Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết báu vật của đời – mạc ngôn

Thảo luận trong 'Kiến Thức' bắt đầu bởi Kim Phi98, 13 Tháng bảy 2021.

  1. Kim Phi98

    Bài viết:
    11
    THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT "BÁU VẬT CỦA ĐỜI" – MẠC NGÔN

    1. NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN


    1.1. Quan niệm về con người trong chủ nghĩa hiện đại và nhân vật văn học

    Xuất hiện vào cuối thế kỉ 19, chủ nghĩa hiện đại đánh dấu trào lưu văn học mới của thế giới. Không chỉ cắt đứt với các truyền thuyết lãng mạn của thơ văn trước đó, chủ nghĩa hiện đại chối bỏ việc tái hiện cuộc sống mà quay vào khai thác những chấn động trong thế giới tinh thần, sự sám hối trong nội tâm, những vi tế trong cảm thụ. Quan niệm của con người về cuộc sống đã có nhiều biến chuyển. Trong chủ nghĩa hiện đại, con người hiện ra với những mặt tốt xấu đan xen và với những khát vọng chân thực về cuộc sống.

    Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm. Có thể nói, nhân vật văn học giữ một vai trò quan trọng vì: "Nhân vật văn học là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác" (Tô Hoài)

    1.2. Tiểu thuyết Trung Quốc

    Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những vấn đề của cuộc sống con người, biểu hiện tính chất tường thuật, tính chất kể chuyện bằng ngôn ngữ văn xuôi theo những chủ đề xác định.

    Ở Trung Quốc, tiểu thuyết xuất hiện rất sớm (vào thời kỳ Ngụy - Tấn, thế kỷ III-IV). Theo những tài liệu về lịch sử tiểu thuyết ở Trung Quốc, có thể nói đến các loại tiểu thuyết sau: Tiểu thuyết chí quái (những tác phẩm kể những chuyện quái dị), tiểu thuyết chí nhân (ghi về lời nói, việc làm của người thường có ý nghĩa tiêu biểu), tiểu thuyết truyền kỳ, tiểu thuyết thoại bản, tiểu thuyết chương hồi (những tiểu thuyết trường thiên bao gồm nhiều hồi, đầu mỗi hồi có "hồi mục", là một hoặc hai câu thất ngôn dự báo tình tiết chính của hồi, mỗi hồi viết về một sự kiện chủ yếu và kết thúc hồi có lời dẫn dắt đến hồi tiếp).

    Vào thời điểm bắt đầu của tiểu thuyết Trung Quốc (thời Ngụy - Tấn), tiểu thuyết đã manh nha dưới dạng những tác phẩm chi quái, chi nhân. Sang đời nhà Đường xuất hiện thể loại truyền kỳ, đời Tống lại có thêm dạng thoại bản, tất cả đều có thể coi là tiền thân của tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại. Từ đời Minh văn học Trung Quốc nói chung và văn xuôi Trung Quốc nói riêng phát triển rực rỡ với những pho tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng như "Tam quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung, "Thủy hử" của Thi Nại Am, "Tây du ký" của Ngô Thừa Ân, "Kim Bình Mai" của Tiếu Tiếu Sinh.. Đời Thanh bước phát triển của tiểu thuyết chương hồi đã tới thời điểm hoàng kim qua hàng loạt danh tác như "Chuyện làng Nho" (Nho lâm ngoại sử) của Ngô Kính Tử, "Hồng Lâu Mộng" của Tào Tuyết Cần. Thời hiện đại tiểu thuyết Trung Quốc vượt thoát những thể loại truyền thống, ảnh hưởng lớn từ các trào lưu văn học phương Tây đương thời với sáng tác của các tác gia như Lỗ Tấn, Giả Bình Ao, Mạc Ngôn..

    1.3. Mạc Ngôn và tác phẩm "Báu vật của đời"

    1.3. 1. Nhà văn Mạc Ngôn

    1.3. 1.1. Cuộc đời

    Mạc Ngôn (17-2-1955) tên thật là Quản Mô Nghiệp, sinh tại huyện Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông xuất thân trong một gia đình nông dân. Ông đã phải nghỉ học tiểu học giữa chừng do Cách mạng Văn hóa và phải tham gia lao động nhiều năm ở nông thôn, chăn dê ngoài đồng, luôn bị đói khát và cô đơn.

    - Năm 1976: Ông nhập ngũ, từng làm chiến sĩ rồi tiểu đội trưởng, giáo viên rồi chuyển sang sáng tác.

    - Năm 1984: Ông trúng truyển vào khoa văn thuộc học viện nghệ thuật Quân Giải phóng và tốt nghiệp năm 1986.

    - Năm1988: Ông trúng tuyển lớp ngiên cứu sinh sáng tác thuộc Học Viện Văn học Lỗ Tấn thuộc trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh.

    - Năm 1991: Tốt nghiệp với học vị thạc sĩ.

    1.3. 1.2. Sự nghiệp

    Cho đến nay, ông đã cho in 10 truyện dài, 20 truyện vừa, hơn 60 truyện ngắn và 5 tuyển tập những bài ký, phóng sự, tùy bút, tổng cộng trên 200 tác phẩm. Hiện nay, ông là sáng tác viên bậc 1 của Cục chính trị - Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Ông đã từng được thế giới biết đến với tác phẩm "Cao lương đỏ" đã được đạo diễn nổi tiếng Trương Nghệ Mưu chuyển thể thành phim. Bộ phim đã được giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes năm 1994. Mạc Ngôn đã đóng góp cho nền văn học Trung Quốc nhiều tác phẩm có giá trị và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.

    Các tác phẩm chính của ông gồm có: Báu vật của đời (1995), Cao lương đỏ (1998), Đàn hương hình, Rừng xanh lá đỏ, Tửu quốc, Châu chấu đỏ, Củ tỏi nổi giận, Củ cải đỏ trong suốt, Sống đọa thác đày..

    Các giải thưởng tiêu biểu:

    - Giải nhất về tiểu thuyết của Hội Nhà văn Trung Quốc, tháng 12/1995 cho truyện "Báu vật của đời".

    - Giải Mao Thuẫn cho tác phẩm "Đàn hương hình"

    - Giải Nobel Văn học năm 2012

    1.3. 2. Vài nét về tác phẩm "Báu vật của đời"

    1.3. 2.1. Hoàn cảnh ra đời

    Báu vật của đời nguyên tác: "Phong nhũ phì đồn" là một tác phẩm nổi tiếng của Mạc Ngôn. Tác phẩm được xuất bản tháng 9 năm1995 và đã trở thành một hiện tượng, tác phẩm đã được trao giải cao nhất của Hội Nhà văn Trung Quốc về truyện trong năm đó.

    Tiểu thuyết đã cung cấp cho bạn đọc một lượng thông tin lớn, khái quát cả giai đoạn lịch sử hiện đại của Trung Quốc thông qua các câu truyện về các số phận của mỗi thế hệ gia đình nhà Thượng Quan. Bối cảnh chính của câu truyện là vùng Cao Mật, Trung Quốc.

    1.3. 2.2. Tóm tắt tác phẩm

    "Báu vật của đời" là cuốn tiểu thuyết đồ sộ, bao quát cả một thời kỳ lịch sử dài với vô vàn những số phận con người vùng đất Cao Mật - Đại La trong những biến cố. Nổi bật trong tác phẩm là cuộc đời người phụ nữ nông thôn Trung Quốc - Thượng Quan Lỗ Thị và gia đình Thượng Quan. Cuộc đời Lỗ Thị gắn liền với những đau thương, thăng trầm cũng như vô vàn biến cố của lịch sử vùng đất Cao Mật - Đại La - quê hương Lỗ Thị, và đó cũng chính là lịch sử phát triển của đất nước Trung Hoa rộng lớn. Thượng Quan Lỗ Thị tên thật là Lỗ Toàn Nhi, sinh năm 1900 tại vùng quê Cao Mật – tỉnh Sơn Đông – Trung Quốc. Mới sáu tháng tuổi, Toàn Nhi đã phải nếm trải những đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra, mồ côi cả cha lẫn mẹ. Gia đình cô: Bố cô – Lỗ Ngũ, biệt hiệu Lỗ Quậy, mẹ cô – "họ Diêu, là thiếu phụ đẹp nhất thôn Sa Oa" đều bị quân Đức sát hại. Lúc này, Toàn Nhi được người cô và ông chú dượng Vu Bàn Vả đem về nuôi. Cũng như những người con gái khác, theo tục lệ, lên năm tuổi Toàn Nhi phải bó chân – một nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần mà cô phải gánh chịu. Tục lệ bó chân đó theo Toàn Nhi cho đến khi cô mười sáu tuổi. Đó là thời kỳ Dân quốc và cũng là khi cô trở thành một thiếu nữ xinh đẹp nhưng không hợp thời. Cho đến năm mười bảy tuổi, Toàn Nhi được gả vào nhà Thượng Quan qua cuộc đổi chác giữa người cô và Thượng Quan Lã Thị - bà mẹ chồng của Toàn Nhi. Từ khi bước vào làm dâu nhà Thượng Quan, cuộc đời Toàn Nhi bước vào chuỗi dài những đau thương, tủi nhục, cô phải nếm trải biết bao cay đắng, bất hạnh. Toàn Nhi lấy phải một người chồng "bất lực", không có khả năng truyền giống là Thượng Quan Thọ Hỷ. Vậy là mọi khát khao, mong ước – có đứa cháu nối dõi tông đường của bà mẹ chồng cay nghiệt cũng như những hủ tục khắt khe của xã hội phong kiến "trọng nam khinh nữ" đều đổ lên đầu Toàn Nhi. Do không sinh được con, cô phải hứng chịu bao sự hành hạ, chửi rủa, phỉ mắng của gia đình chồng. Và cũng bởi cái áp lực có đứa con trai, bởi người chồng của mình "bất lực".. cho nên Lỗ Thị đã phải cắn răng đi "xin giống" của thiên hạ. Lỗ Thị đã có tổng cộng chín đứa con riêng, tám gái và một trai. Tưởng rằng có được đứa con cuộc đời Lỗ Thị sẽ đỡ khổ, nhưng mãi không sinh được con trai nên suốt thời gian làm dâu trong gia đình Thượng Quan, Lỗ Thị bị bà mẹ chồng "Nửa Người Nửa Quỷ" cũng như ông chồng vũ phu "Người – Đàn – Ông – Không – Bao –Giờ - Lớn" hành hạ đến dã man, thậm chí không bằng cả loài vật.. Khi cả nhà chồng bị bọn Nhật tàn sát, chỉ còn lại bà mẹ chồng dở điên dở dại và một đàn con thơ, cuộc đời Lỗ Thị bước sang một trang mới, kết thúc kiếp làm dâu đau khổ, chuyển sang vai trò làm chủ gia đình, làm mẹ, làm bà. Giờ đây Lỗ Thị trở thành người trụ cột gánh vác cả gia đình, nuôi dạy đàn con thơ. Mỗi đứa con lớn lên là một số phận, một con đường đi khác nhau, thậm chí có khi chúng còn xung khắc, đối chọi nhau về tư tưỏng chính trị.. Nhưng bao giờ Lỗ Thị cũng là bến bờ, là chỗ dựa yên bình nhất của chúng. Lỗ Thị là một người mẹ đau thương mà vĩ đại. Không chỉ nuôi dạy chín đứa con khôn lớn, bà còn cưu mang, chăm sóc cả tám đứa cháu ngoại mà mỗi đứa cháu là một hoàn cảnh, một xuất thân riêng.. Bao thế lực chính trị đến rồi lại đi, vinh quang rồi tàn lụi, đem đến cho vùng đất Cao Mật biết bao biến đổi, Lỗ Thị và gia đình Thượng Quan cũng chịu ảnh hưởng của những lần thay ngôi đổi chúa ấy. Hết quân Đức, quân Nhật, Quốc dân Đảng rồi đến cộng sản Đảng, mỗi như vậy là mỗi lần nhân dân chứng kiến cảnh li loạn, cảnh chạy giặc, cảnh tang tóc.. Lỗ Thị đã bao lần phải mất con mất cháu trong những đợt biến loạn ấy. Các thế lực cầm quyền đem đến cho Lỗ Thị biết bao tai họa, biết bao mất mát, đau khổ, thế nhưng bà vẫn dang rộng đôi tay và tấm lòng nhân ái của mình che chở, bao bọc cho con cháu. Lỗ Thị là một bà mẹ đau thương mà vĩ đại, suốt đời hi sinh vì con cháu, một con người luôn mang trong mình tinh thần phản kháng mạnh mẽ, một người phụ nữ tuyệt đẹp với phẩm giá đáng tự hào. Thượng Quan Lỗ Thị chính là hiện thân cho hình ảnh đất nước Trung Hoa rộng lớn trên con đường phát triển với bao thăng trầm, đau thương nhưng không gì quật ngã. Thượng Quan Lỗ Thị mất ở tuổi chín mươi lăm, con người ấy khổ cả một đời, đến khi chết người ta cũng bắt đào mộ lên. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh những bông hoa nở rộ sau ngôi mộ của Lỗ Thị và những bầu vú hiện lên dồn dập trong ảo tưởng của Kim Đồng – đứa con trai duy nhất của Thượng Quan Lỗ Thị.

    2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT "BÁU VẬT CỦA ĐỜI"

    2.1 Những người phụ nữ


    2.1. 1 Thượng Quan Lỗ Thị

    + Người con dâu trong xã hội phong kiến

    Trung Hoa – cái nôi của những thành tựu văn hóa rực rỡ nhưng cũng là cội nguồn của những phong tục dày vò, ám ảnh cả đời người. Đáng thương thay, những gì đau đớn nhất, nặng nề nhất dường như đều vận lên thân phận phụ nữ. Và Lỗ Toàn Nhi (sau này là Thượng Quan Lỗ Thị) cũng không tránh khỏi vòng quay của số mệnh. Chưa vội nói đến cuộc đời của Lỗ Toàn Nhi khi đã làm mẹ, làm bà, ta lật ngược tác phẩm, nhìn lại những trang đời đầu tiên của nhân vật.

    Toàn Nhi là cô gái vùng Cao Mật, xinh đẹp và dịu dàng và tràn đầy sức sống. Nhưng dường như, những người có sắc hương lại thường trở thành trò chơi của con tạo, bị xoay vần đến khổ sở. Ngay từ những ngày ấu thơ, Lỗ Toàn Nhi đã biết đến sự tàn khốc của chiến tranh. Cả nhà cô cùng hơn bốn trăm người khác đã bị giết trong cuộc thảm sát của quân phát xít Đức vào một ngày mùa thu 1900. Những tưởng sống sót là một ân huệ của cuộc đời, nhưng đó cũng là một cái "khổ", khi con đường sau này của Lỗ Toàn Nhi cũng đầy rẫy gian truân, thăng trầm đến mức nhiều khi tưởng chết đi được.

    Chuỗi truân chuyên ấy mở đầu với hủ tục bó chân tàn nhẫn của chế độ phong kiến. Chân bó sen – tên nghe thật hoa mỹ nhưng đã gây ra biết bao những dị tật, đau đớn về cả tinh thần và thể xác cho người phụ nữ Trung Quốc. Khi ấy Lỗ Toàn Nhi mới lên năm, nỗi đau khi bó chân ám ảnh cả một đời người, đến tận khi đã làm mẹ của 9 người con, Toàn Nhi vẫn không quên được: "Bà dùng nẹp tre cố định chân mẹ lại, khiến mẹ gào lên như lợn bị chọc tiết, phải nẹp thật chặt vì tạo hình bàn chân nhỏ là rất quan trọng. Sau đó quấn thật chặt hết lớp này đến lớp khác những đoạn vải đã được tẩm nước muối phơi khô, rồi lấy dùi gỗ vỗ vỗ một lượt. Mẹ kể rằng, buốt đến tận óc.." (tr. 764). Đến năm 16 tuổi, Toàn Nhi chưa kịp vui mừng vì được giải thoát khỏi những nẹp tre, vải quấn, thì đã bị đẩy vào bi kịch thứ 2, cũng là căn nguyên của tất cả những tủi nhục, khổ sở về sau, đó là trở thành con dâu nhà Thượng Quan khi vừa tròn 17. Chồng Toàn Nhi, Thượng Quan Thọ Hỷ là một người thất học, vũ phu, gia trưởng và không có khả năng truyền giống vậy nên, Toàn Nhi không chỉ sống như một con ở không công mà mọi sự oán trách từ niềm khao khát có người nối dõi cứ thế ập lên đầu cô. Chưa bao giờ sự cay đắng, chua chát từ "trách nhiệm" sinh con trai của người con dâu Trung Hoa lại hiển hiện chân thực như lúc này, trên trang văn của Mạc Ngôn. Không chỉ là sự chì chiết của mẹ chồng, những trận đòn vô cớ từ người chồng bạo lực, nỗi đau lớn nhất, và cũng là nghịch lý lớn nhất vô lý nhất trong cuộc đời người con dâu phong kiến Trung Hoa, đó là phải đem tiết hạnh và tấm thân của mình ngủ cùng những người đàn ông khác để "xin giống", để đỏi lấy sự bình yên trong cuộc sống. Nực cười làm sao, khi người phụ nữ luôn được dạy về tứ đức, về "chữ trinh đáng gái nghìn vàng", nhưng muốn làm gái chính chuyên thì lại bị người đời mỉa mai "chỉ biết ăn mà không biết đẻ", làm "vợ trăm người" lại trở thành "chính nhân quân tử".

    Như thế, Lỗ thị trước hết là hiện thân của những người phụ nữ phong kiến Trung Quốc với tập tục phải sinh con trai đầy nghiệt ngã. Trong xã hội ấy, thân phận người phụ nữ bị rẻ rúng, khinh thường, họ dường như chỉ như những chiếc "máy sinh nở". Lỗ Toàn Nhi đã "sinh" cho nhà Thượng Quan những 7 đứa con gái, nhưng mẹ chồng vẫn hàng ngày đay nghiến muốn cô đẻ cho bằng được một thằng cháu trai. Nhưng không dừng lại ở đó, Mạc Ngôn đã cho chúng ta thấy thân phận người phụ nữ trong xã hội đương thời bị coi rẻ, bị dồn xuống tận cùng như thế nào khi đặt cảnh tượng vượt cạn của Lỗ Toàn Nhi bên cạnh một con lừa khó đẻ. Người ta thường nói "người chửa cửa mả", lúc sinh nở là thời khắc người phụ nữ yếu ớt và cần được chăm sóc nhất. Thế mà Thượng Quan Lỗ Thị phải vượt cạn trên một cái giường đầy đất nhão vì máu, trong nỗi sợ hãi, lo lắng, cô đơn, không một lời han hỏi của người nhà vì họ đang còn bận lo cho con lừa cũng đang trong cơn đau đẻ. Khi "bụng vẫn còn đau quằn quại, dạ con vừa trút được gánh nặng co bóp dữ dội, mồ hôi lạnh cùng mình, từng dòng âm ấm từ cửa mình chảy ra ướt đẫm hai đùi" Lỗ thị đã phải phơi mình giữa trưa nắng để lật rơm, cho con lừa ăn. Còn thua cả con vật, còn gì cay đắng hơn thế.

    Định kiến "trọng nam khinh nữ" nặng nề, tước đoạt mọi quyền lợi và phẩm hạnh người phụ nữ đã khiến Lỗ Toàn Nhi chua chát nhận ra rằng: "Là đàn bà, không lấy chồng không được, lấy chồng mà không sinh con không được, sinh con toàn con gái không được. Muốn có địa vị trong gia đình dứt khoát phải sinh con trai" (tr. 783). Chính những điều phi lý đến nghiệt ngã trong xã hội phong kiến đã khiến Lỗ thị từ người con gái hiền dịu đã trở nên liều lĩnh, mang nỗi căm hận đối với gia đình Thượng Quan, với xã hội đã dồn cô vào bi cảnh. Cô xem việc ăn nằm với những người đàn ông khác là cách trả thù tốt nhất: "Toàn Nhi này có đẻ thêm ngàn đứa nữa cũng không phải giống nhà Thượng Quan" (tr. 785).

    Nhưng vượt lên những đớn đau ấy, cái mà Mạc Ngôn muốn gợi lên là sức sống mạnh mẽ và kiên cường của người phụ nữ Trung Hoa. Lỗ Toàn Nhi là hình ảnh của người phụ nữ đáng thương của xã hội cũ đồng thời cũng là hiện thân của tất cả những phẩm chất tốt đẹp: Thiên chức làm mẹ, khát khao tình yêu hạnh phúc, niềm tin vào tương lai tươi sáng. Trước cảnh sống tủi cực và nhiều đắng cay, Lỗ Toàn Nhi không phải không có lúc không nghĩ đến cái chết: "Đứng trước dòng nước trong xanh, mẹ nảy ra ý định nhảy xuống sông tự vẫn. Nhưng khi vén áo chuẩn bị nhảy, mẹ bỗng trông thấy bầu trời xanh biếc của vùng đông bắc Cao Mật in bóng dưới lòng sông. () Hình như chẳng có chuyện gì xảy ra, trời vẫn trong xanh, mây vẫn nhởn nhơ, lười nhác và trắng muốt như thế. Chim choc không vì có diều hâu mà ngừng ca hát, con cá nhỏ không vì có chim bói cá mà ngừng bôi lội. Mẹ cảm thấy một làn gió tươi mát xua tan mọi uất ức trong lòng." (tr. 802)

    Bằng niềm tin và khát khao hạnh phúc, người phụ nữ ấy nhận ra, đau khổ hay nghịch cảnh là một phần của cuộc đời, không thể vì nó mà kết thúc sự sống của chính mình. Hơn thế, khi đã làm mẹ, lẽ sống của Lỗ thị hoàn toàn dựa vào đàn con của mình, vì con mà cố gắng, vì con mà trở nên mạnh mẽ, gai góc trước cuộc đời. Thượng Quan Lỗ Thị vừa là nạn nhân, vừa là nhân chứng tố cáo cho một xã hội phong kiến đã lạc hậu và trở nên suy đồi về bản chất, và cũng chính Lỗ Thị dám đứng lên phản khác lại chế độ hà khắc, cay nghiệt ấy bằng sức sống mà tình yêu đối với các con là động lực hết sức to lớn.

    + Người mẹ vĩ đại

    Thượng Quan Lỗ Thị có tất cả 9 người con, trong đó có 8 gái và 1 trai: Lại Đệ, Chiêu Đệ, Lãnh Đệ, Tưởng Đệ, Phán Đệ, Niệm Đệ, Cầu Đệ và cuối cùng là cặp song sinh Kim Đồng, Ngọc Nữ. Trước khi có cặp song sinh, 7 người con gái đã khiến cuộc sống của Lỗ thị ở nhà chồng thêm khốn đốn. Nhưng không bao giờ bà tỏ ra ghẻ lạnh hay xa lánh các con. Trong bất cứ hoàn cảnh nào người phụ nữa này cũng đều dang ta y che chở, bảo vệ những sinh linh bé nhỏ của mình. Mạc Ngôn đã khai thác nhân vật Lỗ thị ở cả 2 thiên chức của người phụ nữ: Làm vợ và làm mẹ. Và dù ở ở vai trò nào, Lỗ Toàn Nhi đều cho thấy những giá trị cao đẹp, đáng trân quý của người phụ nữ Trung Hoa.

    Sau cái chết của nhà chồng và người tình (mục sư Malôa), Lỗ thị gánh trên vai trụ cột gia đình, mọi tình yêu và cuộc sống của bà giờ đây gửi trọn vẹn vào các con.

    Cuộc đời của Lỗ thị dành trọn vẹn để hi sinh cho con cái. Bà chở che và sẵn sàng dang đôi tay đây bao dung khi những người con lầm đường, vấp ngã trở về. Bảy người con gái, ai cũng có những lựa chọn và cách sống riêng, họ đi một con đường riêng và chọn cho mình một cách chết riêng. Cuộc đời đầy gian truân khổ ải đã đẩy 7 chị em nhà Thượng Quan đi những ngã rẽ khác nhau, có khi họ xung khắc nhau, thù ghét nhau bởi sự đối lập trong quan điểm sống. Nhưng rồi, tất cả họ vẫn nối kết bởi người mẹ Lỗ thị - nơi chốn bình yên để họ quay về mỗi khi mệt mỏi vì giông bão đường đời.

    Với người mẹ, không nỗi đau nào bằng việc phải xa con mà không thể cho con được một cuộc sống tốt đẹp. Vậy mà, vì nạn đói 1941, Lỗ thị đã phải rứt ruột đưa đàn con đi "bán", nhưng bà không cần tiền, bà chỉ cần người ta đối xử tốt với Cầu Đệ. Nỗi đau chưa ngoai thì Lỗ thị bàng hoàng khi cầm số tiền bán thân của cô con gái Tưởng Đệ. Đau nào bằng đau này, khi phải sống bằng số tiền bán thân của con gái mình, nhưng vì tình yêu với đàn con, Lỗ thị phải cắn răng sinh tồn. Vì chỉ khi sinh tồn được mới có thể chăm nom những đứa còn lại. Rồi đến năm 1960, Thượng Quan Lỗ Thị đã làm cái chuyện mà người đời cho là đáng khinh, đó là ăn trộm đậu hợp tác xã vì muốn cứu đói cho đàn con, bao tử của bà giờ là cái túi chứa đậu: "lần đầu tiên muốn nôn thì phải lấy đúa ngoáy cổ họng, cảnh đó thì.. bây giờ quen rồi, cúi xuống là nôn ra. Bụng mẹ bây giờ chẳng khác gì cái bao lương thực" (tr. 584). Chính tình yêu thương vô bờ đối với con cháu đã làm động lực cho sức sống mãnh liệt và ý chí sinh tồn mạnh mẽ của người mẹ vĩ đại ấy.

    Tính nhân văn của nhân vật Lỗ thị được thể hiện xuyên suốt tác phẩm, nhất là khi những người con của bà lần lượt tìm thấy lẽ sống riêng cho mình. Bao thế lực đến rồi đi, hưng thịnh rồi thất thế trên vùng đất Cao Mật tạo nên bao biến đổi, gia đình Thượng Quan cũng không tránh khỏi vòng xoáy ấy. Những người con gái lớn của bà lần lượt đi theo tiếng gọi của con tim, họ chọn những lối đi riêng, khi thành công vinh quang nhưng cũng có lúc sa cơ thất thế. Những lúc ấy, Lỗ thị vẫn một mực bao dung tha thứ, và bảo bọc họ. Bà nuôi nấng cả 8 người cháu dù tình cảnh vốn đã khốn khó, nhưng với đứa nào Lỗ thị cũng dành một tình yêu tha thiết và mãnh liệt: "Chiếc áo da của Lai Đệ chỉ có thể bọc con của Lai Đệ.. Mẹ bỏ lại con bé trong chiếc áo da báo ở cổng nhà thờ, rồi chạy về nhà như bị ma đuổi. Nhưng chỉ chạy được hơn chục bước, chân mẹ đã cất không nổi nữa. Con bé khóc như lợn bị chọc tiết, tiếng khóc như sợi dây vô hình giữ chân mẹ lại.." (tr. 172)

    Có thể nói, Lỗ thị không chỉ đơn thuần là hình ảnh người phụ nữ nữa mà đã khái quát lên thành thân phận của đất nước Trung Hoa đầy đau thương nhưng cũng thật vĩ đại. Sự vận động của cuộc đời Lỗ thị với những thăng trầm, gian truân vất vả nhưng vô cũng cao cả và đẹp đẽ cũng chính là hình ảnh đất nước Trung Hoa dù có bị chà đạp, xoay vần đến thế nào cũng không chịu khuất phục, cứ mạnh mẽ đương đầu mà vượt qua, đi lên phía trước.

    2.1. 2 Cô gái nhà Thượng Quan hay chính thăng trầm của đất nước Trung Hoa

    Lỗ Toàn Nhi - bà mẹ vĩ đại, hình tượng của một Trung Hoa thời kì đau đẻ, đã thai nghén ra chín đứa trẻ - tám cô con gái và một cậu con trai. Những cô con gái, cũng như bà mẹ họ Lỗ, họ cũng là một biểu tượng của xứ Trung Hoa - là một xã hội thu nhỏ, mà mỗi người đại diện cho một thành phần, một tư tưởng, một đảng phái khác nhau của đất nước này. Khác với cậu con trai út suốt ngày được chăm bẵm dưới bầu vú ngọt ngào của mẹ, tám cô chị gái là tám chiến binh dũng cảm: Dám dấn than, dám ước mơ và dám yêu. Họ chính là một đại diện điển hình của phụ nữ Trung Hoa nói riêng, và của cả dân tộc Trung Hoa thời bấy giờ nói chung.

    2.1. 2.1 Thượng Quan Lai Đệ

    Mở đầu hành trình là cuộc phiêu lưu dài đằng đẵng của cô chị Cả - Lai Đệ. Phận là chị cả, nên từ nhỏ cô đã bươn chải và xốc vác để làm điểm tựa cho mẹ và lo lắng cho tám đứa em. Và cũng một phần vì sự xuất hiện của cô trong cuộc đời là trái với niềm mong ngóng con trai của bà nội, nên ngay từ những bước chân đầu tiên đi vào cuộc đời, cô đã bị bà nội đối xử tàn nhẫn. Sự tàn nhẫn của bà nội càng làm tô đậm tính cách chính của cô: Cứng rắn, xốc vác và bươn chải. Có những con người, đời càng vùi dập, người ta lại càng mạnh mẽ. Lai Đệ là một điển hình.

    Như bao cô gái khác, đến tuổi trăng tròn, cô cũng yêu. Và tình yêu cũng thật cứng rắn như chính con người của cô. Để chống lại lời ép cưới của mẹ, cô bỏ nhà đi theo Sa Nguyệt Lượng: "Thượng Quan Lai Đệ mười tám tuổi, mặc chiếc áo lông tử điêu, cổ quàng khăn lông chồn, đã bỏ đi cùng với Đội trưởng Sa Nguyệt Lượng từ đêm. Tám mươi tám con thỏ là sính lễ nộp cho mẹ, và cũng là cách ra oai của Sa Nguyệt Lượng đối với mẹ." (Tr. 119). Không những là hành động chống lại sự ép duyên của mẹ, hiểu rông ra, đó còn là hành động phản kháng của những người phụ nữ Trung hoa chống lại những tập tục của xã hội. Làm vợ của kẻ bị xem là Hán gian – Sa Nguyệt Lượng, rồi quan hệ với Tư Mã Khố, sau đó phải lấy Tôn Bất Ngôn để trả nợ cho gia đình, rồi ngoại tình với Hàn Chim. Cuộc đời của Lai Đệ là một bản trường ca đầy nước mắt.

    Cuộc đời của Lai Đệ và chuỗi đời vất vã của người mẹ họ Lỗ giống nhau đến tưởng chừng như hai giọt nước (chỉ khác ở cảnh không bị ép như một cái máy đẻ) : Hệt mẹ, chị phải trải qua tấn bi kịch đau thương đến điện dại trong nỗi đau mất chồng "Sa Nguyệt Lượng treo cổ trên xà nhà. Anh ta mặc bộ quân phục bằng dạ xanh, chân đi ủng thúc ngựa bằng da bò bóng loáng" (Tr. 221, 222). Cuộc đời giống, nên cả tính cách, chị cũng sao nguyên bản mẹ: Tuy phải trải qua nhiều vất vả và bi thương, nhưng trong chị luôn chất chứa cả một tấm lòng hi sinh cho gia đình và con cái. Tấm lòng ấy được thể hiện qua các hành động cụ thể cao cả và cảm động.

    Một thân một mình xông vào trận địa của Lỗ Lập Nhân cứu đứa con nhỏ: "Chị Cả nói: – Mẹ ơi, con về lần này là để cứu cháu.. để cho bọn thằng Lỗ mừng hụt! Mẹ ơi, công ơn của mẹ cao như núi, cho phép con được báo đáp sau này" (Tr. 205). Chị từng lấy thân mình bảo vệ cho hai cháu Tư Mã Hoàng và Tư Mã Phượng ngay trước đầu súng của bọn Tôn Bất Ngôn: "Một phụ nữ.. vừa chạy vừa gào thét như con gà mái chạy đến bảo vệ cho đàn con.. Chị chạy thẳng đến ven đầm, đứng chặn trước mặt hai đứa trẻ: – Bắn tôi đi, giết tôi đi! – Chị gào thét điên cuồng.. – Tôi chính là mẹ của chúng" (Tr. 394)

    Cuộc sống gian truân của xã hội Trung Hoa thời bấy giờ chỉ như một đòn bẩy, đẩy vẻ đẹp trong tâm hồn người mẹ, người phụ nữa lên cao..

    Vẻ đẹp ấy càng được tôn vinh hơn nữa, khi trở thành bản chất của người phụ nữ: Vì ngay từ nhỏ cô gái Lai Đệ đã tỏ ra gan dạ, kiên cường, là chỗ dựa cho mẹ, cho cả đàn em nhỏ: "Cô trông thấy con ngựa nhỏ bị tan xác.. Cô chợt hiểu ra. Nhìn cái cẳng ngựa, cô nhìn thấy chết chóc. Một nỗi sợ ập đến, cô bủn rủn chân tay, răng va vào nhau lập cập. Cô vụt dậy, lôi các em vào bụi" (Tr. 46, 47).

    Trên đường chạy loạn mùa đông năm 1947, Lai Đệ là trụ cột của cả gia đình Thượng Quan mẹ góa con côi. Lúc thì là "con lừa" thồ hàng qua những đoạn đường gồ ghề khó nhọc: "Chị Lai Đệ lúc tỉnh lúc lú thì đi trước xe, vai khoác dây, lưng gập lại, cổ vươn ra như kiếp trâu kéo, chiếc xe rít kin kít chói tai.. Khi tiếng vào vùng trũng và ẩm ướt, bánh xe chuyển động khó khăn, chị Cả phía trước, sợi dây kéo hằn sâu vào thịt.. Tiếng thở của chị khiến người ta hát hoản" (Tr. 353, 354).

    Lúc lại là một "chiến sĩ" kiên cường bảo vệ gia đình trước mọi nguy hiểm từ bên ngoài: "Chị Lai Đệ giằng lấy khẩu súng trong tay mẹ, giật cơ bẩm, cái vỏ đạn văng ra, đẩy cơ bẩm, một viên đạn lên nòng, bẻ gập quy lát xuống, chĩa súng phía trên đầu người đàn ông nổ một phát. Viên đạn cùng với tia lửa vút lên trời.. Mẹ nhìn chị Lai Đệ bằng ánh mắt cảm kích rồi nhích vào phía trong, nhường vị trí canh gác cho chị" . (Tr. 373)

    Mọi lúc mọi nơi, Lai Đệ luôn là một chỗ dựa vững chắc, đáng tin cậy, là một phụ nữ cúng rắn, mạnh mẽ chị luôn luôn nỗ lực, kiên cường vượt qua mọi khó khăn thử thách và không khuất phục trước mọi bất công phi lí. Song song với tính cách cương nghị cứng cỏi ấy là một tâm hồn lãng mạn, một trái tim rộn ràng, thổn thức nhưng cũng quyết liệt trong tình yêu cùng với sự khát khao hạnh phúc đích thực: "Nhưng chị Cả thì rất kiên quyết nói: Mẹ cho con được làm theo ý mình. Con cũng muốn cho gia đình mình được tốt đẹp" (Tr. 113).

    Ở Lai Đệ, sau khi mất đi người chồng Sa Nguyệt Lượng mà cô hằng yêu quí, cô trở nên điên dại, nửa tỉnh nửa mê, cô tự nhốt mình trong những kỉ niệm với người chồng quá cố. Mãi đến khi Tư Mã Khố đến giải thoát cho cô bằng một cuộc giao hoan giữa một đêm đầy sao: "Tư Mã Khố nói, chị chẳng cuồng lên rồi đó sao? Có tôi đây.. Lai Đệ gào lên như điên như cuồng.. chết khát thôi, chết thèm thôi.. Tư Mã Khố nói: – Chị ơi, chị khát thì tôi thừa nước, chị là sóng thì tôi là thuyền, chị khô hạn thì tôi là mưa, tôi là cứu tinh của chị đây! Hai người cuộn lấy nhau". (Tr. 284)

    "Cơn khô hạn" chưa dứt hẳn thì "người cứu tinh" – Tư Mã Khố đã chết. Lai Đệ lại rơi vào trạng thái điên dại. Chứng kiến những sự mất mát của gia đình, bị số phận bông đùa trêu chọc nhưng trong chị luôn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Phải hi sinh giải thắt nút oan nghiệt giữa gia đình Thượng Quan và Tôn Bất Ngôn, Lai Đệ gạt nước mắt chấp nhận lấy Tôn Bất Ngôn – một tên câm hung tợn đi qua chiến tranh, trông hắn như một con quái vật: "Hai cánh tay dài quá khổ, bàn tay đeo găng trắng bằng vải bông lồng vào hai chiếc ghế nhỏ. Một đệm da gắn dưới đít, như là một bộ phận của mông. Hai ống quần rộng thùng thình buột lại với nhau trước bụng. Hình như hai chân hắn cụt đến bẹn" (Tr. 492, 493). Tôn Bất Ngôn hành hạ Lai Đệ về thân xác lẫn tinh thần. Hắn ngấu nghiến thân thể chị như để trả thù cho lần thất hôn mười sáu năm về trước.

    Sống trong cuộc sống đầy dày vò nhưng Lai Đệ vẫn không ngừng vươn lên, không ngừng tin tưởng, không ngừng ước ao và tìm kiếm tình yêu của mình. Trong chính trong lúc vật vả ấy, Lai Đệ đã tìm được tình yêu của mình. Khi người đàn ông gương mặt đầy sẹo, hai vành tai quăn queo như nấm mộc nhĩ bước vào nhà Thượng Quan với những lời lắp bắp: "Lãnh.. Đệ.. Tôi là chồng.. là Hàn.. Chim" (Tr. 310) và khi: "Con chim nhỏ xù lông cổ, cất tiếng hót réo rắt gọi bạn tình, tiếng hót đằm thắm đến nỗi làm rung lên sợi dây tình cảm của những người phụ nữ." (Tr. 531) thì cũng là lúc bắt đầu cuộc tình kì lạ giữa chị Cả và Hàn Chim.

    Cuộc tình "kì lạ" ấy đến như một tất yếu, cái hay ở đây là Mạc Ngôn đã kịp "chộp" lấy những chuyển biến mạnh mẻ bên trong của Lai Đệ, tác giả đã cho chúng ta thấy được sự khát khao tình yêu chân thành của Lai Đệ lớn và mạnh như thế nào. Ở đây, lí trí không còn tác dụng nữa, chỉ còn lại những tình cảm, những cảm xúc, những khát khao, những nỗi uẩn khúc và tiếng nói của con tim: "Chị cảm thấy hình như con chim muốn chuyển cho chị một thông điệp thần bí, một sự lôi cuốn vừa hứng khởi lại vừa dáng sợ. Hàn Chim gật đầu với chị rồi đi vào trong phòng, con chim bay theo anh.. Chị Lai Đệ ngẩn người, chạy vào phòng Hàn Chim, vừa chạy vừa khóc không một chút xấu hổ." (Tr. 531, 532).

    Không ngẫu nhiên mà tác giả gọi đây là một cuộc tình "kì lạ", đó không chỉ đơn giản là một cuộc tình với những thỏa mãn về thể xác, đó còn là sự mở đường cho một con "người" về lại với xã hội con người – Hàn Chim; đó còn là sự giải thoát cho một trái tim yêu tha thiết và sự trả thù của cô với Thằng Câm – chồng cô: "Hàn Chim khiến chị hoàn toàn thỏa mãn.. sự ngốn ngấu trong ăn vụng trái cấm của Hàn Chim khiến chị thỏa mãn về dục vọng, đồng thời là sự trả thù Thằng Câm." (Tr. 534)

    Mạc Ngôn đã đưa nhân vật vào tận cùng của sự chán chường, đau khổ và lại khéo léo tạo ra những tình huống giải quyết để nhân vật bộc được bộc lộ mình một cách toàn diện nhất. Cái khéo của Mạc Ngôn đó chính là sự thể hiện tình huống một cách tất yếu, tự nhiên và đa chiều.

    Cái tất yếu, tự nhiên thì như đã nói ở trên, đó là sự giải thoát mãnh liệt của những nỗi uẩn khúc và sự khát khao được sống, được yêu, được hạnh phúc của Lai Đệ. Còn cái đa chiều? Đó chính là cái hay, cái độc đáo của tình huống. Hàn Chim là người xóa tan những nỗi uẩn khúc, là người xoa dịu "cơn khát" của Lai Đệ, sự xuất hiện của Hàn Chim trong cuộc đời của Lai Đệ đã chấm dứt cuộc sống nửa tỉnh nửa mê và thỏa mãn khát khao yêu thương của Chị Cả nhà Thượng Quan. Nhưng đồng thời, nó lại mở ra một nút thắt mới, đó chính là sự bất chính trong tình yêu (một tình yêu vụng trộm, một mối tình loạn luân), sự xuống cấp trong tình cảm gia đình và nó tạo nên những mâu thuẫn mới, những bi kịch mới trong cuộc đời Lai Đệ: "Cuộc tình kỳ lạ giữa chị Cả và Hàn Chim như hoa cây thuốc phiện, rực rỡ và cuồng nhiệt nhưng độc" (Tr. 531). Chính ngày bắt đầu cuộc tình kỳ lạ ấy cũng là ngày ba con người – Lai Đệ, Hàn Chim, Tôn Bất Ngôn tự hủy hoại mình.

    Khi Tôn Bất Ngôn phát hiện vợ mình ngoại tình: "Trong con kinh hoàng, Lai Đệ vớ lấy chiếc ghế.. Chị nện lên đầu hắn." (Tr. 538). Hành động bức bối, bồng bột ấy của Lai Đệ như là một sự tự giải thoát mình khỏi những kìm nén, chịu đựng trong con người chị. Hành động ấy đồng thời kết thúc luôn mạng sống của chị (bị xử bắn), Hàn Chim (tự vẫn) và của đặc đẳng công thần Chí nguyện quân vừa câm vừa què vừa tàn bạo – Tôn Bất Ngôn. Sau khi Lai Đệ bị hành quyết không lâu, gia đình Thượng Quan lại nhận được thông báo về Hàn Chim: Trên đường đi phát vãng, anh nhảy tàu, bị bánh xe nghiến thành hai đoạn.

    Cái chết của Lai Đệ khép lại cuộc đời nhiều bi kịch, thăng trầm của chị. Nó kết thúc những ngang trái mà Lai Đệ phải gánh trải trong cuộc đời. Đó là hệ quả của mối tình "đẹp" mà "độc" như hoa thuốc phiện rực rỡ. Độc giả có thể chửi rủa, chê ghét Lai Đệ trong tình yêu "kì lạ" này, nhưng Mạc Ngôn đã kịp níu kéo cảm xúc của người đọc lại, giúp ta trấn tĩnh nhìn ra được nguồn cơn của mọi chuyện, những hành động của cô, những chuyện tình của cô, những ngang trái của cô đều là do xã hội gây ra. Một xã hội đầy những lọc lừa, dối trá. Một xã hội chuyển giao với nhiều góc khuất và bất cập. Một xã hội còn mang trong mình những tàn dư của phong kiến.. tất cả đã in hằn lên tấm thân của chị Cả nhà Thượng Quan khiến cho chị sống nữa cuộc đời trong những cơn điên dại và một nữa còn lại là những chuỗi ngày vật vã đi tìm hạnh phúc trong tình yêu. Lúc đó ta chỉ thấy thương, thấy yêu Lai Đệ mà thôi. Thương một cô gái suốt đời sống trong trái ngang, đau khổ, yêu một tâm hồn luôn khát khao tình yêu chân chính và một trái tim sống nhiệt tình, sống hết mình trong tình yêu.

    Lai Đệ là người tiên phong, mở toang cánh cửa bước vào cuộc đời của những cô gái nhà Thượng Quan. Đó cũng chính là hình ảnh của những người Trung Quốc trong buổi đầu của cuộc chuyển giao tư tưởng. Những con người bị chính ước mơ của họ và cuộc đời đầy gian truân đưa đẩy và bi kịch của sự bế tắt. Tuy nhiên dù có bị cuộc đời xô đẩy thế nào họ vẫn kiên cường bám trụ, kiên cường với niềm tin mạnh mẽ.

    2.1. 2.2 Thượng Quan Chiêu Đệ

    Tiếp bước chị Cả Lai Đệ, con gái thứ hai nhà Thượng Quan, Thượng Quan Chiêu Đệ cũng bước vào đời theo tiếng gọi của tình yêu: "Mẹ cũng nhận ra nỗi lòng của Chiêu Đệ, dự cảm sẽ tái diễn chuyện như Lai Đệ. Mẹ lo lắng nhìn rất lâu vào ánh mắt háo hức đáng ngại trong con mắt đen láy cùng với cặp môi đỏ mọng như thèm khát của chị. Đâu phải là một cô gái mới mười bảy tuổi? Rõ ràng là một con bò cái tơ đang động đực." (Tr. 138, 139).

    Giống như chị Cả của mình, chị Hai Chiêu Đệ cũng đến với tình yêu một cách mãnh liệt và chân thành: "Chị Hai, chị Ba và chị Tư đều rất ngưỡng mộ Tư Mã Khố. Do chị Cả đã nêu gương, trong đầu chị Hai một ý nghĩ thoáng qua: Lấy Tư Mã Khố! Hình như có tiếng ai đó cảnh cáo chị: Tư Mã Khố đã có ba vợ!.. Vậy thì chị làm vợ thứ tư!" (Tr. 127).

    Những cô gái nhà Thượng Quan, khi yêu họ yêu bằng trọn con tim. Trong tình yêu, trái tim luôn có lí lẽ riêng của nó, và trái tim Chiêu Đệ cũng vậy, khi đã gặp được người làm chủ nó thì nó ngân lên những xúc động dạt dào và có những lí lẽ riêng của mình: "Con biết mẹ định nói anh ta đã có ba vợ. Con sẽ làm vợ thư tư. Con biết mẹ định nói anh ta nhiều tuổi hơn mẹ. Con với anh ta không cùng họ, càng không phải đồng tông, chẳng phải cái gì hết!" (Tr. 139). Và với những lí lẽ ấy, Lỗ thị chỉ còn biết tự nhủ: "Mẹ không còn sức để ngăn chặn vì mẹ biết rằng bọn con gái nhà Thượng Quan một khi đã có cảm tình với người đàn ông nào thì dù có tám ngựa cũng không kéo lại" (Tr. 531). Chàng trai lọt vào mắt xanh chị Hai nhà Thượng Quan đó chính là cậu hai của Phúc Sinh Đường – Tư Mã Khố. Tình yêu Chiêu Đệ dành cho Tư Mã Khố là thứ tình yêu "vĩnh kết đồng tâm" chứ không phải là thứ tình yêu của một cô bé mười bảy tuổi. Điều đó được thể hiện qua tấm lòng sắt son của cô trong những ngày cùng Tư Mã Khố lên voi xuống chó, và đỉnh điểm là cái chết của cô trong bom đạn của bọn Lỗ Lập Nhân: "Tư Mã Khố bế xác chị Chiêu Đệ, cười như điên loạn, từ trong nhà xay đi ra" (Tr. 307).

    Tuy số lượng trang viết tác giả dành cho Chiêu Đệ là khá ít so với Lai Đệ, nhưng không phải vì thế mà hình ảnh của chị bị mờ nhạt. Chị là hình ảnh bổ sung cho những cô gái Trung Quốc luôn dạt dào yêu thương và mạnh mẽ trong tình yêu. Dám sống, dám yêu và dám hi sinh cho tình yêu mình – đó là phẩm chất của những cô gái Trung Quốc trong thời kì mới: "Mẹ ơi, con sống là người của người ta, chết là ma của người ta. Mẹ cứu thằng nhỏ này, suốt đời con không quên ơn đức của mẹ! Chị Hai vùng dậy bò ra ngoài. Mẹ níu chị lại. – Mẹ ơi chân anh ấy máu cứ chảy hoài. Con không đến thì anh ấy sẽ chết. Anh ấy mà chết thì con sống còn ý nghĩa gì? Mẹ, mẹ cho con đi!" (Tr. 149)

    Chiêu Đệ là vợ của Tư Mã Khố, là vợ của người có quyền lực cao nhất ở vùng Cao Mật nhưng Chiêu Đệ vẫn bình dị, vẫn gần gũi với gia đình và với mọi người. Là một thành viên của Quốc dân đảng nhưng gia đình Tư Mã mà đặc biệt là Chiêu Đệ lại được lòng người dân bằng cách hành xử của mình: "Người của chi đội Tư Mã không tiếc đạn bắn như vải trấu xuống lòng sông, khiến mặt sông như một cái chảo đang sôi. Nếu họ định tiêu diệt đại đội bộc phá thì chắc chắn không sót một móng, nhưng họ chỉ thi hành chiến thuật dọa dẫm, không bắn chết ai." (Tr. 238).

    Qua Lai Đệ và Chiêu Đệ ta có thể thấy được phần nào cách nghĩ, cách làm và cách yêu của những cô con gái nhà Thượng Quan mà nói rộng ra là những cô gái của đất nước Trung Quốc.

    2.1. 2.3 Thượng Quan Lãnh Đệ

    Trong buổi đầu tự do, những cô gái Trung Quốc – những cánh chim nhỏ bé đang bươn chải giữa một bầu trời tưởng chừng khoáng đãng nên càng bay càng mỏi. Có cánh chim thì lấy được thăng bằng đáp xuống mặt đất như Chiêu Đệ, nhưng cũng có cánh chim thì sợ hãi lạc xuống một vùng đất cằn cỗi hoang vu như chị Ba Lãnh Đệ.

    Chị Ba Lãnh Đệ yêu tha thiết Hàn Chim, nguyện cùng Hàn Chim răng long đầu bạc, tình yêu đẹp ấy đang được hai người chung tay vun đắp thì bỗng nhiên tai họa giáng xuống. Hàn Chim cùng nhiều thanh niên Trung Quốc bị bắt sang Nhật làm nô lệ. Đôi uyên ương vì thế bị chia lìa mãi mãi – điều đó làm Lãnh Đệ lo buồn và sợ hãi đến nỗi điên dại.

    Cả ba chị em Chiêu Đệ, Lai Đệ, Lãnh Đệ đều là những người gặp ngang trái trong tình yêu, đều có chung một kết cục bi kịch. Tuy nhiên, khi dõi theo số phận của những cô gái nhà Thượng Quan, độc giả chưa bao giờ cảm thấy nhàm chán; ở mỗi con người ấy, mỗi cuộc tình, Mạc Ngôn đều có những cách thể hiện cùng với những chất liệu riêng biệt. Nếu ở Lai Đệ tình yêu được tả cận cảnh, chân thật và đa chiều, đó là một cô gái luôn sống hết mình trên hành trình đi tìm tình yêu thì Chiêu Đệ là những "đoạn phim" được chắp nối tạo nên một chuyện tình mãnh liệt, chung thủy và sẵn sàng hi sinh để bảo vệ tình yêu đó. Còn ở Lãnh Đệ, tình yêu của cô lại được xây dựng bằng những chi tiết kì ảo có tính huyền thoại – huyền thoại về nàng Tiên Chim.

    Cái kì ảo đã xuất hiện rất lâu trong lịch sử văn học nhân loại, nó có cơ sở từ những tiền đề tâm lí, xã hội nhất định. Trước thế giới tự nhiên và trong xã hội còn tồn tại những điều bất khả giải, ngay cả trong con người hiện đại vẫn luôn tồn tại những ẩn uất chìm sâu trong vô thức. Bởi vậy, chỉ có cái kì ảo mới có thể làm cho trí tưởng tượng của thế giới tinh thần, thế giới nội tâm bí ẩn được thăng hoa. Và nàng Tiên Chim trong "Báu vật của đời" là sự bế tắc trong tình yêu, là những ẩn uất về sự khát khao được yêu, được đến cùng nhau, hòa quyện vào nhau. Đó là sự khát khao gần gũi, khát khao tự do thật sự. Niềm khát khao ấy được thể hiện mạnh mẽ qua cuộc giao hoang giữa Tiên Chim Lãnh Đệ và Tôn Bất Ngôn: "Tôn câm từ dưới hầm củ cải chui lên.. thằng câm đã cưỡng dâm chị ba Lãnh Đệ.. Nước mắt mẹ rơi trên mình chị, trên những vết răng ở vú, nhưng chị lại nở một nụ cười mê hồn, ánh mắt rạng rỡ đầy quyến rũ." (Tr. 200, 201)

    Như mãnh đất hạn gặp cơn mưa rào, cuộc cưỡng dâm ấy như đã giải tỏa sự ham muốn bị kiềm nén đến phát điên rồ của Lãnh Đệ, đồng thời cũng khơi gợi trong người con gái ấy những ham muốn vượt bậc: "Đây là giờ phút đẹp đẽ nhất trong cuộc đời Tiên Chim.. Chị vừa múa vừa tiến lại gần thằng câm rồi đột nhiên dừng lại nghiêng đầu ngắm khuôn mặt hắn.. Cuối cùng, chị công khai nắm lấy bộ sậu giữa hai chân.. cặp môi mọng đầy vẻ ham muốn, phản ánh một dục vọng lành mạnh, tự nhiên." (Tr. 201, 202)

    Tuy nhiên, dường như cuộc sống không thỏa mãn được những mong muốn, những khao khát của Tiên Chim Lãnh Đệ. Cô sống vẫy vùng trong sự khao khát ham muốn và tình yêu không trọn vẹn.

    Hành động chị giương đôi cánh, miệng kêu như chim, chạy theo sườn dốc rồi lao xuống là hành động giải thoát cho một trái tim yêu không trọn. Đó là trang cuối khép lại cuốn sách về huyền thoại Tiên Chim Lãnh Đệ. Đồng thời đó cũng là một kết thúc đầy bi kịch của những người Trung Quốc không thể hòa hợp trước những biến thiên dữ dội của thời cuộc. Và khi tình yêu không thể là điểm tựa cho những sinh linh lạc lõng ấy thì cái kết cục bế tắc ấy là tất yếu.

    Chính nhờ thủ pháp lạ hóa mà Mạc Ngôn đã tạo ra được sự hu hút và sự mới mẽ, đồng thời cũng đã giúp ông xây dựng được những mối tình lãng mạn có, éo le có, bi thương có và cũng không kém phần li kì.

    2.1. 2.4. Thượng Quan Phán Đệ

    Chi Năm Phán Đệ cũng yêu, chị cũng yêu bằng một tình yêu mãnh liệt, cũng khao khát về một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn. Kết duyên cùng Lỗ Lập Nhân, một Đảng viên Cộng sản đảng. Nhưng cặp vợ chồng Đảng viên này lại mang trong mình những tư tưởng ích kỉ, hẹp hòi và lạc hậu. Cả cuộc đời của Phán Đệ là một cuộc chạy đua theo danh vọng, tuy có những lúc Phán Đệ cũng hết sức bênh vực gia đình, cô từng nỗi giận tung ngay quả lựu đạn vào Tôn Bất Ngôn, kẻ làm nhục em mình: "Chị Năm nghe tin chạy về, trố mắt nhìn chị Ba. Chị chẳng nói chẳng rằn chạy ra sân, móc quả lựu đạn ở thắc lưng, giật nụ xòe ném vào chái đông. Quả lựu đạn bị thói, không nổ" (Tr. 201) nhưng xét kỉ sự việc thì hành động ấy cũng chỉ xuất phát từ sự tức giận do uy quyền và danh dự của cá nhân cô bị xúc phạm. Đối với cô, danh vọng là tất cả. Trên bước đường tìm kiếm vinh quan và danh vọng của mình, Phán Đệ đã bán rẻ tất cả những giá trị thiêng liêng của một gia đình

    Qua cái nhìn của Kim Đồng, chị Năm Phán Đệ hiện ra một cách đầy đặn nhất: "Chị Phán Đệ ướt lướt thướt, bộ quần áo mỏng dính chặt trên người, cặp vú đồ sộ nặng trĩu mê hoặc con mắt tôi. Mái tóc chị bóc hơi ngùn ngụt, tỏa mùi men rượu. Núm vú đỏ hồng phập phòng sau lần áo lót. Tôi rất muốn xong tới ngoạm vào bầu vú chị, vướt ve bầu vú chị, nhưng không dám. Chị Phán Đệ tính nết dữ dằn, hơi tí là bạc tay, chị không hiền như chị Cả." (Tr. 241)

    Trong con mắt của nữ Đảng viên Cộng sản đảng ấy, người dân và gia đình chỉ là nơi cho cô thể hiện huy quyền của người lãnh đạo ngay cả trong lúc thất thế: "Chị Phán Đệ giương to mắt nhìn mẹ nói: – Mẹ, đều là con gái của mẹ, mẹ nuôi hộ các chị ấy thì cũng phải nuôi hộ con!" (Tr. 241)

    Trên miệng của Phán Đệ luôn dương dương tự đắc với những lí lẽ chính trị sáo rỗng và sặc mùi cánh tả cực đoan: "Chính trị là thống soái, là linh hồn, chính trị là mạng sống của tất cả mọi việc. Khoa học tách khỏi chính trị thì không còn là khoa học, trong từ điển của giai cấp vô sản, không có kho học siêu giai cấp. Giai cấp vô sản có khoa học của giai cấp vô sản, giai cấp tư sản có khoa học của giai cấp tư sản!.." (Tr. 544).

    Và khi cần, người Đảng viên ấy sẵn sàng vứt bỏ gia đình, gốc gát để bảo toàn lợi ích của mình. Giai đình đối với cô trong những phút giây ấy chỉ như là những chướng ngại trên con đường tiến thân của cô: "Mã Thụy Liên tóc ngắn rẽ ngôi lệch, không ra nam cũng chẳng ra nữ, dựng lên như bờm ngựa.. Đồ khốn! Kim Đồng rủa thầm, tưởng ai, tế ra là chị Phán Đệ. Vì nhà Thượng Quan chúng tôi tiếng xấu đồn xa, nên chị ta thay tên đổi họ." (Tr. 542)

    Phán Đệ là hình ảnh của những người làm cách mạng nhưng xa rời quần chúng, chỉ khư khư với những triết lí chính trị rỗng tếch. Hình ảnh Phán Đệ là hình ảnh những người cực tả, làm chính trị một cách mù quáng, rập khuôn. Là hình ảnh của những người tranh giành quyền lực trong buổi đầu của cách mạng. Sự xa rời với quần chúng nhân dân là căn bệnh của cách mạng Trung Quốc trong những ngày đầu còn non trẻ.

    Trong lịch sử của văn học Trung Quốc, người đầu tiên phát hiện và cảnh báo cho người Cộng sản về căn bệnh này đó chính là Lỗ Tấn. Trong "Thuốc", Lỗ Tấn đã chỉ ra căn bệnh ấy nguy hiểm như thế nào với cái chết của Hạ Du và ra sức đi tìm một phương thuốc chữa trị. Đến Mạc Ngôn, nhà văn đã góp thêm phần mình chỉ ra sự nguy hiểm của căn bệnh ấy trong thời đại mới. Trong "Báu vật của đời", những người làm cách mạng như Phán Đệ, như Lỗ Lập Nhân lại tự biến mình thành nạn nhân của căn bệnh ấy: "Chị Phán Đệ nói: – Con đã nói rồi, mười năm Hà Đông, mười năm Hà Tây, phải xem lại mình đã chứ!

    Mẹ nói: – Tôi xem rồi, tôi đã thấy tất cả!..

    Chị Phán Đệ nói: – Chúng con đã lấy được thiên hạ rồi!" (Tr. 306)

    Trên con đường danh vọng, chị Năm Phán Đệ đã có được những quyền lực mong muốn. Tuy nhiên, những quyền lực mà Phán Đệ có được đã được chị đánh đổi bằng biết bao tội lỗi, có cả máu, cả những cái chết đau lòng của những người thân, những đứa trẻ vô tội dưới chính bàn tay của Phán Đệ. Từ bỏ gia đình, từ bỏ nguồn gốc, chỉ vì danh vọng chị còn từ bỏ luôn cả nhân cách của một con người: "– Tôi tuyên bố, tử hình con trai Tư Mã Khố là Tư Mã Lương, lập tức thi hành; tử hình hai con gái của Tư Mã Khố là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng, lập tức chấp hành!.. Kết quả cuối cùng là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng mỗi đứa bị một phát đạn vào đầu, viên đạn từ trán chui ra gáy, lỗ đạn không sai nhau mảy may, mọi người ngạc nhiên thán phục mãi." (Tr. 346, 351)

    Đó có thể là những sai lầm được chúng ta gọi là những hạn chế của lịch sử, những sự thật khó chấp nhận khi những người thân lại giết nhau một cách thản nhiên, công khai và tàn nhẫn như vậy. Phải chăng đó là những hành động xuất phát từ lòng ghen tị mà muốn thể hiện sức mạnh của quyền lực: "Thoạt nhìn, chúng ta bắn hai đứa trẻ, kì thực không phải là hai đứa trẻ, mà là chế độ lạc hậu cũ kĩ, chúng ta bắn là bắn cái chế độ đó, bắn cái dấu hiệu đó! Các ông các bà ơi! Hãy vùng lên, không cách mạng thì là phản cách mạng, không có con đường thứ ba." (Tr. 348).

    Đó là lời lẽ, là tuyên ngôn của một giai đoạn lịch sử đau lòng, sự sai lầm ấy phải trả giá bằng nước mắt, bằng máu và bằng niềm tin của nhân dân. Và Phán Đệ là hình ảnh tiêu biểu cho sự sai lầm ấy, để đến cuối cùng phải chết trong sự cô đơn lặng lẽ: "Kim Đồng bước tới chỗ đặt thi thể Phán Đệ cúi xuống lật tờ che mặt. Mắt Phán Đệ lòi ra ngoài, lưỡi thè ra quá nửa" (Tr. 589) và thái độ ghẻ lạnh của người thân: "Mẹ bảo: – Nó không phải là con gái tôi!" (Tr. 589).. Tất cả nhưng điều đó là cái giá phải trả của những tư tưởng sai lệch. Khi còn sống, chị xem gia đình là chướng ngại trên con đường danh vọng, nhưng đến phút cuối cùng của cuộc đời, gia đình lại là chốn bình yên quay về nhưng đã muộn màng: "Phán Đệ viết: Tôi là Thượng Quan Phán Đệ, không phải Mã Thụy Liên. Tôi tham gia cách mạng hai mươi năm, không ngờ kết cục lại đến nông nổi này. Tôi tha thiết đề nghị quần chúng cách mạng đưa xác tôi về trấn Đại La, giao cho mẹ tôi là Thượng Quan Lỗ Thị." (Tr. 589)

    Nhìn lại những hành động sai trái do Phán Đệ gây ra và cuối cùng là cái chết bi thảm của cô gái đầy tham vọng ấy, đầu tiên người đọc có cảm giác hả hê. Nhưng nếu xét kĩ thì Phán Đệ cũng thật đáng thương, chị chẳng qua cũng chỉ là một nạn nhân trong buổi bình minh thời đại, giữa lúc tranh tối tranh sáng, thị phi bất phân ấy, biết bao người đã sa lầy, đã phải trả giá bằng cả tính mạng của mình. Họ là vết đen của thời đại, chúng ta có thể lên án và phê phán họ nhưng chúng ta cũng không thể lãng quên họ, vì họ cũng là một phần của lịch sử. Nhiều người đã phủ nhận sự tồn tại của họ, nhưng trong "Báu vật của đời", Mạc Ngôn bằng ngòi bút của mình đã tái tạo và trả lại vị trí lịch sử cho họ, ông đã soi rọi vào những góc khuất ẩn sâu của lịch sử mà vì một lí do nào đó đã bị con người vô tình hay cố ý lãng quên.

    Bức thư của Phán Đệ là lời hối hận muộn màng của một đứa con lầm lỗi, một con người sa ngã. Cái chết của Phán Đệ là hệ quả của những sai lầm trong cuộc sống, đó là sự sụp đổ của một hệ thống chính trị sáo rỗng, rập khuôn, và đồng thời cũng là dấu hiệu của những đổi mới trong tương lai.

    2.1. 2.5 Thượng Quan Niệm Đệ

    Niệm Đệ tính tình nóng nảy, độc đoán, là người duy nhất trong gia đình ghét bỏ Kim Đồng: "Nhưng chị đã là một cô gái bước vào thời kì sung mãn, tóc đen nháy, mông vổng lên như buộc khóm hồng mao vào đốt xương cùng." (Tr. 260)

    Niệm Đệ cũng có nét gì đó giống chị Phán Đệ, cô săn tìm hạnh phúc bằng mọi giá "Chị Sáu lấy Bácbit, mẹ không tán thành. Chị Sáu nói: – Mẹ, mẹ đánh chết bà nội, con giữ bí mật cho mẹ chuyện ấy đấy nhé! Mẹ lập tức nhũn như con chi chi, không nói gì nữa" (Tr. 267) . Và cái chết đầy huyền bí của chị trong hang sâu cùng người phụ nữ lạ mặt là một kết thúc buồn nhưng tất yếu cho một con người ích kỉ, đầy dục vọng xấu xa:

    "Bácbip bị thương đang ẩn trong hang.

    Vợ chồng vừa gặp nhau vừa ngạc nhiên vừa mừng, nhưng sau đó kết cục không đẹp chút nào. Đúng lúc vợ chồng Bácbip đang ôm nhau, người đàn bà phía sau cho nổ liền ba quả lựu đạn, cả ba đều chết." (Tr. 825)

    Phán Đệ và Niệm Đệ có lẽ là hai thành viên cá biệt nhất trong gia đình Thượng Quan mang tư tưởng ích kỉ, hám danh. Đó là mảng tối trong gia đình Thượng Quan. Ở phần còn lại của gia đình này là những con người luôn khát khao yêu thương, ánh sáng của tình yêu vẫn rạng ngời trong những trái tim nhân hậu. Có thể dể dàng nhận ra sự hi sinh và trái tim cao cả trong mảng sáng của gia đình Thượng Quan, một trong những trái tim nhân hậu ấy là Thượng Quan Tưởng Đệ.

    2.1. 2.6 Thượng Quan Tưởng Đệ

    Gia đình Thượng Quan trải qua biết bao thăng trầm khổ ải, gặp vô số những tai ương, những nỗi đau nghiệt ngã. Nạn đói năm một chín bốn mốt không chỉ cướp đi những người láng giềng thân thiết của gia đình Thượng Quan, mà nó còn cướp đi nhiều thứ khác, những thứ còn quan trọng hơn mạng sống – đó là nhân cách của con người. Nhiều người đã bán vợ đợ con chỉ để có cái ăn, họ tranh giành như những con vật chỉ để có được những cành rau dại.. tuy nhiên, ngay trong lúc ấy, gia đình Thượng Quan lại được sưởi ấm bằng sự hi sinh xuất phát từ trái tim tràn đầy yêu thương của Tưởng Đệ. Để cứu gia đình đang đùm đề bảy sinh mạng và để có tiền chữa bệnh cho mẹ, chị Tư Tưởng Đệ đã bán mình vào nhà thổ:

    "Mẹ ngạc nhiên, hỏi: – Tưởng Đệ, con lấy đâu ra tiền thế này?

    .. Chị Tư nói: – Mẹ, con đã bán mình rồi..

    .. Mẹ lảo đảo rồi ngã sóng soài ra nhà." (Tr. 183)

    Nếu so về số trang viết thì Tưởng Đệ không được Mạc Ngôn dành cho nhiều. Tuy nhiên với sự xuất hiện ít ỏi như thế, Mạc Ngôn cũng đã xây dựng nên hình ảnh một Thượng Quan Tưởng Đệ – con người cao cả, giàu đức hi sinh cũng là một cuộc đời bi thương cho đến phút cuối.

    Sự trở về của Tưởng Đệ sau nhiều năm lưu lạc khiến lí lịch nhà Thượng Quan vốn phức tạp nay càng phức tạp hơn: "Trên cổng nhà cậu, Hồng vệ binh treo một lô biển:" Nhà Hán gian "," Sào huyệt của bọn Hoàn hương đoàn "," Nhà thổ "..." (Tr. 588). Nhưng đối với những người nhà Thượng Quan thì đó là cuộc trở về của một người anh hùng. Kim Đồng là một trong những nguyên nhân chủ yếu để Tưởng Đệ quyết định bán thân: "Chị Tư quì xuống, dập đầu lạy mẹ một lạy.. Chị bóp nhẹ hai vai tôi, nỗi xúc động khiến khuôn mặt chị như hoa mai trong gió tuyết. – Kim Đồng ơi, Kim Đồng – Chị nói – Em lớn mau lên, lớn nhanh lên, nhà Thượng Quan ta trông vào mỗi mình em!.. Chị bưng miệng như buồn nôn, chạy vụt ra rồi mất hút không thấy nữa." (Tr. 184).

    Nên khi Tưởng Đệ trở về, Kim Đồng là người đau xót nhiều nhất và anh luôn ra sức bảo vệ chị: "Chị Tư có một tiểu sử cay đắng, đầy nước mắt, chúng tôi không có quyền hỏi. Chúng tôi thận trọng bảo vệ vết thương hễ chạm là ứa máu của chị. Nhưng người ngoài thì không nghĩ vậy.. Vợ ông Trần Thọt là Trương Quốc Hoa cười hí hí bảo tôi:

    – Ông anh, việc gì ông anh khổ sở thế! Việc gì phải đào hang chuột để lấy lương thực? Chỉ cần bán một thứ trong số châu báu chị Tư đem về đã đủ mua một chuyến tầu bột mì ngoại.

    Tôi trừng mắt nhìn người đàn bà tai tiếng vì thông dâm với bố chồng, nói:

    – Chị nói thối như cứt ấy!" (Tr. 836)

    Giống như Kim Đồng đã nói Chị Tư có một tiểu sử cay đắng, đầy nước mắt, suốt những năm lưu lạc ấy, chị đã nếm trải biết bao cay đắng tủi nhục chỉ vì muốn giúp gia đình có một cuộc sống khấm khá hơn: "Chị thò tay vào cái hộp đàn đã bị ông cán bộ công xã chọc thủng một lỗ to tướng, nói tất cả để ở trong này. Mẹ xem, viên ngọc to này là viên dạ minh châu.. Đây là viên ngọc mắt mèo.. Đây là chiếc xuyến vàng.. Chị kể ra từng chiếc mà này chỉ còn trong kí ức, điểm từng chiếc, bảo: Mẹ lấy cả đi.. Mẹ ơi, lúc sa vào nhà chứa con đã thề rằng, đã bán mình thì một lần cũng là bán, vạn lần cũng là bán, chỉ cần các chị em con được sung sướng, thì tấm thân này có sá gì!.. chiếc dây chuyền này là của Kim Đồng, đeo nó vào sống lâu trăm tuổi.. Chúng là mồ hôi nước mắt của con!.. Mẹ cất kĩ cả chưa?" (Tr. 587, 588).

    Câu chuyện mang đầy vị mặn của nước mắt và có vị tanh tao của máu, đúng như Tưởng Đệ nói, tất cả là mồ hôi nước mắt của chị. Chị Tư Tưởng Đệ là hình ảnh của những con người cùng khổ, nhân hậu nhưng bị guồng quay của xã hội đẩy ra bên lề cuộc đời. Cái nghề mà chị Tư đã làm "ngày nào cũng là cô dâu, đêm nào cũng động phòng hoa chúc" là sự sỉ nhục cho xã hội, nhưng họ quên mất rằng chính xã hội này đã sản sinh ra cái nghề ấy. Khi phán xét một ai đó, trước tiên chúng ta hãy nhìn lại chính mình, phải chăng đó là điều tác giả muốn nhắn nhủ với người đọc.

    Với tấm lòng hiếu thảo, Thượng Quan Tưởng Đệ đã bán mình vào chốn nhơ nhuốc, nói một cách khác chị đã đặt mình tách biệt khỏi cộng đồng, không được cộng đồng thừa nhận. Và khi con người lạc lõng ấy tìm cách quay về, thì lại chính cái xã hội ấy chối bỏ, xua đuổi một cách tàn nhẫn. Không những thế, những người sắm vai là thành viên trong xã hội còn thi nhau ra sức giẫm đạp, khoét sâu thêm vết thương lòng của người con gái đáng thương ấy chỉ để chứng minh rằng mình là bậc cách mạng kì cựu, lập trường vững vàng: "Sau ba ngày triển lãm nhiệt tình với báu vật giảm đi, hận thù giai cấp vẫn không thấy nâng cao rõ rệt, các cán bộ công xã liền nảy ra một ý, bắt chị Tư đến triển lãm làm hiện vật sống, bắt chị tự tố cáo chị" (Tr. 837). Và cuộc triển lãm ấy đã lột trần bộ mặt tàn nhẫn của kẻ không có tình người đội lốt cách mạng: "Dân Cao Mật phát điên lên, người ta chen chúc nhau, ngắm chị như ngắm một động vật quí hiếm.. trên thực tế, sự xuất hiện của chị Tư, khiến cuộc triển lãm giáo dục giai cấp ở Cao Mật hoàn toàn mất hết ý nghĩa. Đàn ông đến xem con điếm điếm. Đám phụ nữ cũng đến xem con điếm." (Tr. 840).

    Như đã nói, Tưởng Đệ là đại diện của tầng lớp bị biệt lập với xã hội văn minh, là nạn nhân trực tiếp từ sự vận động chuyển đổi của xã hội. Người ta nhắc đến họ như một điều dơ bẩn, một sự sỉ nhục của xã hội, nhưng hơn ai hết những con người như Tưởng Đệ lại chính là những nhân chứng lịch sử hùng hồn cho một giai đoạn đầy sai lầm:

    "Các cán bộ gầm lên: - Khai ra, không được giấu giếm!

    Chị nói: - Làm điếm là bán trôn nuôi miệng, kiếm được đồng tiền đâu có dễ, mụ chủ cưỡng ép, lưu manh làm nhục, chút tài sản này đẫm máu cả đấy!..

    Chị nói: - Các người cướp của mồ hôi của tôi mà vẫn chưa thôi, còn bắt tôi ra hạ nhục?

    Chị Tư cười nhạt: – Các ông đấu tranh với tôi là giả vờ đấu tranh, thực ra là muốn ngắm tôi.. Chị vừa nói vừa cởi khuy áo nách, phanh vạt, trút bỏ chiếc áo dài xuống, chị hiện ra trần truồng.

    Chị gào to: – Xem đi! Mở mắt ra mà xem! Dựa vào cái gì để bóc lột hả? Dựa vào cái này, cái này? Công việc này nhàn nhã đấy, mưa không đến mặt, nắng không tới đầu, ngọt bùi cay đắng, ngày nào cũng là cô dâu, đêm nào cũng động phòng hoa chúc! Các người có vợ có con gái hãy cho họ làm nghề này.. Đột nhiên ông ta hộc lên.. nắm đấm thép nện liên tiếp vào đầu vào mặt chị Tư những cú trời giáng. Chị Tư ngã sóng soài, quằn quại vì đau đớn, mũi và các kẽ răng rỉ máu." (Tr. 841, 842).

    Sự phản kháng của Tưởng Đệ như một hồi chuông gióng lên để cảnh tỉnh mọi người: Hãy có những cách hành xử tốt hơn với đồng loại, hãy làm trỗi dậy tình người để hồi sinh những trái tim đã hóa đá; hãy dang rộng đôi tay nhân từ và độ lượng đối với những con người lầm đường lạc lối nhưng khao khát quay về: "Hôm ấy, lương tâm trỗi dậy trong những người phụ nữ vùng Cao Mật.. Họ ùa tới, đứng vòng trong vòng ngoài, mặc quần áo cho chị Tư.. chị như một liệt sĩ đã anh dũng hy sinh. Từ hôm đó, chị Tư trở nên nổi tiếng. Chích máu cho những tâm hồn ngu muội cố chấp, dùng phương thuốc dĩ độc trị độc, rõ ràng là biến thối nát thành diệu kỳ, biến bị động thành chủ động." (Tr. 842, 843).

    Đó là điều tốt đẹp và đầy ý nghĩa mà Tưởng Đệ đã làm cho xã hội, chị như ngọn gió thổi bùng lên ngọn lửa của tình yêu thương và lòng nhân ái cho những tâm hồn ngu muội cố chấp. Và cái giá để đổi lấy sự thức tỉnh ấy chính là sinh mạng của chị: "Chỉ tiếc là chị Tư sẽ không bao giờ tỉnh táo trở lại, chị bị chấn thương sọ não vì những quả đấm thép của bí thư Hồ". (Tr. 843).

    Cái chết đau lòng của Tưởng Đệ một lần nữa cảnh báo lương tâm con người, mối quan hệ giữa người và người cần phải thay đổi, phải quan tâm đến nhau bằng trái tim cảm thông chia sẻ và bằng tâm hồn tràn ngập yêu thương, như vậy mới xứng đáng với hai chữ CON NGƯỜI.

    2.1. 2.7 Thượng Quan Ngọc Nữ

    Nếu như Tưởng Đệ phải bán thân vì cứu gia đình thì Thượng Quan Ngọc Nữ vì muốn gỡ bớt một phần gánh nặng cho gia đình chị đã tự dìm mình xuống dòng sông Thuồng Luồng lạnh ngắt.

    Là chị em song sinh với Kim Đồng, ngay từ khi mới lọt lòng, Ngọc Nữ đã mù cả hai mắt, cuộc đời của Ngọc Nữ là sự hi sinh lặng lẽ trong bóng tối: "Khi Ngọc Nữ đã ngoài hai mươi tuổi, tính nết vẫn như một thiếu nữ nhút nhát, luôn co lại như con nhộng trong kén, chỉ sợ làm phiền người khác" (Tr. 584). Ngọc Nữ là một cô gái đẹp cả người lẫn nết, chị như là cây cỏ dại đẹp nhất vùng Cao Mật, không ai đẹp bằng chị: "Mái tóc bạch kim của chị óng như tơ dù có những con chấy kí sinh ở đó, mắt chị trong như pha lê mặc dù chị bị mù. Đôi môi chị đỏ mọng như mào gà trống. Đôi vú chị như cặp vó trắng của con ngựa hồng" (Tr. 809). Chị Tám sống lặng lẽ như một người thừa trong gia đình Thượng Quan. Là người sống gần gũi nhất với mẹ, dường như chị chịu ảnh hưởng sâu sắc từ mẹ, đó là sự cao thượng và đức hi sinh. Ngay đến lúc từ giã cõi đời chị vẫn lo lắng, hi sinh những gì tốt đẹp nhất cho gia đình Thượng Quan: "Chị sợ trầm mình trong chum nước thì phiền hà cho mẹ. Chị sợ chết tại nhà thì hủy hoại thanh danh nhà Thượng Quan. Do vậy chị ra sông tự tận" (Tr. 809).

    Ngọc Nữ là hình ảnh của những người vẫn mang trong mình sự lương thiện giữa một xã hội đầy ghen ghét, sự bon chen và tàn bạo. Trong giai đoạn xã hội đầy biến động này họ như những cánh chim đơn độc, quơ quào trong sự tối tăm mù lòa của thời đại. Và trước sự cùng quẫn ấy, con đường giải thoát duy nhất là cái chết lặng lẽ, cô đơn: "Chị là khối tuyết trên đỉnh núi ở châu Nam cực, không hề vẩn bụi. Trong ngọc trắng ngà, hoa nhường nguyệt thẹn, một cái đẹp đích thực. Rồi, miệng vẫn hát, chị lần từng bước ra giữa sông.. Chị vẫn tiếp tục tiến lên rồi đột nhiên biến mất". (Tr. 817)

    Cả đời chị Tám gắn liền với sự thầm lặng và hi sinh. Lời than van của bà mẹ Lỗ thị chính là sự bao quát đầy đủ nhất cuộc đời của chị: "Con nhỏ thấu hiểu mọi nhẽ, nó không muốn là gánh nặng cho mình nên mới tìm đến cái chết! Con ơi, cả đời con chưa bao giờ được hưởng phúc, dù chỉ bằng hạt vừng!.." (Tr. 817, 818)

    2.1. 2.8 Thượng Quan Cầu Đệ

    Thành viên cuối cùng trong gia đình Thượng Quan cũng là người ít gần gũi với gia đình nhất đó là Thượng Quan Cầu Đệ. Để cứu Cầu Đệ thoát khỏi nạn đói năm một nghìn chín trăm bốn mươi mốt, Lỗ thị đã mang chị đem cho một gia đình giàu có, cũng kể từ đó chị và gia đình hoàn toàn mất liên lạc. Mãi đến năm một nghìn chín trăm sáu mươi chị mới vô tình gặp lại Kim Đồng ở nông trường Thuồng Luồng.

    Tốt nghiệp đại học Y, Kiều Kì Sa là đại diện của lớp trí thức trẻ lúc bấy giờ, họ bị kìm hãm cả về tư tưởng, lẫn chính trị.. bị quy là phái hữu khi có những tư tưởng tiến bộ, bị chính những người đứng cùng trận tuyến xa lánh, dè chừng. Nhưng với sức trẻ và vốn tri thức của mình, những người như chị vẫn không ngừng đấu tranh để bảo vệ khoa học và lí tưởng:

    "Mã Thụy Liên chỉ vào con trâu nói: – Anh bơm tinh dịch ngựa cho con trâu này!

    .. Cô nhân viên phụ trách tinh dịch cừu có cặp lông mày cánh cung, mắt đen láy, dứt khoát không chấp hành lệnh của Mã Thụy Liên. Cô quẳng ống thụ tinh xuống khay tráng men, tháo găng tay, bỏ khẩu trang, để lộ môi trên đầy lông tơ, mũi thẳng và chiếc cằm đường nét thanh tú

    – Đúng là một trò đùa! – cô phát âm tiếng phổ thông rất chuẩn, giọng thánh thót như chim.. Chính trị có thể đảo lộn trắng đen, sớm Tần tối Sở, nhưng khoa học thì không thể như vậy!.. – Nếu như khoa học của giai cấp vô sản chờ đợi một loại giống mới qua việc bắt cừu giao phối với thỏ, thì khoa học của giai cấp vô sản chỉ là một bãi cứt chó?

    – Không, không, tôi không thể làm trái với kiến thức cơ bản?" (Tr. 543, 544)

    Những con người trẻ trung đầy nhiệt huyết ấy sinh ra trong một thời đại không thuộc về họ. Đã có biết bao nhà khoa học, biết bao trí thức mang tư tưởng tiến bộ chỉ vì đã mạnh dạn nêu lên những chính kiến của mình mà đã bị cô lập, trù dập, u uất đến chết. Đó là thời kì của quan liêu, cửa quyền, tham nhũng triền miên.. kinh tế suy đồi, xã hội điêu tàn, chính trị khủng hoảng, văn nghệ khô cứng.

    Một khi cuộc sống trở nên cơ cực, cùng quẫn thì những giá trị chân chính của con người cũng bị lãng quên, thay vài đó là sự đấu tranh, xâu xé lẫn nhau một cách điên cuồng để được sống, được ăn, được tồn tại. Và trong cơn đói khát ấy, cô nữ hoa khôi nông trường đầy ngang bướng Kiều Kì Sa cũng phải đánh đổi danh dự để bảo tồn tính mạng. Để đến cuối cùng được chết trong sự no nê nhưng đau xót đến tội nghiệp.

    Cái chết của Thượng Quan Cầu Đệ đã khép lại những đoạn đời trong cuốn tiểu thuyết viết về gia đình Thượng Quan. Mỗi cô gái trên đường đời đều có những lí tưởng, những ước mơ và những cách sống khác nhau. Có người suốt đời đi tìm tình yêu và hạnh phúc chân chính; có người chạy trốn hồi ức bằng những cơn điên dại; có người quay cuồng trong vòng xoáy của danh vọng và quyền lực; có người luôn nhận đau khổ về mình để dành những gì tốt nhất cho người thân.. tất cả họ đã tạo ra một xã hội Trung Quốc thu nhỏ với đầy đủ những màu sắc và cung bậc cảm xúc.

    Nhìn vào những cô gái ấy ta thấy được những chuyển biến sâu sắc trong cuộc "chuyển dạ" vĩ đại của đất nước Trung Hoa, nhìn vào đó ta cũng thấy được những góc khuất của lịch sử bị chính những người trong cuộc cố tình quên lãng. Mỗi đứa con gái nhà Thượng Quan đều chọn cho mình một con đường, một cách sống và một cách chết khác nhau, chính họ đã góp phần tạo nên lịch sử phát triển của gia đình, của vùng đất Cao Mật hay nói rộng ra đó là lịch sử phát triển của cả đất nước Trung Hoa.

    2.2 Niềm hy vọng của người mẹ Lỗ thị và các thế lực chính trị qua hình ảnh những người đàn ông:

    2.2. 1 Kim Đồng – hy vọng một đời của Thượng Quan Lỗ Thị

    Kim Đồng trong "Báu vật của đời" là con thứ chín của Thượng Quan Lỗ Thị, một đứa con hoang vì mẹ quá nuông chiều trở nên yếu hèn, mắc bệnh "say mê" bầu vú. Một sự thoái hóa nhân sinh trong xã hội bấy giờ.

    Trong tiểu thuyết, Kim Đồng như một nhân chứng chứng kiến toàn bộ quá trình phát triển của vùng Cao Mật và sự hư vong của gia đình Thượng Quan. Anh chính là nhân vật trung tâm và mọi câu chuyện đều hướng tới anh, chính lẽ đó anh cũng chính là nạn nhân của quá trình phát triển đó.

    Là người con trai duy nhất trong chuỗi ngày sinh nở dằng dặc của Lỗ Thị. Kim Đồng chính là niềm hi vọng lớn nhất của gia đình và đặc biệt là động lực giúp Lỗ Thị sống mạnh mẽ hơn: "Mẹ nói: – Tao khác trước mà cũng không khác. Mười mấy năm nay, người nhà Thượng Quan chúng ta như những cây hẹ, búi tàn úa búi mọc lên, có sống ắt có chết, chết thì dễ, sống mới khó, càng khó càng phải sống! Càng không sợ chết càng phải cố mà sống! Mẹ phải nhìn thấy cái ngày con cháu mẹ mở mày mở mặt với đời! Mắt mẹ mọng nước, nhưng ánh mắt thì rực lửa, nhìn chúng tôi khắp lượt, cuối cùng đọng lại trên mặt tôi như kí thác niềm hi vọng lớn nhất ở tôi." (Tr. 480)

    Nhưng rủi thay, Kim Đồng lại chỉ là một đứa trẻ lớn xác. Suốt đời chỉ bám lấy vú mẹ. Những biến chuyển của thời đại quá to lớn, quá mạnh mẽ, nó khiến cho một số người không thể tiếp cận và hòa nhập với nó, từ đó đẩy họ ra lề của cuộc sống, biến họ thành những con người dị thường. Ở Kim Đồng, những biến động xã hội đã làm anh không thể lớn lên được về mặt tinh thần, nó ức chế những suy nghĩ, những hành động của anh: "Anh giật mạnh, con thỏ văng ra dưới chân, máu me đầm đìa, mũi liềm cắm sâu vào một bên mắt. Một cảm giác ớn lạnh rung chuyển toàn thân, anh quẳng cái liềm trên bờ mương, nháo nhác nhìn quanh tìm người cầu cứu, chẳng khác đứa trẻ khi gặp tai họa.

    Mẹ với một thái độ nghiêm khắc chưa bao giờ thấy, nói:

    – Kim Đồng, thấm thoắt con đã bốn mươi hai tuổi rồi, vậy con cứ lẵng nhẵng như trẻ con.

    .. – Con ơi con nghe đây. Bây giờ, như một người đàn ông thực thụ, con xách con thỏ này xuống sông Mực, lột da mổ bụng nó ra.. Khi lột da mổ thịt có thể con cảm thấy ghê tay cho thế là tàn nhẫn, nhưng một con người trưởng thành như con mà còn bú tí thì có tàn nhẫn không? Con phải biết, sữa là máu của người phụ nữ, việc con làm còn tàn nhẫn gấp trăm lần giết một con thỏ! Nghĩ như vậy con mới dám làm thịt con thỏ, con mới cảm thấy sung sướng!" (Tr. 630)

    Trong đôi mắt của anh, điều quan trọng nhất là những bầu vú, anh gọi chúng với những cái tên trìu mến: Hồ lô, đôi bồ câu, cặp lọ sứ.. Cuộc đời Kim Đồng gắn liền với những cặp vú, anh bú mẹ và những người khác từ khi cất tiếng khóc chào đời cho đến năm bốn mươi hai tuổi. Hình ảnh đầu tiên mà anh nghĩ đến khi trông thấy một người phụ nữ chính là cặp vú: "mẹ ôm chặt tôi vào lòng, dưới cặp vú đồ sộ và ấm áp của bà"; "nước ngập chân, ngập bụng, ngập hai bầu vú. Đàn cá nhỏ vui vẻ và cảm động đụng vào đầu vú chị. Hai gò vú làm sáng bừng mặt nước"; "cặp vú đồ sộ nặng trĩu mê hoặc con mắt tôi. Núm vú đỏ hồng phập phồng sau lần áo lót"; "chị ta có ngực rộng, cặp vú đồ sộ như hai nấm mồ"; "đôi vú mệt mỏi nằm bẹp trên xương ngực".. Dẫn ra hình ảnh cặp vú hơi nhiều nhưng cái nhìn của Kim Đồng không hề mang ý nghĩa của sắc dục, đó không phải là sự ham muốn về tình dục. Những cặp vú ở đây chính là hình ảnh tượng trưng cho nguồn sống, là cuộc sống ở thế gian. Đó là nguồn sống, là điều mà Kim Đồng luôn tìm kiếm, là nơi anh bám víu. Kim Đồng ham sống, muốn sống một cách mạnh mẽ và chân thành, vì vậy anh luôn hướng về nguồn sống của mình. Tồn tại là mục đích thực nhất và duy nhất của Thượng Quan Kim Đồng.

    Cái độc đáo ở đây chính là sự "trẻ con" của Kim Đồng và thế giới quan qua cảm nhận của anh đã được Mạc Ngôn dung hòa hợp lí và mang nhiều ý nghĩa. Dưới con mắt của một đứa trẻ những con người quanh nó được vẽ nên một cách nghệch ngoạc, hóm hỉnh nhưng chân thật, đầy đặn và đặc biệt là không có màu sắc của yếu tố chủ quan: "Áo khoác của các chị, vì bất li thân, nên vẫn còn, nhưng lông rụng từng mảng, các chị giống như những con thú bị thương khắp người." (Tr. 151)

    Hình ảnh Kim Đồng bạc nhược cũng chính là cách để tác giả tôn vinh vị trí của người phụ nữ trong thời đại mới, họ nhạy bén và can đảm bước vào đời, luôn phấn đấu vì một cuộc sống tốt đẹp hơn. Họ yêu, họ hành động và sống thực với lòng bằng tất cả nhiệt huyết của mình. Những người phụ nữ cũng góp phần làm nên lịch sử, tạo nên sự biến cuyển trong quá trình phát triển của lịch sử. Vị thế của họ xứng đáng được nâng nên ngang tầm với những đấng nam nhi.

    Kim Đồng – người kể chuyện – ít hơn các nhân vật. Kim Đồng bé hơn (về cả thể chất lẫn tinh thần) nên không phải cái gì anh cũng biết, do vậy trong lời kể của anh đôi khi có sự mập mờ, không rõ ràng, đôi khi khó hiểu, nó gợi trì tò mò của độc giả và tạo nên sức hút cho tác phẩm.

    Và các chi tiết khác về cuộc đời anh đều khá thú vị, đặc biệt với không gian anh ở bên mộ mẹ mình và cảm nhận mùi tanh của máu từ loài hoa lạ, đã làm tiêu điểm cho việc thể hiện tư tưởng của tác giả. Kim Đồng không chỉ gợi hứng thú mà còn gợi nhiều suy nghĩ cho bạn đọc về cái xã hội của một đất nước loạn lạc bấy giờ.

    2.2. 2 Những chàng rể - hiện hân của các thế lực xâu xé đất nước TrungHoa

    Cùng với những số phận của các cô con gái nhà Thượng Quan, các chàng rể trong gia đình này cũng xuất thân từ nhiều giai cấp và hoàn hoàn khác nhau.

    2.2. 2.1 Sa Nguyệt Lượng

    Sa Nguyệt Lượng là một thanh niên hăng hái và nhiệt thành trong việc đánh Nhật cứu nước. Sa Nguyệt Lượng đã thể hiện điều đó một cách mạnh mẽ bằng sự dũng cảm trên chiến trường: "Quân đội Thiên Hoàng cái cứt! Giặc thì có! Giặc Nhật! Sa Nguyệt Lượng giận dữ quát tháo, vừa chửi vừa dậm chân bành bạch, tỏ ý căm thù bọn lính Nhật. Anh ta nói với chị tôi: – Em gái ơi, mối thù của em cũng là mối thù của anh, phải trả mối thù này!" (Tr. 99). Với sự hăng hái ấy, Sa Nguyệt Lượng đã trở thành một nỗi khiếp sợ thật sự đối với quân Nhật. Tuy nhiên, chính sự dũng cảm và mạnh mẽ ấy đã khiến Sa Nguyệt Lượng trở thành đối tượng cho sự ghen ghét, đố kị của những người cùng chung lí tưởng và điều đó đã đẩy Sa Nguyệt Lượng ra khỏi trận tuyến của những người yêu nước, biến anh thành một tên Hán gian khét tiếng: "Con rể bác bây giờ là Tư lệnh cảnh vệ thành phố Bột Hải, hơn ba trăm người dưới quyền, có cả một chiếc xe jeep Mĩ" (Tr. 191). Từ một người trở thành một tên Hán gian bị mọi người nguyền rủa, Sa Nguyệt Lượng mang trong mình sự căm thù chế độ sâu sắc. Từ căm giận dẫn đến tội ác, Sa Nguyệt Lượng biến thành đối tượng cần phải tiêu diệt của những thế lực đối lập, và họ đã dùng những thủ đoạn dơ bẩn nhất để làm được điều đó. Sa Nguyệt Lượng nói: "Ta đây thích đánh Nhật thì đánh, thích hàng Nhật thì hàng, thằng nào dám làm gì ta, còn lảm nhảm thì chớ trách." (Tr. 191)

    Xét về mặt chính trị, việc ra sức tiêu diệt một kẻ gian ác là một việc đúng đắn, tuy nhiên trong trường hợp của Sa Nguyệt Lượng thì việc đó có một chút gì đó vô nhân đạo.

    Khi đứng trước sự lựa chọn, một bên là tính mạng của đứa con gái bé bỏng phải xa cha mẹ từ lúc lọt lòng và một bên là cơ hội mở rộng quyền lực, bành trướng thế lực thì Sa Nguyệt Lượng đã chọn ngay tình phụ tử. Xông vào hang ổ kẻ thù, bất chấp cả sự nguy hiểm đến tính mạng, điều đó cũng không có ý nghĩa gì khi trái tim người cha đã lên tiếng. Hành động cứu con của Sa Nguyệt Lượng đã làm cho quyền lực của anh sụp đổ hoàn toàn và cuối cùng dẫn đến cái chết lặng lẽ trong nhà giam: "Sa Nguyệt Lượng treo cổ trên xà nhà. Anh ta mặc bộ quân phục bằng dạ xanh, chân đi ủng thúc ngựa bằng da bò bóng loáng. Trong trí nhớ của tôi, anh ta không cao lắm, nhưng giờ đây trông anh ta dài thượt" (Tr. 221). Sự biến chất và cái chết của Sa Nguyệt Lượng là hệ quả của những cuộc tranh giành quyền lực ở vùng Cao Mật.

    2.2. 2.2 Tư Mã Khố

    Tư Mã Khố là cậu hai nhà Phúc Sinh Đường của dòng họ Tư Mã – một gia đình giàu có bậc nhất ở Cao Mật. Từ khi còn rất trẻ, Tư Mã Khố đã là một người ngông nghênh bất trị. Nhưng bên trong con người tính tình ngang bướng ấy lại là một lòng yêu nước mạnh mẽ. Như lúc dùng rượu đốt cầu bắt ngang sông Thuồng Luồng ngang bước quân Nhật vào làng: "Tư Mã Khố vội xuống xe, ném bó đuốc vào đống củi đã tẩm đẫm rượu, ngọn lửa xanh bùng lên và lan ra rất nhanh.. Cây cầu cháy đùng đùng, toàn lửa xanh, cao nhất là ngọn lửa ở giữa, không có khói. Mặt sông cũng biến thành màu xanh. Luồng hơi nóng bỏng ập tới nghẹt thở, mũi khô rát, ào ào như gió" (Tr. 47).

    Khi là người giữ quyền lực cao nhất ở Cao Mật, hai vợ chồng Tư Mã Khố và Chiêu Đệ luôn sống chan hòa và gần gũi với nhân dân. Hình ảnh Tư Mã Khố đọng lại trong lòng người dân Cao Mật là một con người với sự chân thành đáng quí: "Tư Mã Khố có vẻ xót xa những vẫn mỉm cười, kéo bàn tay của Phượng Tiên đặt vào ngực mình nơi có trái tim đang đập, nói: – Chính là cái này, sự chân thành của tôi.. dù chia bao nhiêu phần thì mỗi phần đều chân thành" (Tr. 474).

    Khi là một người cha, người chồng, Tư Mã Khố lại là một người giàu tình cảm, là trụ cột vững chắc của gia đình: "Lúc này, Tư Mã Khố bế xác chị Chiêu Đệ, cười như điên loạn, từ trong nhà xay đi ra. Anh ta quì trước mặt mẹ, hai tay nâng cái xác của chị Hai đã cạn máu..

    .. Anh ta móc khẩu súng mạ bạc ra, lên cò, quay lại nhìn mẹ nói: – Thưa nhạc mẫu, tôi đã trả thù hộ bà! – Rồi đưa súng lên thái dương.

    Tư Mã Lương gào to: – Bố ơi!

    Tư Mã Khố ngoảnh nhìn con trai một thoáng, tay cầm súng từ từ buông xuôi. Anh ta mỉm cười tự giễu mình, quăng khẩu súng cho Lỗ Lập Nhân, nói: – Cầm lấy!" (Tr. 307, 308).

    Khi chỉ còn đối diện với mình, anh ta trở nên lãng mạn và đầy nghĩa khí: "Anh men theo bờ đầm, hái một bó hoa dại cả trắng lẫn đỏ đưa lên mũi ngửi một cách thèm khát. Cặp mắt đen như mờ đi vì sung sướng, ánh mắt dịu dàng như ánh ngọc.. Thôn trấn đã ở trước mặt, khói bếp lan tỏa, hơi người nồng đậm. Anh ngắt một bông cúc vàng đưa lên mũi ngửi, gạt bỏ những tạp niệm riêng tư, chấn những ý đồ ngang trái, nhằm hướng cổng xép phía nam nhà mình đàng hoàng tới.

    Anh ta vừa ngửi bông hoa vàng vừa bước vào cổng xép, miệng hát một đoạn trong bài ca chống Nhật, phong thái ung dung..

    Tư Mã Khố nói: – Thả hết những người nhà Thượng Quan ra! Tội ai nấy chịu!" (Tr. 474, 476, 477, 478)

    Khi đối diện với cái chết anh vẫn giữ được những khí tiết của bậc hảo hán: "Hai binh sĩ to lớn nắm vai Tư Mã Khố, cố sức xoay người anh lại, quay mặt về phía đầm.. Anh quay phắt lại và bằng cái giọng khiến viên Trưởng phòng Tư pháp Cục Công an và những tên đao phủ giết người không chớp mắt sợ tái mặt: – Tôi không thể để các ông bắn từ phía sau..

    .. Tư Mã Khố la to: – Ôi, đàn bà mới là những người tốt nhất trên đời.

    Đám đông đứng lặng như trời trồng. Lời hô của Tư Mã Khố tuy không hùng tráng nhưng nó lại xoáy sâu vào tâm khảm mọi người." (Tr. 482, 486)

    Tất cả cuộc đời của Tư Mã Khố gắn liền với những biến động to lớn của vùng Cao Mật. Anh là một phần quan trọng của những trang sử đó. Con người của Tư Mã Khố là sự tổng hòa của mọi khí chất: Ngông nghênh, yêu nước, đa tình, lãng mạn, cương trực, dũng mảnh và anh hùng. Anh là hình ảnh của những người có tài bị lạc đường chính trị. Qua anh, Mạc Ngôn muốn cảnh báo rằng: Sự cứng nhắc trong thi hành chính trị sẽ là nguyên nhân tạo ra những kẻ thù mới và nguy hiểm của nhân dân và lực lượng cách mạng. Bức tranh chân dung của Tư Mã Khố được vẽ nên một cách trọn vẹn và đầy đủ qua lời nhận xét của Lỗ thị: "Mẹ bảo: – Thu xếp mau lên, đi tiễn anh ta một tí! Anh ta là đồ đốn mạt, nhưng cũng là trang hảo hán! Những người như vậy, trước đây cứ khoảng mươi năm lại có một người. Từ nay về sau chắc là tuyệt chủng!" (Tr. 480)

    2.2. 2.3. Lỗ Lập Nhân

    Lỗ Lập Nhân không phải là người Cao Mật, nhưng đối với anh Cao Mật thật sự là một vùng quê gắn bó máu thịt. Lập nghiệp cùng Cao Mật, chết trên Cao Mật, người Cao Mật đã xem anh như một là phần của mảnh đất này. Đứng trong hàng ngũ cách mạng, Lỗ Lập Nhân ít nhiều cũng có những lí tưởng tốt đẹp, có thể anh ta có những mục đích tốt đẹp nhưng hành động của anh lại không phù hợp với những mục đích đó dẫn đến những sai lầm trầm trọng.

    Khác với Tư Mã Khố, cuộc đời của Lỗ Lập Nhân gắn liền với danh lợi, dối trá và thủ đoạn. Hai vợ chồng Lỗ Lập Nhân và Phán Đệ đã bỏ trọn cuộc đời của mình để săn lùng danh vọng. Vì chức quyền họ có thể làm tất cả, họ bán rẻ lòng tin của nhân dân, họ thẳng tay tử hình người thân và sẵn sàng chối bỏ nguồn gốc nếu nó làm phương hại đến con đường tiến thân của họ. Thứ chính trị mà Lỗ Lập Nhân theo đuổi là thứ chính trị sáo rỗng, vô giá trị, là kẻ thù của mọi giai cấp tiến bộ.

    Trong chiến tranh, mặc dù Lỗ Lập Nhân có chút thủ đoạn nhưng ta vẫn thấy ở anh có sự kiên cường trong chiến đấu. Thế mà khi trở về với đời sống công chức thời bình, Lỗ Lập Nhân trở thành một tên nịnh bợ, luồn cúi đến thảm hại: "Lỗ Lập Nhân nhìn nhân vật bự bằng con mắt cầu cứu. Nhân vật bự lạnh lùng nhìn anh ta, cái nhìn sắc như dao. Lỗ Lập Nhân mồ hôi chảy đầy mặt, mất hẳn cái vẻ ung dung thanh thót, khi thì cúi nhìn các đầu ngón chân, chóc lại ngẩn nhìn những người dưới sân phơi, anh ta không đủ dũng khí nhìn thẳng vào mắt nhân vật bự" . (Tr. 344).

    Cả cuộc đời của Lỗ Lập Nhân chạy theo danh vọng, thích nổi bật, luồn cúi trước quyền lực để đến cuối cùng phải chết một cách âm thầm trong thất bại. Nếu so sánh cái chết của Tư Mã Khố như cái chết của một hảo hán thì cái chết của Lỗ Lập Nhân lại bình thường như rất nhiều nạn nhân của nạn đói năm ấy.

    Lỗ Lập Nhân là người đại diện cho lực lượng Đảng viên Cộng sản đảng trong những năm đầu với những sai lầm, thiếu sót. Những con người ấy tin theo một thứ chính trị thực dụng, rập khuôn. Rơi vào cái bẫy chết người mang tên danh vọng, những người như Lỗ Lập Nhân quay cuồng với những sự tranh giành bon chen và dần dần đã đánh mất đi bản chất lương thiện của chính mình.

    Là hình ảnh đại diện cho hai thế lực chính trị lớn mạnh nhất lúc bấy giời – Tư Mã Khố và Lỗ Lập Nhân đã được Mạc Ngôn miêu tả một cách sống động, chân thật và đầy đặn. Đứng trên phương diện chính trị, Lỗ Lập Nhân và Tư Mã Khố thuộc hai chiến tuyến khác nhau, nhưng xét ở một phương diện nào đó, cả hai người họ đều có một mục đích đó là được sống và sống sao cho thật tốt xứng đáng với hai chữ CON NGƯỜI. Ở họ đều toát lên niềm thiết tha với cuộc sống, một sức sống mãnh liệt của một dân tộc vĩ đại. Nhưng ở đây không chỉ là cuộc sống đơn thuần mà con người còn nhận thức được phải sống sao cho tử tế. Đó là một vấn đề lớn đối với mọi con người mà đặc biệt là những người đang đứng trước sự biến chuyển của thời đại, chính điều đó giúp con người sống tốt hơn và giúp cho cái thiện vẫn mãi trường tồn.

    Tài liệu tham khảo

    1. Nguyễn Trung Nam, Luận văn tốt nghiệp: Tìm hiểu tiểu thuyết "Báu vật của đời" của Mạc Ngôn.

    2. Bách khoa toàn thư mở: Link

    3. Mạc Ngôn, Báu vật của đời (Trần Đình Hiến dịch), NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 2001.
     
    Ngudonghc, taodi, Tuệ Di1 người nữa thích bài này.
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...