ cấp bậc, vượt qua các kỳ thi. Đầu tiên là sơ tiên, trung tiên, thượng tiên, cuối cùng là cấp đại tiên. Sau đó lại có thể tiếp tục tu lên thành Thần, bao gồm các bậc sơ thần, thượng thần và cao nhất là đại thần, bỏ qua cấp trung. Cấp cao nhất đương nhiên sánh ngang hàng với các vị Thần thuở khai thiên lập địa, tuy nhiên chưa từng có vị Tiên nào có thể đạt đến cấp cao nhất này. Khi đó Tiên giới bắt đầu được hình thành, vạn vật đã đi vào quỹ đạo ổn định, các vị Thần giao lại nhiệm vụ trông nom dương gian cho các vị Tiên và lui về nghỉ ngơi.

    Do không thích nghi về môi trường sống, Đức Mẹ Âu Cơ và Đức Cha Lạc Long Quân đành phải hai người chia ra hai ngả. Đức Mẹ được Ngọc Hoàng mời lên ngự tại cung xây riêng trên Thiên Đình. Lạc Long Quân trở về biển, nơi mà Người có thể thỏa sức vẫy vùng, không vướng bận điều gì.

    Khi ta được Đức Mẹ Âu Cơ nhận làm con nuôi, thỉnh thoảng vẫn gặp Đức Cha Lạc Long Quân lên thăm Người. Thoạt nhìn thì Đức Cha là một người nghiêm khắc, nhưng lại rất vui vẻ và chiều chuộng ta. Người sảng khoái gọi ta một tiếng "con gái", sau đó vỗ bịch bịch lên đầu khiến ta hoa cả mắt.

    Sau này để cho Đức Mẹ thoải mái, Đức Cha xây riêng cho Người cung Âu Lạc cách Thiên Đình không xa. Ngày ta xách đồ theo Đức Mẹ dọn về cung mới, Bắc Đẩu và Nam Tào đứng xa xa nhìn theo, mắt ngân ngấn lệ làm ta muốn cười mà không dám cười. Hai bọn họ khóc cái khỉ khô gì chứ, không phải là ở rất gần nhau sao, muốn gặp lúc nào chả được.

    Cung Âu Lạc này ta đã khám phá khắp nơi, trừ căn phòng xử án vừa nãy. Ta biết Ngọc Cầu Hồn luôn được Đức Mẹ để trong phòng ngủ của Người, nếu là cung nữ không thân thiết thì không thể ra vào nơi ấy. Ngọc Cầu Hồn có chứa một phần linh hồn và trái tim của Đức Mẹ Âu Cơ, nó có thể cầu được hồn vía từ khắp nơi quy về một chỗ, có thể cứu sống được mọi vật. Nếu Đức Mẹ và Ngọc Cầu Hồn cách xa nhau quá lâu, sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của Người. Nếu Ngọc bị ai đó phá vỡ, ta không dám tưởng tượng tiếp..

    Ta cũng biết Đức Mẹ thích nhất là đầm sen trắng ngay sau phòng của Người. Đầm sen được Đức Cha làm phép nở hoa suốt bốn mùa để cho Đức Mẹ ngày nào cũng có thể ngắm sen. Dùng bữa xong, ta và Đức Mẹ Âu Cơ ngồi thưởng trà bên đầm sen, thảnh thơi trò chuyện. Ta hỏi:

    - Đức Mẹ, hôm nay con không nhìn thấy Đức Cha?

    Đức Mẹ Âu Cơ đặt chén trà xuống bàn:

    - Ông ấy còn bận đi tìm Ngọc Cầu Hồn.

    Ta xót xa nhìn bàn tay gầy gộc xanh xao của Người, hẳn là Ngọc Cầu Hồn đã bị đánh cắp một thời gian không ngắn:

    - Đức Mẹ, con tưởng Người vẫn luôn xác định được vị trí của hồn Ngọc.

    Đức Mẹ Âu Cơ nhấp một ngụm trà rồi mỉm cười:

    - Ta cũng có chút tuổi rồi, không còn được nhanh nhẹn như xưa nữa.

    Ta nhìn ra đầm sen, nhìn những cánh hoa sen trắng muốt, tinh khôi rồi quay sang nhìn Đức Mẹ. Mái tóc đen mượt như nhung được bối tỉ mỉ và cài đan xen bằng trâm ngọc màu xanh biếc. Đường nét khuôn mặt thanh cao, tất cả đều toát lên vẻ thánh thiện, làn da trơn mịn hơn cả những cánh hoa sen. Chén trà đào trên tay ta bỗng trở nên đắng ngắt. Đức Mẹ à, nếu Người có chút tuổi mà đã khiến Hồ Ly con cảm thấy choáng váng như thế này, thì khi Người xuân xanh còn khiến trời đất đảo điên như thế nào nữa.

    - Dạo gần đây con có gặp thằng bé Quang Ly không?

    Câu hỏi của Đức Mẹ làm ta nhớ lại một chuyện liên quan đến "thằng bé" đã năm mươi ngàn tuổi ấy đang khiến ta băn khoăn:

    - Hôm trước đại huynh có ghé qua chỗ am Uyển con đang tu luyện.

    - Ồ! - Đức Mẹ hơi ngạc nhiên sau đó im lặng một lúc rồi thở dài khẽ nói. - Duyên phận đúng là trêu ngươi người ta!

    Ta chưa kịp hiểu gì thì Đức Mẹ lại nói tiếp:

    - Nếu con gặp Quang Ly, nhắn với nó lời của ta: "Đừng cố chấp tìm kiếm nữa, đến lúc buông bỏ được rồi!"

    - Dạ, Đức Mẹ! - Ta cung kính đáp mà lòng thắc mắc vô vàn điều.

    Không để ta kịp suy nghĩ, Đức Mẹ Âu Cơ lại nói:

    - Thiên con, cũng nên về sớm đi thôi, kẻo có người lại chờ lâu.

    - Dạ, Đức Mẹ! Con xin phép!

    Ta hành lễ chào từ biệt Đức Mẹ sau đó rảo bước rời khỏi cung Âu Lạc, lòng tự nhủ hẳn là Minh Sương đang chờ.

    Không ngờ lại là Phượng Điểu Hoàng Niên, ta trợn mắt nhìn khuôn mặt hoàn mỹ phía trước:

    - Sơ thần vẫn chưa xong việc ở cung Âu Lạc sao?

    Hoàng Niên từ tốn đáp:

    - Ta đang chờ nàng!

    - Chờ ta? Sơ thần có chuyện gì cần chỉ bảo, xin cứ nói!

    - Ta đưa nàng về.

    Ta chưa kịp định thần thì Hoàng Niên đã gọi mây kéo cả ta và hắn bay lên, hướng về phía am Uyển. Ta yên lặng ngó nghiêng ngắm mây xung quanh, không dám nhìn về phía hắn, sợ tâm hồn bị xáo trộn. Hoàng Niên cảm nhận được sự lạnh nhạt của ta, khẽ nói:

    - Nàng quả thực đã quên mất ta!

    Ta vội quay sang hắn, thấy đôi mắt phượng đang đau lòng nhìn ta, tim đánh thịch một cái:

    - Ta và ngài đúng là chưa từng gặp nhau. Nếu đã gặp thì làm sao ta quên được!

    Đúng, nếu đã gặp, làm sao ta quên được đôi mắt sâu thăm thẳm như nhìn thấu hết tâm can người khác kia, đôi mày sắc nét hơi cau lại mà cũng đẹp đến mê hồn, chưa kể đến chiếc mũi cao cao hơi hếch lên hoàn mỹ, cặp môi.. Ta đang nghĩ cái gì thế này? Nếu có Minh Sương ở đây, nàng ta sẽ tha hồ mà mắng mỏ về cái tội háo sắc của ta mất. Ta lập tức quay đi vừa ngắm cảnh xung quanh vừa nói:

    - Tam huynh kể ta từng có khoảng thời gian bị trúng kịch độc nên trí nhớ có một chút vấn đề, chuyện nhớ chuyện quên. Có khi ta đã quên mất cái lần chúng ta gặp nhau. Không biết lần đó.. E.. hèm.. Ta có mất kiểm soát làm gì mạo phạm.. đến ngài..

    Hoàng Niên hình như không chú ý đến câu lảm nhảm phía sau của ta, cặp mày của hắn hằn sâu hơn, hắn nói:

    - Hai chúng ta không phải chỉ mới gặp nhau một vài lần. Hai chúng ta.. đã từng có hôn ước..

    Ta loạng choạng, suýt nữa thì ngã lộn cổ xuống cánh rừng đỗ quyên vàng bên dưới. May mà Hoàng Niên nhanh nhẹn kéo mây đón lấy thể xác ta, còn linh hồn ta dường như đã lạc mất đâu đó giữa rừng hoa.

    Hoàng Niên kéo ta hạ xuống một khoảng rừng trống, xung quanh rải đầy sắc vàng của cánh hoa đỗ quyên. Hắn nói rất nhiều, tất cả đều khiến ta mơ mơ hồ hồ không rõ nghĩa. Hắn nói:

    - Nàng đã chạy trốn ta bảy nghìn năm, ta cũng trọn bảy nghìn năm tìm kiếm nàng. Chúng ta đừng chơi trò trốn tìm nữa được không? Hãy nghĩ đến lời "thề ước Đỗ Quyên" năm xưa.

    Mỹ nam à, ta không rõ tuổi tác ngươi ra sao nhưng ta quả thực đã hết tuổi chơi trò trốn tìm từ lâu rồi. Ta cũng không biết gì về "thề ước Đỗ Quyên" mà ngươi vừa nhắc đến, có phải ngươi tìm nhầm người rồi không? Tiểu Thiên trên đời này nhiều lắm, gia tộc hồ ly bọn ta cũng không thiếu Hồ Thiên Ly. Nhất định là vị sơ thần tuấn tú này tìm nhầm người rồi.

    Mặc kệ vẻ ngơ ngác của ta, hắn lại nói tiếp:

    - Nếu quả thật nàng đã quên, ta sẽ làm cho nàng nhớ lại. Nhớ lại ta, Phượng Điểu Hoàng Niên, chính là vị hôn phu đã cùng nàng lập lời "thề ước Đỗ Quyên" mười ngàn năm trước.

    Một cơn gió xuân ùa đến, thổi tung những cánh hoa đỗ quyên đã tàn trên cành rơi xuống, cơn mưa màu vàng bay lả tả xung quanh dáng người thanh tao của Hoàng Niên. Ta nhìn vào cặp mắt ngời sáng quật cường của hắn, nhìn những cánh hoa vương trên mái tóc nửa buộc nửa buông hững hờ trên vai hắn, lòng dấy lên cảm xúc khó tả. Được rồi, ta cũng sẽ cố gắng hết sức để nhớ ra vị hôn phu này..
     
    Diệp Minh Châu, Tiên NhiPhan Kim Tiên thích bài này.
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...