Tác phẩm: Thằng huyện, con hầu Tác giả: Văn Võ Thể loại: Sến, sủng, cổ đại, HE Văn án: "Thằng huyện, con hầu, quả xứng đôi! Đứa hầu nằm ngửa, đứa hầu ngồi. Xênh xang áo mũ cho là quý Đào điếm trong phường, cũng thế thôi." Người ta nói chúng vừa vặn cái danh, "cẩu nam nữ." Đây là một chuyện tình làng bình dị đến độ không còn gì bình dị hơn về một thằng quan tham và một con hầu gái..
I. Thằng huyện Bấm để xem Con ơi nhớ lấy cho rằng Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan. Cái cụ đã dạy thì cấm có sai. Nhìn xem, bọn chánh lý lại đang họp hành về cái nghiệp ăn cướp của chúng nó trên đình ấy. Lại có thêm ông huyện họ Đinh Văn góp vui, dễ chừng năm nay cả cái làng Ẻn này đói to. Ở nhà anh đồ Khê, lúc này cũng đang diễn ra một cuộc chè chén, nhưng là của người có học chữ, cho nên cứ gọi là cuộc luận đàm nho gia cho nó đúng lễ. Anh đồ Khê năm nay cũng gần tam tuần rồi, vẫn chưa qua cuộc thi hương thi hội nào, lẽ thường cũng không có tư cách đi gõ đầu trẻ. Nhưng giữa cái lúc nước mất nhà tan, thế thời thối nát thế này, còn lều chõng đi thi thì thành ra quân hèn hạ bán nước à? Cứ khư khư ngậm lấy con chữ sống cảnh thanh nhàn như anh thế mà cao quý bội phần, còn được làng phá lệ cho lên hàng đồ, hàng ông nữa đây. Huống hồ, cụ thầy nhà anh lại là bậc khí tiết được muôn người nể trọng, hơn mười năm trước khi rợ Minh cho quân chiêu tài vào làng bắt văn sĩ, cụ đã là người đầu tiên vái thiên vái địa rồi đâm đầu vào cột tự vẫn, tránh đi cái nhục bị bắt sang xứ người hầu quân xâm lược. Thuở ấy, người hay chữ trong làng toàn làm thế, bởi họ trọng cái tiếng trung trinh hơn bất cứ thứ gì, còn hơn cả vợ con và tính mạng. Mà cũng nhờ cái mạng cao cả của cụ, phúc đức để lại anh Khê giờ cũng được hưởng tám, chín phần. Phóng mắt trông cả huyện Thanh Ba này xem, có họ nào được vọng trọng bằng cái họ Nguyễn Vi nhà anh không? Phải là lúc trước, họa may còn có bọn Đinh Văn, nhưng kể từ khi họ đó có thêm một ông huyện nhà Minh, ai nấy dẫu không nói ra, song đều xem cả họ Đinh Văn như phường lụn bại. Thời thế lắm nỗi trái ngang, các anh học trò dùi mài đến mòn vẹt đá vàng thì cũng không có đất dụng võ, bèn học theo khí tiết thanh cao của ông Bảo Nghĩa Vương đời Trần, thà làm trò xứ Nam chứ không thèm làm quan phương Bắc, suốt ngày nếu không vịnh thơ viết chữ buồn cho vận nước gian truân, thì cũng trải chiếu hoa ngồi kéo nhị giữa sân, vừa khóc vừa tỏ bày niềm tiếc thương mất nước. Còn có các buổi hội họp luận bàn thế sự như này nữa, nơi mà bọn họ dùng cái khí tiết cuồn cuộn của con nhà gia giáo, cái ngạo nghễ thanh cao của bậc hiền sĩ ái quốc trộn lẫn vào miếng xôi, hớp rượu để mắng cha, mắng bà cái lũ ra làm quan cho giặc. Tổ cha chúng nó! Ăn cơm đất Nam mà lại đi hốt phân cho rợ Bắc, hỏi có đớn, có nhục, có hèn không cơ chứ? Được cái mũ cánh chuồn, cái đai giát ngọc, đôi giày ống cao thì oai lắm sao? Bọn ông cứ khăn đầu rìu, đai vải thô, chân đi đất mà vẫn được khối kẻ khoanh tay khom người gọi bằng "ông", bằng "ngài." Còn cái ngữ bán nước chúng bây ấy à, dù có lên được bao phẩm mấy vị, cũng chỉ đáng kêu tiếng "thằng" mà thôi! Mỗi lần các ông học trò mắng đến đây, cái tên Đinh Văn Trung đều được lôi ra để các ông xâu xé. Ai lại phải gió lại đặt cho nó tên Trung ấy nhỉ? Nghe nó mới nhạo, mới giễu làm sao! Trung gì cái ngữ như nó, tài năng kiêm bị thế nào, văn hay chữ tốt ra sao, lại ra đầu quan cho giặc! Ấy mà cũng giữ đến chức tri huyện rồi đấy, nghe bảo còn được một thằng tên Trung nữa làm quan to ở ty Bố chính hết lòng nâng đỡ, suýt đã gả con gái cho. Thế mới hay giời không có mắt, những thằng bất trung khốn nạn thì lại vinh hiển đầy nhà! Còn một bụng dạ trung nghĩa thiết tha như họ, lại phải chết mòn trong quần thô áo vải.. "Tính ra thì vị đấy lúc còn đi học cũng là một bậc anh tài các bác ạ," trong cơn ngà say, anh đồ Khê khẽ cười. "Tôi còn nhớ mãi bài văn cuối cùng hắn nộp cho thầy tôi vào năm rợ Minh vào đến làng, ôi là nó chắc phải sắc sảo cao sang lắm hay sao mà thầy tôi trước ngưỡng tử vong vẫn cố đọc cho bằng hết, hết rồi còn vo lại nuốt luôn xuống bụng. Cụ khóc, các bác ạ, đời tôi chưa bao giờ thấy thầy mình khóc thảm đến thế, vừa khóc vừa siết tay hắn mà lẩm bẩm tự trách rằng, thân làm thầy mà chẳng được dũng cảm như trò, thôi thì chết cũng là đáng tội. Nói xong, cụ buông tay hắn ra, chẳng thèm ngó ngàng gì đến tôi và u, đâm sầm vào cột lăn ra tắt thở. Bảo sao không tài các bác nhỉ?" Thấy anh đồ đắng cay nói giễu, một ông trò ngồi cạnh vỗ vỗ vai anh. "Thôi nào bác Khê, bác vẫn còn căm cụ đồ cái chuyện ấy sao? Người già mà, trước khi chết thường hay quẫn trí, nói không chừng cụ nhầm bác với thằng Trung cũng nên! Có lẽ đâu sắp chết rồi mà vợ con đứng đấy không trối, lại đi trối với thằng học trò không ruột rà máu mủ?" "Đúng đấy bác Khê ạ, đành là thằng ấy cũng một tên hay chữ, đến thầy tôi bên Ma Khê còn nghe ra tài học của nó; song lúc ấy nó cũng chỉ mới đôi mươi, đường đời bao dày mấy sâu đâu mà có thể viết ra được thứ gì hay ho khiến cụ đồ xúc động như vậy? Chắc chắn là cụ ấy nhầm nó với bác thôi.." Anh Khê lắc đầu như có vẻ không mấy thuyết phục, đoạn khịt cười vung lên bát rượu. "Mà này, các bác là dân có chữ, phải gọi người ta bằng 'ông' nhé. Quan huyện mà lị! Ai lại cứ 'thằng' với 'tên' mãi thế, làng xóm họ cười cho!" Một ông ngồi đối diện nện bát xuống mâm thành tiếng rõ to, dẫu môi gắt gỏng. "Ông gì cái phường bội phản như nó! Ông đây khinh! Giá mà nó phản cũng phản cho ra dáng học trò nước Nam, còn biết giơ cao đánh khẽ đối với dân nhà, ông đây cũng không cạn nghĩa đến độ rủa mắng như con chó. Đằng này nó nhuốc bác ạ! Nhuốc ghê cơ chứ! Còn hùa với cả cái đám cướp ngày trên cao mà vơ vét của dân. Bọn chức sắc tham gì, ba năm nay nó lại chả tham đấy? Rồi giờ lại còn giở cái thói ngông nghênh của lũ rợ Minh, cứ trông thấy trò Nam chúng mình là hất đầu bày dáng cha thiên hạ. Cái giống chó săn cho giặc như nó, chỉ đáng gọi là 'thằng' thôi!" Ấy thế là câu chuyện cứ xoay quanh "thằng huyện" mãi hoài không dứt. Người mắng thằng huyện là chó, kẻ rủa thằng huyện là trâu, đứa thì lầu bầu chửi luôn ông tằng ông cố nhà thằng huyện. Tính ra, học trò mà khi say rồi, miệng mồm cũng nghiệt ghê lắm, giả dụ mà thằng huyện kia có chết bất đắc kỳ tử, chắc cũng bị các ông đồ ông trò đây chửi cho sống lại. Giữa lúc hăng say hứng chí, hào khí ngút trời, thằng nhóc con lại chạy ào vào thưa với chủ có bác cai tuần Đại đến thăm. Vừa nghe đến từ "cai" từ miệng đứa trẻ, cái khí thế uy phong của các bậc sĩ tử bỗng đâu như bếp hồng gặp mưa rào, lèo xèo lụi tắt. Cai, thì là người của làng, mà làng, thì là của quan. Thế rồi từ bếp than tàn, khói nó tù mù bốc lên, khói hoảng, khói hãi, khói choáng, khói của hàng trăm chữ "thằng huyện" bị kẹt ngay giữa cuống họng, quạt cách nào cũng không sao ra khỏi miệng. Có ông đánh rơi đôi đũa, có ông mắc nghẹn cổ gà, có ông còn hoảng đến độ ngã từ trên phản xuống, cả một đám sĩ tử nho gia phong lưu nho nhã, trong thoáng chốc đã loạn như đàn gà trong cảnh đám ma. Anh đồ Khê nhìn cảnh này mà dở khóc dở cười, khắc trước còn mắng mỏ đầy khí thế là thế, vừa nghe nhắc đến quan, à không, lính của lính của quan, đã giật mình thon thót. Cái lũ này cũng thật là mạnh mồm yếu vía. Mà anh cũng chẳng hơi đâu nhạo cười chúng nó, nhỡ đâu chúng giận, sau này lại chả sang đây nữa thì đời anh lại hóa buồn, thế nên anh chỉ cười trừ, dang tay trấn an. "Gượm nào các bác, anh cai này là người trong họ tôi, chẳng phải đến thăm dò, bắt bớ gì đâu. Chắc là trên đình có sự chi can hệ, anh ấy mới vội về đây báo. Các bác ngồi cho ngay thẳng lại nào, để tôi cho anh ấy vào bẩm chuyện." Cả bọn hú vía, thở phào vài cái rồi ngồi lại vào mâm ra dáng đạo mạo. Đồ Khê cho thằng hầu đem thằng cai vào, bản thân thì khoanh chân, ưỡn ngực đúng dáng cậu cả. Vừa vào đến nhà, thằng cai đã vội bổ xuống chân anh đồ. "Ối cậu cả Khê ơi, phen này nguy rồi! Cậu có thương thì ra đình giúp cho cô con với!" Anh đồ nhíu mày. "Cô con"? Thằng này là thằng cai tuần, đi theo hầu bọn lý giáp, lấy đâu ra nhà chủ mà đòi "cô con"? "Mày chầm chậm thôi nào, cô nào cơ?" "Cô.. cô Trinh nhà thầy đồ Quế, trước đây đã dạy con vài ba con chữ đấy ạ!" Một hình ảnh mỹ miều quen thuộc hiện lên trong óc, anh đột nhiên cảm thấy choáng váng mặt mày. "Cô Trinh làm sao?" "Dạ bẩm.. trưa nay người làng Quả đưa xác của bà đồ Quế về đây, bảo là bắt được cô Trinh lén lút mướn người chôn cất bà ở bãi tha ma làng họ, họ không muốn mang vạ nên phải đem trả." "Làng Quả.. đến tận bên huyện Lũng Bản cơ à? Xa thế mà họ vẫn gắng đưa về đây?" một ông trò chen lời. Thằng cai ngậm ngùi gật nhẹ. "Họ sợ họa quan, vạ quyền ông ạ. Chuyện cụ đồ thầy con hai năm trước cãi lại triều đình nhảy sông tự vẫn, xác bị lão châu vớt lên đem treo ở cây đa cổng làng cho đến hồi khô đét vẫn còn mới lắm. Họ sợ sau này nhỡ đâu truy ra bà đồ được chôn cất đàng hoàng ở làng họ, cả làng sẽ bị triều đình trừng trị vì tội chứa chấp gia quyến tội đồ." Cả bọn lặng yên ngậm ngùi cho cái phận vợ tội đồ, thằng cai sụt sùi kể tiếp. "Sự bị lão giáp lôi lên đình, trước các quan ông lão làm tình làm tội bà đồ, người lúc bấy giờ chỉ còn là một cái xác, nào đòi lóc thịt lóc da để trơ xương cho thiên hạ ném đá, nào đòi lột truồng treo lên đài dùng roi quất cho thỏa, bệnh hoạn vô cùng các ông ạ! Chắc là lão còn căm lắm việc bà đồ thà chết chứ không chịu gả cô Trinh cho lão mấy tháng trước, chứ ai lại nhè vào một cái xác mà mắng, mà la, mà nhục mạ như thế bao giờ?" Lại một tràng tiếng thở dài vang lên xung quanh. "Cô Trinh con chịu không được cảnh ấy, lại mắc phải chứng câm không gào khóc cho thỏa được, cuối cùng điên quá bèn nhân lúc bọn lính sơ suất lao lên đẩy vại dầu cúng lên xác bà đồ, đoạn thảy luôn cái đuốc kế bên vào luôn đấy." Các ông hít sâu vào sửng sốt. Không ngờ nàng Trinh trông thường ngày hiền lành đoan thuận là thế, tức nước vỡ bờ cũng quyết liệt thật. Thà thiêu luôn xác u chứ không để người ta dày xéo. Cái việc nó bất hiếu làm sao, mà cũng thật hiếu thảo làm sao.. Một ông trò bò ra đập tay bộp bộp lên phản. "Ôi đến là khổ cái thân bà đồ! Chồng là bậc trung lương, vì không muốn theo hầu giặc đã phải phơi xương giữa đường, không nơi chôn cất thì thôi đi.. Bây giờ cả cái thân tàn cũng phải đeo mang tội nợ! Đã trốn sang đến tận huyện khác để tìm chỗ nương nhờ cho tấm thân thối rữa mà giời cũng chẳng tha cho! Ôi là cái quân chó săn khốn nạn! Đến cả đồng bào mà cũng ăn thịt uống máu! Tội cho cô Trinh quá, phận gái cút côi, bệnh tật, mà còn phải gắng kiên cường trước bọn mặt ngựa đầu trâu.. Giời cao mù rồi! Giời cao mù rồi!" Ấy rồi cuộc rượu lại chuyển sang cuộc than, cuộc oán, các ông sĩ tử đua nhau than giời oán đất giúp gia đình đồ Quế. Mắng các đấng linh thiêng chán chê, họ lại quay sang rủa thằng châu, thằng huyện, thằng giáp, thằng lý.. đến cái con chó nhà chúng nuôi, sợ là các ông đều lôi ra mắng tất. Ôi là cái sự mắng chung, mắng nhóm, mắng đoàn, nó khí khái làm sao, anh hùng làm sao.. khiến cho các ông trong thoáng chốc còn tưởng mình hóa ra ông tướng đang chém giết trên trận mạc, nào có nhớ cho rằng.. các ông thường ngày đến con gà, con ngỗng, còn phải nhờ vợ đem ra sau sân cắt tiết. "Mà giời đôi khi cũng mở được một con mắt các bác ạ, nghe bảo đợt thăm làng nhà hôm qua, thằng huyện Thanh Ba bị chính đám trẻ nít trong họ của mình ném phân trâu vào mặt. Xong chuyện chúng nó mạnh ai nấy chạy, thằng kia vì bị bà thái Đinh Văn dọa gạch tên khỏi tộc phả nên phải nén hờn tha cho lũ nít. Làm quan như thế, hỏi có nhục không?" "Cái đám Đinh Văn ấy tôi còn lạ gì, vừa ngông vừa bạo, được cái ai nấy khí tiết đầy mình. Nghe bảo năm kia trai đinh họ đấy còn hợp nhau giữa đêm leo vào phủ huyện giết ngang con chó, xong rồi treo lên cây ghim cùng hai chữ 'Văn, Trung.'Đến là ngông các bác ạ. Nhưng là ngông hùng, ngông dũng, các bác có thấy thế không?" "Họ chẳng thế thì thiên hạ chửi cho đến chết! Cả một vọng tộc được gần xa kính ngưỡng, ăn ở thế nào tự dưng lại đẻ ra một thằng phản quốc, nhục lắm đấy! Miếng khăn lành tự nhiên có vết nhơ, nghĩ cũng thương cho họ.." "Tất cả cũng vì cái thằng chó huyện tham lam!" Mặc cho ai nấy đều dời chú ý sang việc mắng chửi thằng huyện. Anh đồ Khê thì cứ nghĩ mãi đến nàng Trinh rồi nhức nhối trong lòng. Nếu không phải năm đó u anh vì sợ bị quan bắt bớ lây, lại ngại bệnh câm bất ngờ của nàng nên từ hôn với bà đồ Quế, nàng và anh giờ đã ấm duyên vợ chồng, u con nhà họ cũng không lâm vào cảnh gia đạo tan tác, thân cô thế cô như hiện giờ.. Nhưng u anh có cái lẽ riêng, là phận con, anh cũng không làm trái đi được, đành mang tiếng phụ rẫy người ta. Rồi cô Trinh nhà đó kể cũng đáng mặt con nhà thư hương lắm, đứng trước hàng tá bị kịch trải ra như chiếu hoa bị mục, nàng vẫn bình tĩnh chăm lo cho người mẹ đổ bệnh, vẫn thẳng lưng ngước nhìn lũ chức sắc khi chúng ra lệnh cho người làng phải xa lánh u con nàng. Thậm chí lúc bị u anh khéo léo từ chối cho vay vài đồng tiền thuốc thang, nàng cũng chỉ thản nhiên gật một cái rồi lặng lẽ đi về. Trưa đó, nghe thằng cai kể lại, nàng dỡ luôn cái bếp và gian ngủ của mình lấy gỗ ra chợ bán, tối về lót chiếu trên đất nằm cạnh giường trông u. Hai chữ "kiên, cường" thật chẳng ngoa, mà sao cũng đau đớn quá.. Trước tâm trạng ủ ê tập thể của các ông trên chiếu, thằng cai biết mình không nên nói tiếp những chuyện xảy ra, sự đến đây mà các ông đã khóc than như thế, còn kể tiếp thì ra sao nữa? Nhưng rồi cậu cả Vi Khê vì sốt ruột cho người xưa nên đã hối, nó cũng không dám nhẹm. "Cứ tưởng bà đồ thế là thoát tội nợ, nhưng lão giáp lão dai lắm mấy ông ạ, lão sai người dập lửa rồi lôi phần thịt loang lổ cháy khét vẫn còn tươm máu ra đòi treo lên. Cô con thét không thành tiếng, lại bị lính kềm, bèn không cách nào ngoài sụp xuống quỳ lạy các quan ông. Kể ra cũng may ông châu không có dự cỗ này, nếu không với cái sự căm của ông dành cho nhà cụ đồ Quế, ông chắc sẽ xử chết cô con." "Rồi cô Trinh bị xử thế nào? Mày cứ lan man mãi thế?" "Dạ bẩm, giữa ngay lúc ấy thì ông huyện đang gối trên đùi ả đào cho vã cơn say đột nhiên tỉnh ngủ, có lẽ do dân làng vây quanh khóc than ồn quá. Ông ta cả giận quát to khiến đám lý giáp sợ xanh cả mặt, vội vã quỳ xuống bẩm hết đầu đuôi. Ông nghe xong không bảo gì, chỉ khoác tay con hát ngã nghiêng một hồi, đoạn sai người lấy khăn ướt lau đi máu trên trán cô Trinh cho ông xem mặt." Đến đây thì trong ruột anh Khê quặn lại. Lẽ nào? "Ông huyện cười to rồi kêu lên sao đẹp thế, xong ngả ngớn với ông lý rằng, nếu đứa con gái đó chịu về hầu ông, ông sẽ bỏ vài quan ra đi chuộc vạ thay nó với ông châu, để nó ít nhất quấn được cái chiếu rách chôn u." Thằng cai nói đến đây, cả đám đều hai năm rõ mười. Làm quan sướng là thế đấy, có chút quan hệ với quan to trên phủ là tha hồ mà ngông, đến nỗi hận của tri châu mà cũng chỉ dùng vài quan quèn là có thể vuốt xuống. Nhưng nàng Trinh xuất thân con nhà gia giáo, khí tiết nào cho phép nàng hạ mình làm đĩ điếm cho người? Nhất là người đây còn là chó săn cho giặc? Một khi nàng đồng ý, chỉ còn nước đeo gánh nhục nhã ngàn thu. Làng Ẻn này trọng nhất trinh tiết đàn bà, dù có thông cảm cho hoàn cảnh nghiệt ngã của nàng thế nào, một khi thân bị nhấn xuống bùn lầy nhơ nhuốc, nàng sẽ trở thành tội nhân thiên cổ. Nhưng rồi, chữ hiếu vẫn còn phơi ra đó, xác thây của bà đồ vẫn réo rắt gọi đòi.. "Cô mày đồng ý rồi phải không?" anh đồ Khê thở dài hỏi. "Vâng ạ," thằng cai gục đầu. Thế là toi nào hoa nào ngọc, nào tiếng nào danh, nào trinh nào tiết. Không hiểu sao, trong lòng anh lúc này, thương thì có thương, hiểu thì có hiểu, nhưng cũng không tránh khỏi chữ "khinh" nghẹn ngào dợm lên. Đảo mắt nhìn quanh, anh biết chúng bạn đều cùng chung ý nghĩ. Chữ "trinh" của đàn bà, chữ "tiết" của đàn ông ở cái làng thượng văn này, nặng như thế đấy. "Thế thì cô mày đã chọn vùi dập má đào, tao còn cứu làm chi nữa?" Hỡi ôi.. Trinh cao Trinh đứng một mình, Về hầu anh Bất, hóa nghìn chữ "khinh."
II. Con hầu Bấm để xem Trời nắng chang chang trên đầu như cái nỗi bẽ bàng rọi soi trong óc, Trinh ngồi thẫn thờ trên bậu cửa nhà sau ông huyện, mắt đăm đăm dùi vào cái chiếu hoa cạp điều phơi chỏng trơ trên sào. Bên dưới chữ song hỷ đan khung viền đỏ, một vệt máu thâm sì trội lên bần bật như xỉa vào cái tâm của nàng. Đấy, là dấu vết chứng minh nàng Trinh làng Ẻn đã không còn trinh nữa. Trinh đã ngâm, đã cọ, đã dùng xơ mướp thấm giấm bổng chà rửa từ mãi hôm qua, thế mà cái vệt máu ấy dường như đang cố tình trêu chọc người đàn bà thất tiết, chẳng chịu phai đi cho nhờ. Quẫn quá, nàng đã toan ném đi cho rãnh, nhưng rồi bà bếp chẳng cho, bảo rằng chiếu hoa hơn mười đồng một tấm có lẽ đâu đem ném hoang như thế? Thôi thì bà sẽ thay cho ông huyện một tấm khác, còn tấm này nàng cứ việc đem về thay chiếu cói mà nằm cho sướng cái thây. Ừ thì sướng cái thây, nhưng lầy cái xác. Đem thân ra hầu người đã nhục, thế mà giờ nàng còn phải nằm lên cái nhục ấy hằng ngày, có cái đớn, cái hèn nào thâm sâu như thế không? Sáng hôm nay theo bà bếp cắp nón ra chợ, đã có đứa con nít gọi nàng là "thị Khinh" rồi đấy. Ừ thì chữ "Trinh" với chữ "Khinh" cùng vần, nhưng ngọng ngiụ làm sao ra thế ấy cho nổi. Trinh biết rất rõ, ấy là chúng học theo thầy u mình mắng gió nàng đây. Nhưng bị chúng khinh, nàng thấy cũng đáng. Mỗi lần nhớ lại cái đêm của ba hôm trước, Trinh lại muốn xé hết áo quần vùi mình xuống nước sông tắm gột, gột chẳng sạch thì nằm luôn dưới ấy chẳng cần ngoi lên. Nhưng rồi nàng nghĩ đến cái thây quấn chiếu đương nằm giữa sân chùa, vì chưa có lệnh của tri châu ban xuống nên vẫn chưa chôn được, lại thôi không hướng ra sông nữa. Nàng vì để u được nhập thổ đàng hoàng, ở cuộc phán xét giữa đình đêm ấy đã thẳng lưng gật đầu, tay không chút do dự lăn lên khế bán thân cho ông huyện. Ấy rồi nàng được lũ hầu nhà quan lý đem đi tắm gội, thơm tho nức mũi xong lại tống lên võng khênh về phủ huyện. Trinh bị lão sư gia đẩy vào phòng ông huyện cùng một chậu nước ấm và vài mảnh vải nhàu lớn nhỏ khác nhau. Vì đã từng hầu thầy lúc say, nàng biết cái nào đem lau chân, lau mặt, song lại chẳng buồn chú ý, cứ vơ cả đống ướt nhẹp đắp bừa lên người ông huyện, bản thân co lại nơi góc buồng ngồi bó gối nhìn chăm chăm kẻ say trên giường. Trong đầu, chỉ le lói đúng một ý nghĩ - cho mày trúng gió chết. Chừng đến giữa đêm, nàng thấy ông huyện lảo đảo bò dậy, xiêu xiêu vẹo vẹo đứng hẳn trên giường. Vì ông chẳng chú ý đến nàng nên nàng cũng không động đậy, im lặng ngồi nhìn ông ta leo lên cái tráp, rướn người lôi một vật dài trên xà ngang xuống. "Thầy ơi, con thật có tội với dân mình.. Nhưng con mệt quá rồi, không thể tiếp tục nữa.." Ấy rồi có tiếng tráp gỗ rơi xuống nền nhà, Trinh kinh hoàng nhìn cảnh người đàn ông đang tự thắt cổ trước mặt mình mà toàn thân run rẩy. Nó muốn chết sao? Sao lại muốn chết? Chắc vì say quá rồi! Mình có nên kêu người đến cứu? Lý trí trong vài hơi thở quay về với người thiếu nữ, nàng từ từ trượt tường ngồi xuống lại. Vì sao nàng phải gọi người? Cứ để nó chết! Ừ, cứ để thằng huyện nó chết. Nhưng ông trời bất nhân, để cho dây thừng tuột ra, toàn thân kẻ kia thế là rơi phịch xuống giường. Và rồi, kẻ đó khóc. Tiếng khóc.. nó nghẹn, nó trầm, nó đứt quãng như đàn bà uất chồng đi ve gái. Thế mà, nó lại phát ra từ một gã đàn ông. Trinh giật mình thảng thốt, nhưng nàng ngỡ ngàng không phải do nút dây thừng bị tuột giữa chừng, mà vì tiếng khóc của gã. Sao mà nghe quen thế? Tò mò, nàng nhón chân đến gần giường để nghe rõ hơn, một hồi lâu sau liền cảm thấy đầu óc quay cuồng. Chính là cái âm thanh đó! Cái âm thanh đã theo nàng vào giấc ngủ nhiều đêm, xoa bớt nỗi đắng cay muộn phiền của kiếp thân con tội. Thầy nàng chết phơi xương ra đó, kẻ tiếc thương thì đầy, song chẳng có ai đủ gan để gỡ xuống đem chôn. Họ đập bàn than giời khi lê la ở các hàng quà, hàng nước; họ đấm ngực oán thán trước những mâm cỗ đầy xôi thịt ngày hội làng, ấy nhưng cũng chỉ được thế thôi. Lệnh vua thua lệ làng, song trong cảnh nước mất nhà tan, lệ làng cũng còn phải kém lệnh vua một bậc. Xưa có làm quá thì còn thầy ruột nương cho mà đánh khẽ, nay vào tay thằng hàng xóm bị nó bắt gọi bằng cha cho vui cửa vui nhà, chứ thử mà vênh lên với nó xem, nó không thụi cho rồi đời cũng uổng. Thành ra, kính thì có kính, thương thì có thương, người ta cũng chỉ dám kính thương vụng trộm, chứ mấy ai mà chịu liều mạng chống vua vì mình? Rồi đến một buổi chiều, ông huyện ghé thăm làng ngang qua cây đa ấy, mùi ôi thối xộc vào khiến ông nôn hẳn một hơi đến tím xanh mặt mày. Chỉnh tề áo mũ xong xuôi, ông chống nạnh rủa mắng vong linh kẻ chết là phường khốn nạn, cứ treo đấy ám chết cái thân ông, giận quá bèn lệnh cho lính tháo xuống ném phứt ra sông cho khuất mắt. Nghe nói ông châu sau khi biết chuyện, cười một trận rồi cho qua. Cũng chỉ là cơn sôi máu của một thằng quan non háu đá, nào có phải phản loạn chi đâu mà chấp nhất cho nhọc. Thế là, cụ đồ Nghị Quế đã được tự do như vậy đấy. Đêm về, Trinh canh lúc ai nấy tắt nến bèn lẻn ra vớt cốt thầy đem chôn cất, đến bờ sông vén váy toan lặn xuống thì nghe ra tiếng lội nước đâu đây. Trời quá tối nên nàng không thấy được mặt mũi người này, song ánh trăng đêm khiến nàng có thể chắc mẩm trong tay gã chính là một cái sọ. Nghĩ một lúc, nàng biết đấy chính là cốt xương của thầy mình, song lại không dám nhào ra nhận thức. Nhỡ đâu kẻ vớt cốt kia là người của lão châu phái ra dụ bắt loạn đảng, nàng lại chẳng rơi vào tù tội? Lúc ấy thì u nàng còn sống sao được nữa? Thế là nàng lội theo gã cả quãng đường dài đến một khúc rừng hoang, rình xem gã vùi bọc xương xuống cái hố đã được đào sẵn, lấp đất lại rồi nhang khói hẳn hoi; sự đề phòng trong nàng mới một phần giảm xuống. Chừng đến lúc gã rấm rứt khóc nghẹn, đề phòng kia liền biến mất hoàn toàn, thay vào đấy là sự bùng nổ của loại cảm xúc không tên. Thì ra trên đời này, còn có một người đau cho thầy nàng như vậy. Dĩ nhiên, người làng khóc cho cụ không thiếu gì, họ thậm chí còn ngã ra đất gào la thấu giời. Song chẳng hiểu sao, Trinh lại có loại cảm giác hoang đường là - khóc cần chi ầm ĩ, cứ nghẹn ngào kiềm nén như gã đàn ông kia, thế mới lại là đau thật sự. Nén hương ký ức vừa cháy rụi, Trinh vội vội vàng vàng lao đến gần giường cởi cái lọng ra khỏi cổ quan. Nếu đây thật là người ơn của thầy nàng, nàng suýt nữa đã trân mắt nhìn hắn chết. Cũng may nút dây bị tuột, mà nghĩ kỹ lại, chắc là thầy nàng linh thiêng làm cho nó tuột. Sờ vào cổ ông thấy nóng ran, nàng phát hoảng, lẹ làng đưa tay xuống cởi bỏ mảnh áo ướt nhèm, sau dùng chăn bao lại, bản thân ôm chậu ra toan thay nước ấm vào lau người cho kẻ bệnh. Phát hiện cửa đã khóa trái mất rồi, nàng bèn rệu rã ngồi lại lên mép giường thở dài nhè nhẹ. Tội nghiệp con bé mới chỉ tròn đôi chín, nào có từng trải qua chuyện trăng hoa, không biết đối với mấy thằng say ngắc ngứ, hơi đàn bà chính là mồi đốt lửa dục. Trinh bị ông huyện mơ mơ tỉnh tỉnh túm lấy tay lôi tuột lên giường, thân gái nhà bút nghiên lấy đâu ra hơi sức mà chống cự, giẫy đạp một lúc rồi cũng bị cướp đi đời con gái. Bẽ bàng hơn nữa là sáng hôm sau khi ông ta tỉnh lại, nghe thấy nàng nghèn nghẹn khóc than, sau một lúc vò tóc nắn đầu, ông ta đột nhiên trở chứng điên lồng lên mắng nhiếc. "Khóc, khóc, khóc cái mả cha nhà mày! Làm như có mỗi nhà mày có trinh để mất ấy! Nín mồm ngay cho tao!" Ấy rồi ông đuổi luôn Trinh xuống bếp, từ ngày đó cũng không cho lên nhà trên nữa. Bây giờ ngồi đây nhớ lại thời khắc ấy, Trinh cũng không biết nên khóc hay cười. Thói đời mới thật lạ thay, kẻ cưỡng bức đời nay còn có thể mắng ngược nạn nhân hắn dâm dục. Đang lúc nghĩ ngợi vớ vẩn, bà bếp bỗng từ đâu lao ra giục nàng lên sảnh hầu quan. Trinh tuy ngạc nhiên nhưng cũng ngoan ngoãn theo bà vào buồng thay vào xống áo mới. Đeo vội cho nàng đôi thoa ngọc trai và cái kiềng bạc, bà hấp tấp kéo nàng ra khỏi buồng. Vừa vào đến gian chính, Trinh đã thấy ngay ông huyện quần áo thẳng thớm ngồi khoanh chân rung đùi trên sập, phía đối diện là lão châu Thao Giang đã ép chết thầy nàng. Nỗi căm hờn dâng lên đầy bụng, nhưng nàng không phát ra, nàng chưa dại như thế. Sụp người làm lễ quỳ bái các quan ông, nàng dịu dàng đến ngồi cạnh ông huyện hầu rượu, cẩn thận rót dâng lão châu trước, đoạn mới mời đến quan nhà. Mắt chạm mắt, nàng dường như đã trông ra sự ngạc nhiên trong cái nhìn của ông huyện. Ông hẳn đang rất tò mò vì đâu nàng lại có thể mỉm cười nhu thuận ngồi hầu kẻ thù giết cha. Nhưng rồi ông cũng dời mắt, quay sang khoác vai nàng, bắt đầu ngả ngớn vài câu đùa giỡn với lão châu. Ông khen nàng Trinh nhà cụ Nghị Quế quả không ngoa mỹ nhân Tam Giang, da nõn, eo thon, nuột nà như cái bánh trôi ngày tết, cắn một miếng là chỉ muốn ngậm luôn vào miệng, lời lẽ khiếm nhã không để đâu cho hết. Trinh đỏ mặt vì ngượng thì ít, vì uất nhục thì nhiều, song chỉ biết bậm môi cười mỉm, mặc cho hai ông quan đua nhau rộ lên khoái chí. Rồi hai ông ấy cũng để nàng yên mà tiếp cuộc chè rượu, chừng ngà ngà say mới lái câu chuyện sang thuế má ruộng điền. Ông huyện có ý xui nàng tránh đi, lão tri châu lại nằm lăn ra sập, ễnh bụng xua tay bảo chẳng cần, sợ cóc gì cái con câm mà bảo nó né? Nó chạy ra đình gióng trống kể tội được chắc? Mà thời này muốn kể thì cũng biết kể với ai? Vua ở quá xa, quan to nhất ở Giao Chỉ cũng là người nhà Minh, dễ mà rỗi sự đi xét việc cho một đứa mọi Nam chắc? Ông huyện cung kính cúi đầu thưa phải, đoạn cười hề hề khom người ghé vào tai lão châu. "Năm nay được mùa, thuế ruộng có thể nhân lên ba lần đấy ông ạ." "Dễ chừng các quan chờ anh phán chắc?" lão châu cười sặc, tay nhấc cao đưa lên ba ngón. "Các quan ở trên liệu trước hết rồi, thuế ruộng năm nay đã sẵn nhân ba. Chẳng cần phải lén lút cái chi hết." "Ơ thế là sao ạ, bẩm ông?" Lão châu nhổm người ngồi dậy, bắt chân chữ ngũ ra chiều đang bàn chuyện trọng đại, vẩy vẩy cái quạt trong tay lên giọng dạy rằng. "Này nhé, không biết cái ông nào nghĩ ra chiêu này, ôi thôi phải nói là diệu kế trong diệu kế. Thiên triều với chính sách an dân đã lệnh xuống định số thuế ruộng hệt thời nhà Hồ, nghĩa là năm thăng trên một mẫu*. Nhưng các ông to bên ta đã lý luận rằng mẫu nước Nam không giống mẫu nước họ, đã cho sửa lại, thế thành ra một mẫu nước ta bằng với ba mẫu bên ấy, thuế vì thế cũng phải nộp gấp ba lần." (*Đơn vị đo lường cổ Trung Hoa: 1 mẫu = 614, 4 m², 1 thăng = 1 lít ngũ cốc, chả hiểu tại sao ngũ cốc đo bằng lít, mà thui kệ: P) Trinh có thể cảm nhận được bàn tay trên eo mình khẽ siết, dẫu chỉ là thoáng qua. Song khi trông đến mặt ông huyện, nàng chỉ có thể trông ra sự hồ hởi. "Ôi các ông ấy đúng là bậc tài hoa ông nhỉ? Một mẫu nộp thành ba, rồi còn phần của chúng ta, vị chi chúng nó phải nộp thành chín. Sướng quá còn gì ông ạ!" Lão tri châu cau mày, quạt phát một cái lên đầu ông huyện. "Đồ ngu! Ai đâu lại đi tham sỗ sàng ra như thế! Tôi nói anh huyện nhá, anh càng lúc càng lộ liễu rồi đấy, đến cả cái thằng bắt ốc của Thanh Ba này cũng biết anh là đại tham quan. Anh lo mà liệu cái thần hồn, chấm mút kiểu nào mà để cái lũ dân làm phản là không những anh chết, tôi chết, mà đến cả đức ngài Tham chính cũng chết với các quan thiên triều luôn đấy." "Chết nỗi," ông huyện cười mát. "Ông đừng nghe chúng nó mà nghi oan cho con." "Oan gì nhà anh?" lão châu trề môi. "Nghe bảo đến thằng lý anh còn vơ vét, sá gì lũ dân đen còm cõi!" Ông huyện đập tay lên sập ra chiều oan ức. "Đứa nào, đứa nào dám mách lẻo với ông thế ạ? Cái luật ăn chia trong hội nhà quan trước giờ đều đã có đường lối hẳn hoi, con dựa y đó mà làm, nhưng chúng nó thấy con là người mới, ra vẻ không phục, còn đòi ăn trên đầu con đấy ông ạ. Nói gì xa, cái thằng lý Chả đây này, đã biết luật chia trước giờ là ông năm, con ba, chúng hai, thế mà kỳ sưu đợt trước cứ nằng nặc đòi lấy bốn ông ạ. Nó bảo ông và con không động tay mà ăn nhiều quá, nó không phục, giờ phải cho nó bốn phần thì nó mới làm. Con giận quá mới nọc nó ra đánh ba mươi gậy. Chắc nó căm con từ đợt đấy đấy thưa ông." Nghe đến đây, ông châu liền trợn mắt, phùng mang. "Thế mà nó dám nói với tao mày đánh nó vì muốn chiếm luôn phần. Láo! Láo quá! Cái thằng lý ấy ăn gan hùm mật gấu hay sao mà dám đòi tận bốn phần? Còn bảo tao chẳng động tay? Tao mà chẳng động tay thì chúng mày có mà tự do đi vơ vét thế à? Phải biết cái nghiệp quan trường của tao nó dài còn hơn đường làng chúng mày ấy chứ! Quanh năm cứ rúm ró trong cái xó này rồi xem giời bằng vung!" Nói rồi lão tức tối thõng chân xuống sập, miệng í ới thằng hầu đem gậy vào cho mình sang nhà thằng lý phạt cho ra lẽ. Thấy lão dợm bước, ông huyện vội vã vơ lấy cái tráp gỗ đầu sập nhét vội vào tay lão. "Ấy, ông đừng vội quá mà quên cả quà cho các cháu đây này." Lão châu hơi hơi nheo mắt, tay rón rén mở nhẹ nắp tráp rồi đóng sập xuống, cơ mặt căng cứng lập tức giãn ra. Ông huyện được nước bèn sáp vào xun xoe, mắt híp lại hơi hất đầu về phía cô nàng trên sập. "Toàn là cái Trinh nhà con nó làm đấy ông ạ, các cháu nhà ăn có ngon thì báo lại một tiếng để em nó mừng." Lão châu nhìn Trinh một cái rồi quay sang ông huyện, đôi môi thâm sì toét cười một cách gian manh, ngón trỏ phẩy nhẹ ra bộ thầy đồ dạy học. "Nhà anh đến có ngày chết vì gái đấy nhé!" "Ông dạy phải lắm ạ," ông huyện lại cúi đầu, môi đáp lại bằng nụ cười gian không kém. Lão gật gù ra chiều ưng thuận, ngực ưỡn, đầu chếch, xoay sang Trinh đạo mạo mở lời. "Con kia! Chiều nay liệu mà đi chôn con mẹ nhà mày đi nhé! Để nó phơi thây giữa chùa thì toi hết quang cảnh linh thiêng." Trinh mừng đến run người, vội vàng sụp xuống vái tạ. Chừng ra đến cửa, chợt nhớ ra gì đó, lão quay đầu dặn dò. "Nạn bạo dân vẫn phơi ra đó, anh huyện nhớ lời tôi mà liệu cái thân, đừng để tiếng tham của anh liên lụy chúng tôi. Năm nay đã lỡ lao nhao, cả cái Thanh Ba này không tăng sưu được nữa, thôi thì hạ xuống hai đồng, thuế ruộng cũng không thu gấp chín nhé, gấp sáu.. à không, gấp năm thôi, đành thu ít lại hòng dịu lòng chúng nó. Để đấy năm sau sự nó an lành rồi ta tính tiếp." Ông huyện chắp tay đáp dạ, đoạn càng gập người vái tiễn quan trên. "Con tiễn ông tri châu ạ!" Nhìn cảnh ấy, Trinh lại không kiềm được mà nhớ đến bốn câu thơ giễu đọc hồi mười tuổi. "Ông quan vái tiễn quan ông Kẻ cong cái ngực người còng cái lưng Cong còng thói ấy đã từng Thói đâu thói lạ quá chừng ta ơi?" Nếu nàng nhớ không nhầm, vị sĩ tử tài danh đã xướng ngâm nên bốn câu ấy chính là cậu ba họ Đinh Văn, tên đúng một chữ Trung trong "Trung quân ái quốc."
III. Chữ "Trung" cùng gánh một khi Bấm để xem Đợi khi quan lớn đã hoàn toàn khuất dạng, Trinh mới thấy ông huyện đủng đỉnh đi vào, cái lưng lúc này đã thẳng đuột như tre mía, chẳng còn đâu bóng dáng khúm núm vừa rồi. Ngồi lên sập bắt chân chữ ngũ, ông cầm bình tự rót lưng một bát rượu, tay còn lại vẩy vẩy bâng quơ. "Cô Trinh lại đây ngồi hầu bữa cho quan nào." Chờ nàng lững thững dời bước, ông mới nhắm mắt hít vào một hơi dài rồi mỉm cười khoan khoái. "Mãi cái thằng ôn thần ấy mới chịu đi. Xem xem, không gian thoáng mát thơm tho hẳn ra." Trinh thoáng cười, duỗi tay gắp một miếng chả để vào bát sứ đẩy đến trước mặt. Ông huyện nhìn miếng chả vuông vắn rồi cười to. "Cô Trinh bỡn quan đấy à? Có mỗi tẹo này thì kẽ răng nhét cũng còn chưa đủ, gắp cho nhiều vào nào." Nàng ngoan ngoãn khom người gắp tiếp, chờ đến lúc bát đã vun đầy nào thịt nào rau, ông huyện lại trở chứng không ăn nữa. "Gắp cái gì mà hồ loạn bát nháo lên thế? Thôi, cô Trinh ăn hết cả đi, quan đây tự gắp." Nói rồi cầm bát khác tự gắp thật. Trinh không tỏ ra bất mãn gì, chỉ dịu dàng nâng bát lên ăn như được dạy. Ăn vơi, ông huyện lại vừa nhai vừa liếng thoắng gắp thêm vào bát nàng, còn thuận tay rót cho bát rượu, nàng đều nhận tất. Ông nhìn bộ dạng đằm thắm của nàng mà khe khẽ cười. Đây mới thật là sự ngoan ngoãn từ trong xương ra của con nhà gia giáo, còn cái điệu bộ thẽ thọt nhún nhường trước mặt lão châu ban trưa.. đều là đớn đau kiềm nén tạo thành cả. Không hiểu sao, nhìn nàng thành thật như thế trước mặt mình, ông lại thấy vui vui, miếng cơm nuốt vào cũng trơn hơn một tẹo. Cuộc ăn xong xuôi lại đến cuộc chè, Trinh nhận cái trà kỷ từ bà bếp rồi bê lên cho chủ, rất tự nhiên ngồi xuống đối diện, khom người tráng chén chuẩn bị pha chè. Ôi là cái dáng điệu thanh tao kiều nhã làm sao, khác hẳn mấy ả đào xun xoe đon đả, đúng là con ông đồ có khác, đến cái tướng pha chè cũng đoan trang như thế. Đưa tay đón lấy chén quân* từ Trinh hớp vào vài ngụm, ông huyện lan man hỏi. (*chén quân: Chén nhỏ trong bộ trà cụ, dùng để uống trà rót từ ấm ra) "Cô Trinh năm nay bao tuổi nhở?" Nàng đưa tay ra dấu, mười tám. Ông cười. "Thế mà lá gan nở to còn hơn bà già tám mươi cơ đấy." Nàng chỉ cười hiền, nghiêng người cầm chén tống* rót tiếp một ít vào bát quân trên tay chủ. (*chén tống: Chén lớn dùng đựng nước cốt trà) "Chẳng bù với quan đây này, càng già gan càng teo lại." Ấy rồi ông ậm ờ than thở về cái lưng đau do vái chào nhiều quá, cái ruột nẫu bởi chè rượu liên miên, cái cổ rát do mắng mỏ đám tá điền, cái chân mỏi sau mấy cuộc đòi thuế, củ hành vỏ tỏi đủ chuyện phiền của đám người cao tuổi. Trinh nghe qua mà chỉ muốn ù ngay ra bếp phì cười cho thỏa. "Xem kìa, cô Trinh toan cười nhạo quan đấy ư? Cái thân tội vạ của quan khiến cô Trinh vui lắm chắc?" Nàng đỏ mặt vì bị bắt gặp thất ý, vội lắc lắc đầu, ngón tay chấm vào nước chè nguệch ngoạc vài chữ trên mặt sập. "Quan ông năm nay chắc gì đến tứ tuần mà đã vãn ai cái nhọc nhằn của bậc cao niên?" Ngắm nhìn những chữ tròn trĩnh con con óng ánh trên mặt gỗ, ông huyện trề môi. Song, khóe miệng lại khẽ nhếch. "Giời, thế còn không chịu là nhạo? Cô muốn kháy quan lèm bèm sáo rỗng chứ gì?" Nàng chỉ tủm tỉm cười, không gật cũng chẳng lắc. Ông huyện ngẩn ra một lúc, đoạn vỗ chát lên đùi như nhớ ra gì đó uất ức lắm. "Mà sao cô lại chọn mốc tứ mà chẳng là tam? Ý cô bảo quan già như mấy lão bốn mươi đúng không?" Khóe môi nàng Trinh ấy lại càng cong tợn. Người gì thế này? Khen trẻ chẳng được, chê già chẳng xong. "Nói cho cô biết nhé, quan năm nay chỉ mới tam thập nhất tuế, hơn cô có con giáp lẻ chứ mấy. Cô mà chê quan già hơn tuổi là cô sai lắm đấy! Cô không nghe trong làng họ gọi quan thế nào à?'Thằng huyện' đấy. Chắc chắn là vì nom quan như bọn đôi mươi chúng mới thỉnh thoảng lỡ miệng gọi thế, cô thấy có đúng không?" Đến đây thì nụ cười trên môi Trinh méo xệch, nàng thoáng sửng sốt nhìn lên vẻ mong chờ trẻ nhỏ trên mặt quan ông. Hóa ra ông ta biết đến cái tên khiếm nhã họ thường vụng trộm gọi mình, thế mà.. sao lại chẳng lấy làm tức tối? Thậm chí, còn đem ra làm chuyện vui chọc cười. Người ta nói tài tử Thanh Ba Đinh Văn Trung xưa kia là một bậc văn sĩ giỏi trào phúng, lại chẳng ngờ có ngày lại thoải mái dùng chính sự trào phúng này trên bản thân như vậy.. Thân là quan ông, lại gánh tiếng thằng, nếu chẳng tức, chẳng giận, hẳn là phải đau chứ? "Xem ra cô chẳng giỏi che giấu cảm xúc mấy nhỉ? Thương người mà gần mếu đến nơi rồi kia kìa." Nàng giật mình rũ mắt, tay chân lúng túng không biết để vào đâu. "Thế mà lúc hầu lão châu, cô kín kẽ lắm kia mà? Làm quan còn sợ đang nuôi phải rắn giả lươn trong nhà." Răng lún vào môi, Trinh sửng sốt ngẩng nhìn kẻ vẫn đang thản nhiên quạt mát. Thế ra.. vừa rồi là ông ta khích thử, xem nàng bao thâm mấy trầm đấy ư? Nàng lại vì ông là người ơn nên chẳng hề phòng bị, thường ngày ra sao cứ ra thế nấy. Đôi bên nhìn nhau một hồi, ông bỗng đập phẹt cái quạt xuống sập, thõng chân mang giày ống thêu vân bạc vào. "Thôi, cứ nhìn mãi cũng chẳng ra ngô khoai, cô Trinh cắp nón rồi cùng đi với quan." Nàng ngạc nhiên song cũng không tỏ ra thắc mắc, vội vã chạy ra sau mượn bà bếp cái nón quai thao rồi bước dài ra ngõ. Đến nơi, nàng mới hay ông huyện không đi võng, cũng chẳng có thằng hầu theo che lọng, tay chắp ra sau lưng vừa đủng đỉnh bước vừa í ới gọi nàng nhanh lên. Trinh sụp nón tất tả chạy theo. Dọc đường, tuy không hề ngước lên, nàng cũng biết người làng dừng việc để nhìn họ nhiều lắm. Tội cho lớp da mặt mỏng, nàng sụp nón sâu hơn, đầu càng gằm cúi lủi thủi bước nhanh như trốn nợ. "Ngẩng cao lên nào," kẻ phía trước chợt ra lệnh, cái giọng bình thường phởn phơ nay lại có chút răn đe. "Cô đi hầu quan mà cứ gằm đầu, chúng nó nhạo cho. Ngẩng cao lên." Đã quen nết ngoan hiền, Trinh chậm chạp làm theo, nhưng lòng nàng rát lắm. Giá mà nàng chưa ăn nằm với ông huyện, nàng cũng dám ngang tàng hất đầu, khổ nỗi.. "Cô Trinh có biết người ta hay ví quan như 'cướp ngày' hay không?" Trinh hơi nâng mắt, lại gì nữa đây? Sao cái ông quan này thích hỏi chuyện kẻ câm thế nhỉ? Dường như cũng ý thức được nàng sẽ không đáp, ông hềnh hệch cười. "Đi với cướp ngày thì cô là kẻ bị cướp, hoặc kẻ cướp. Nếu là vế trước, chúng sẽ khinh cô, nhưng có tội nghiệp. Nếu là vế sau, chúng vẫn sẽ khinh cô, nhưng lại ghen đến đỏ con ngươi. Cô Trinh thích vế nào hơn?" Trinh tròn mắt ngạc nhiên nhìn lên gáy ông huyện, đột nhiên cảm thấy mông lung. Chưa kịp nghĩ ra nên phản hồi như thế nào, ông đã khụy chân chúi người về phía trước, nàng ở sau mất đà thế là té nhào lên lưng ông. Ngay lập tức ông đứng thẳng dậy. Vẫn với cái dáng bộ khoan thai phớn phở, ông cõng nàng tiếp bước trên con đê ẩm ướt, miệng không ngừng nhão nhoét nói to. "Nào nào.. nàng để quan cõng để tránh lấm chân nào!" Rồi hơi quay đầu se sẽ với nàng. "Thế nào? Quan làm giặc, thường ngày cưỡi lên đầu lên cổ chúng nó. Cô Trinh bây giờ cưỡi lên lưng quan, ấy là càng oai phong gấp mười, chúng ghen còn không kịp, có sướng thân không? Không tin cô nhìn mặt bọn chúng, xem quan có nói điêu tẹo nào?" Mất một lúc dìm xuống sự lúng túng, Trinh sẽ sàng đưa mắt ngó quanh, quả nhiên trông thấy cặp gái trẻ gặt lúa bên đường đang trề môi ngó nàng với ánh nhìn khinh khi, để ý kỹ còn có thể trông ra một chút buồn tủi mơ màng trong bờ môi bị cắn dập, trong vạt áo bị vò nhàu, trong mười ngón chân lấm đầy bùn nhơ run run co quặp. "Nếu đã định là sẽ bị khinh, thế thì cứ để chúng khinh ganh, dại gì mà đeo cái gánh khinh tội?" Cái nón thúng lúc này đã đổ hẳn ra sau lưng, Trinh thây kệ, đầu hơi rướn sang phải đón chút nắng vàng trưa giờ luôn tránh né, đôi cánh tay bất giác choàng qua cổ kẻ đang cõng mình. Ông đang nói về nàng, hay nói về bản thân? Trưa ấy, ông cõng nàng lên chùa chôn u. Không kèn trống linh đình, chẳng cỗ mâm xôi thịt, tang của người vợ tội đồ chỉ là một tấm vải trắng liệm thây, một cỗ quan tài vàng tâm và bát cơm bổng cắm nhang lấy lệ. Trinh tuy cay đắng trong lòng, nhưng cũng hiểu rằng ở hoàn cảnh của u con nàng, bấy nhiêu đã nhiều hơn quá đủ. Quan tài và bãi đất nhỏ chôn cất cũng là ông huyện cắt lính chuẩn bị thêm cho, không thì nàng chỉ đành quấn chiếu chôn u ở trong rừng, trong núi. Nhang đèn lễ vái xong xuôi, trời cũng đã tối mịt, nàng cắp nón lủi thủi theo sau ông huyện về nhà, tâm trạng thê lương, má ướt đẫm nước mắt. Ngang qua bãi tha ma cạnh chùa, ông đột nhiên quay lại hỏi. "Cô Trinh sợ ma không nhỉ?" Nàng hơi nin nín, lắc đầu. "Thế thì lên đây đi ngang với quan, ban ngày làm lắm việc ác, đêm về quan sợ vong ám theo lắm!" Thế là nàng Trinh nào đó đang lúc thút thít lại bất chợt phì cười. Trên con đê làng cạnh bãi tha ma, hai người sóng đôi bước đi chậm rì dưới ánh trăng chếch choáng, hệt như cặp ma già đến hồi rệu rã. Cái cách mà cảm tình giữa thằng và con nảy sinh, đúng là thật lạ. Từ sau đợt ấy, thỉnh thoảng ông huyện lại hứng chí gọi Trinh lên hầu dùng bữa, dùng chè. Nàng tuy thường ngày lầm lì, những khi hầu quan lại luôn tinh ý, nếu không cũng chẳng phát hiện cái sự hứng chí này chỉ trỗi lên khi quan ông có việc buồn phiền trong bụng. Ví nhưng lần ông sốt nổi ban, nhà lại chẳng có lấy một mẩu đàn bà lo toan mọi sự, sư gia bèn theo lễ nghĩa lệnh thằng hầu chạy xuống làng Khóa báo tin cho bà thái* họ Đinh để bà liệu bề khăn gói lên huyện chăm nom con trai. Ngờ đâu.. thằng ấy trở về báo, bà thái không chịu đến, còn bảo rằng nhà bà không đẻ đứa nào bỏ khinh tiết khí đi đầu quan cho giặc. (*bà thái: Vợ của ông Thái học sinh - một học vị dành cho những người đỗ kỳ thi Hội ở thời Lý - Trần ) Trinh nghe xong thì thảng thốt vô cùng, nhưng rồi ngồi ngẫm một hồi cũng ra hết cơ sự. Làng Khóa ấy sát bên làng Ẻn của nàng, cả hai đều là hạng thượng văn đề cao khí tiết nho gia. Họ Đinh Văn lại là một họ lớn khắp cái Thanh Ba, con cháu họ mạc dễ chừng lên đến hàng trăm, ai nấy đều là bậc quang minh lỗi lạc. Năm đó khi ông huyện ra đầu quan cho giặc, bà thái hẳn đã vô cùng tức giận rồi từ luôn mặt ông. Trách sao.. cả tháng ở đây, nàng chưa hề trông thấy bất cứ họ hàng thân nhân nào đến thăm ông cả. Nhưng đến cả bệnh hoạn cũng chẳng thèm thăm.. thì đau đớn quá.. Thương xót trong dạ, nàng dốc lòng chăm sóc cho ông chóng khỏi. May thay cơn sốt kia không phải hạng lấy mạng người, hai hôm sau ông đã dậy được. Không biết sư gia hành sự kiểu nào, những lời tàn nhẫn của bà thái lại truyền đến tai ông, bữa chiều đó Trinh liền được quan đòi lên hầu hạ. Cầm bát cháo gừng nguội lạnh trong tay, nàng chẳng biết dùng cách gì để cạy mồm ông huyện ra mà bón. Công nàng nấu suốt cả buổi trưa, lẽ nào lát nữa phải đem đổ vào máng lợn? Nàng tiếc rẻ miếng ăn nên o ép ông mở miệng, đến một lúc nào đó dường như chịu không nổi nữa, ông trở cơn gàn hất đổ luôn bát cháo. Rồi khi nhìn thấy nàng cặm cụi dọn dẹp đống vỡ nát trên sàn, dường như ý thức được mình quá đáng, ông lại bảo xuống bếp múc bát mới bón cho ông. Lần này ông chịu ăn, nhưng là ăn láo ăn lếu như mấy thằng phải gió, mỗi một muỗng nuốt xuống lại nhăn nhó ra chiều đau đớn lắm, ai không biết nhìn vào còn tưởng nàng bón thuốc chuột cho chủ. "Cháo dở lắm sao?" nàng khẽ thở dài viết lên mặt giường, "Hay là để con xuống bếp nấu lại nồi khác?" Ông nhìn nàng một lúc, lắc đầu. "Không, ngon lắm, vị giống hệt cháo u tôi thường nấu." Nàng sững sờ, ấy rồi cúi gằm đầu ra chiều hối hận. Xin lỗi, nàng mấp máy mãi mà tiếng chẳng chịu thoát ra. Xem ra, đời này nàng không bao giờ phải nấu cháo gừng nữa. Ăn xong, nàng bê bàn cờ sừng trâu cũ uế lên sập cùng ông chơi cờ, hy vọng chút mưu lược cuộc kỳ sẽ phần nào khuây khỏa nỗi ưu thương trong lòng quan lớn. Ở trên văn kỷ đầu sập thật ra cũng có một bộ bằng ngà voi vô cùng quý giá, ai ghé qua thăm ông cũng lôi cái bộ ấy ra chan chát lấy mẽ, còn bộ sừng trâu cũ kỹ này ông lại giấu nhẹm ở trong tủ thờ, chỉ khi một mình mới tự đem ra chơi với bản thân. Thế nhưng cái sảnh bề thế nhà ông không chỉ có bộ cờ ngà voi ấy là quý, từ sập gụ khắc phượng đến các món trầu cụ thếp vàng, từ ống nhổ sừng tê ngưu đến bộ hoành phi bằng đồng Đại Bái, vơ bừa cái dao bạc bổ cau cũng bằng với tiền công của thợ gặt một năm, bảo sao mà người ta không kháo cái thằng huyện Thanh Ba kiết, thằng huyện Thanh Ba tham? Không kiết không tham thì lấy đâu ra cơ ngơi huy hoàng như thế? Nhưng nàng biết, sự huy hoàng kia cũng chỉ dừng lại ở cái sảnh. Ngoài mấy món đẹp lạ ấy ra, buồng ngủ, gian con.. đều trống huơ trống hoác. Mấy thằng hầu trong nhà bảo, ông huyện sĩ diện nên mới thế, mặt trước vì để người xem nên tô vẽ cho giàu sang vào, phía sau lại sợ trộm nên giấu nhẹm đi hết. Ừ thì cứ cho là thế, nhưng rồi giấu là giấu đi đâu? Chúng thật sự nghĩ tin đồn về hầm vàng ông đào dưới gầm giường để giấu của tham là thật? Cái nhà này nó hệt với con người chủ nó, ngoài mặt giàu sang đến sỗ sàng, bên trong.. hoang tàn xác xơ. "Sao cô Trinh lại không lấy cái bộ ngà voi nằm sẵn nơi kia?" ông huyện lấy làm ngạc nhiên, đoạn nghĩ gì đó rồi bày ra nụ cười đầy trêu chọc. "Ngón tay nõn nà thế này thì phải cầm đồ sang quý mới hợp." Trinh chỉ cười nhẹ rồi bày cờ ra, đoạn chấm ngón vào nước chè viết một dòng lên sập. "Vậy nên con mới chọn bộ này, quan ông đừng hòng tiếc của." Ông huyện ngẩn ngơ một hồi, cuối cùng bật ra hai tiếng cười xòa. "Lại bị cô Trinh nhìn ra rồi.." Thế rồi họ lặng thinh chơi cờ, già hơn nửa cuộc thì ông huyện lại trầm tư nhả giọng. "Hồi đấy khi lão Hữu tham chính đến dụ tôi ra làm quan, có bảo rằng ông đã trù sẵn một kẻ dự bị phòng khi tôi tự vẫn." Nàng dừng tay lại, ngẩng mặt chăm chú lắng nghe. Nàng biết những lúc ông vô ý xưng tôi thế này, lời thoát ra đều thật tâm thật dạ. "Cô Trinh biết không, u tôi quyết liệt lắm, ba lần bảy lượt dọa thắt cổ tự vẫn để giữ vững danh giá họ tộc nếu tôi chọn đầu quan. Quẫn quá, tôi cũng đã định học theo các cụ xổ khăn tự vẫn để giữ trọn tiết khí. Nhưng rồi ma xui quỷ khiến thế nào, tôi nghe đến tên thằng dự bị, ý định kia bèn bay biến mất." Đuổi một con xe chát lên con tốt của nàng, mắt ông bỗng trong thoáng chốc dấy lửa hung tợn. "Là thằng Dương Chả." Dương Chả? Ông lý Chả bây giờ? Trinh rũ mắt, thì ra là vậy. Ai mà chẳng biết cậu Chả nhà họ Dương khét tiếng ác độc vô lương, đến đàn bà có thai thiếu nợ nhà nó mà còn bị đạp chết. Giả dụ ngày đó ông bỏ ngỏ chức quan huyện cho nó, cả cái Thanh Ba này đã sớm ra cảnh tóc tang, xác hoang đầy đồng. Nàng nhìn ông, đột nhiên muốn khóc. Khóc cho nỗi đắng cay của người chọn sống vì dân, chứ không liều thân vì tiết. Chữ "trung" cùng gánh một khi Thác thì ra thánh, sống thì ra ma. Thơm tho tóe chạy hết nhà Để phân nó hốt rồi la nó lầy. Ừ thì kẻ chạy đi nức danh muôn thuở, người ở lại nghìn kiếp chịu nhơ. Chí làm trai ở buổi non nước vật vờ.. sao mà đau đớn quá. Hứng một giọt lệ nóng rơi khỏi má hồng nhan, ông huyện run giọng khẽ khàng. "Cô Trinh này.. cô lại khóc cho ai đấy?"
IV. Kẻ câm tập nói Bấm để xem Sau đấy ba ngày, ông lý Chả ôm cái mông mới lành đòn do lão châu trách phạt lết sang phủ huyện tạ tội với ông. Gã khóc lóc thảm thương rồi lạy ông như lạy thánh, mồm phều phào thề thốt từ nay về sau sẽ không dám vượt mặt ông hớt lẻo với quan trên nữa. Ông huyện lúc đó - nghe thằng con bà bếp kể lại - hả hê ghê lắm, cứ ngồi ưỡn ra ghế cười lên ha hả, vừa cười vừa lấy gậy gõ gõ lên đầu ông lý mà rằng; mày ấy à, muốn khôn lỏi với ông, chờ sáu mươi năm nữa nhé, đến lúc đó ông rụng hết răng, đơ hết lưỡi, họa may mày mới có đất múa mồm. Mà tính ra cái mồm của ông đúng là lợi hại thật, bởi vì lúc sau không hiểu khua múa thế nào, ông huyện lại khiến ông lý nhà ta ngoan ngoãn sung vào "quỹ công" thêm mười quan nữa. Trước lúc ra về, ông lý thẽ thọt xin với quan nhà; vì đợt này Thanh Ba phải thu ít sưu đi, đức ông tri châu có vẻ không hài lòng mấy, đã lệnh cho lý giáp phải liệu cách từ lũ già neo đơn và đàn bà góa mà gom thêm cho đủ ba trăm quan bị hụt, làm mà không xong, cả đám no đòn, quan lớn hãy thương tình mà nói đỡ với ông châu vài lời.. Nghe bảo cuộc chuyện vừa xong, ông huyện nhà ta đã nhảy đỏng lên như đàn bà sắp đẻ, gí tay vào mặt lý Chả mà mắng thế này. "Tiên sư bố nhà mày, lại tính giở ngóe với ông đấy à? Đem chuyện quan lớn dặn riêng kể hết ra đây rồi dụ ông sa vào, ba trăm quan ở mỗi làng Ẻn sẽ dây sang cả huyện? Ông chẳng có ngu mà dây vào. Đây là họa do mày gây, tự mà về lo lấy! Đừng có mong bẫy ông sa lầy!" Thế rồi ông lý lủi thủi ra về trước con mắt hả hê của ông huyện. Bọn lính lệ bảo nhau, lần này ông huyện phởn rồi! Vừa trả thù được thằng lý hớt lẻo, thu non của nó tận mười quan, vừa xoay được quan to đẩy cái việc khó sang bọn lý giáp trong làng, bản thân thì cứ ễnh bụng an nhàn chờ thu sưu đợt khác, phởn mà phải biết! Mỗi lần nghe đến đây Trinh lại thở dài, đầu lắc lư khe khẽ. Phởn cái nỗi gì? Phải ông mà phởn, bữa cơm đêm đó ông cũng không bỏ dở lúc mới non nửa bát, chỉ toàn uống rượu suốt thôi. Ông buồn, nàng biết, buồn cái sự gì, nàng cũng lờ mờ đoán ra. Mà nàng ngờ ông có biết nàng đoán ra, mới gọi nàng lên hầu để có người đồng cảm. Kể ra số nàng cũng may rủi đan xen, rủi vì uất ức mà câm, may vì bị câm nên ông huyện chẳng chút mảy may đề phòng, nhiều lúc say quá đã lộ ra cảm xúc thật. Tựa như cuộc chuyện trò lúc ấy vậy. "Hứ! Lũ già neo đơn và đàn bà góa.. Quan đố cô Trinh nhé, cớ gì bọn nó lại chọn hai lứa người ấy?" mắt lờ đờ, ông huyện nghiêng ngã vung bát hỏi to. Trinh nhúng tay vào chén toan viết lên mặt sập đáp án của mình, lại ngó đến cái vẻ ngắc ngư của ông, đoán chừng ông cũng chẳng đọc được nữa, bèn lôi tay ông ra viết thẳng lên ấy. "Vì họ lứa thì không con, lứa lại không chồng, trong nhà không có trai đinh để sinh uất mà mưu phản." "Giỏi lắm!" ông cười to, vơ lấy bình rượu rót luôn cho nàng đầy cái chén con, đoạn ghé sát mặt nàng lừ đừ hỏi nhỏ. "Cô nói xem, con chó già đấy ăn gì mà khôn thế?" Nàng chưa phản ứng, ông đã gục xuống sập đập đầu bộp bộp. "Ngu! Ngu quá đi mất! Uổng cho mày bao năm đèn sách, lại chẳng khôn bằng thằng con buôn vô học! Nghênh ngang tự phụ vì đã trên nó một con cờ, vừa xoay đầu đã bị nó ăn hết ván! Đến ba trăm quan! Phen này thì tôi phải tội với các cụ đơn chị góa rồi, giời ạ.." Âm thanh chát chúa của sọ người liên tiếp nện vào vào mặt gỗ khiến Trinh lạnh xương sống, đưa tay níu lấy thì ông lại bị gạt ra. Bí quá, nàng nhét luôn tay mình xuống chỗ ông đang đập. Bộp một cái, Trinh tưởng nó đã muốn gãy đến nơi, đau quá chừng mà vẫn cắn răng chịu đựng chẳng dám rút. Mạnh như thế, còn để ông nện lên gỗ nữa thì hỏng luôn óc mất. Ông huyện đập liền ba cú lên tay nàng thì chợt dừng, mặt ngỡ ngàng nhổm đầu lên nhìn xuống bàn tay đỏ tấy như vật lạ hiếm thấy, lúc sau còn ngơ ngẩn vuốt nắn ra chiều thương xót lắm.. Vẫn tư thế gập người trên sập như kẻ tội đồ quỳ lạy đấng Thế tôn, ông lặng đi một hồi, đoạn trở cơn loạn trí áp môi xuống hôn nhẹ. Trinh rùng mình. Có giời mới biết ngay thời khắc môi kẻ cao sang chạm tay người tôi đòi ấy, trong bụng đứa gái trẻ đã nảy lên bao nhiêu sự rộn ràng; cái sự rộn của tim, của gan, của dòng máu xuân ngời sục sôi trong huyết quản. Trinh chưa ý thức được nó là gì, song cũng lờ mờ hiểu ra loại cảm giác này không hề đơn giản. Nàng muốn rụt tay về, lại chẳng biết cớ gì làm mãi không xong, chỉ biết ngẩn ngơ nhìn người đàn ông sang quý kia tỳ mũi và môi lên tay mình hít hôn nhè nhẹ, cẩn thận trân quý như người mẹ thương con trẻ mới sinh. Chừng vã cơn mê say loạn trí, ông huyện mới lảo đảo ngồi thẳng dậy, má đỏ hồng như muốn báo cho kẻ xung quanh cơn đói tình của quan ông vẫn còn chưa đẫy. Ông dùng vẻ mặt tiếc rẻ buông tay nàng ra, gượng gạo nói nhỏ. "Cô Trinh tha cho, chỉ vì.. đã lâu rồi không ai thương cho cái thân tôi như vầy.." Dạ Trinh khẽ lung lay. Đúng rồi, ông là thằng huyện tham lam khốn nạn cơ mà, đến cả u ruột còn đang tâm vứt bỏ lúc bệnh hoạn, thì có ai mà xót cho chút thịt vêu trên trán? Nghiêng người nắm lấy bàn tay siết chặt của ông, nàng dịu dàng gỡ ra từng ngón, đoạn viết luôn một tràng. "Sự đâu còn có đó, quan ông đừng vội nản lòng. Mấy vạn quan cả một guồng chúng nó gian tham, ông còn mưu toan xén giảm đi được, sá gì vài trăm bạc lẻ?" Ông huyện không nói gì, chỉ chăm chăm nhìn nàng như kẻ tình si thình lình bị bỏ ngải. Nàng thấy ngại nên muốn rụt tay về, lại bị ông nắm chặt, ghì siết. "Hóa ra cô Trinh biết hết thật." Nàng bình tĩnh gật đầu. "Vì sao?" giọng ông hơi vỡ òa, bàn tay siết lấy nàng cũng bắt đầu run rẩy. "Đến u tôi và các anh còn chẳng chịu tin!" Nàng lắc đầu, bên tay rỗi đưa lên chỉ vào môi, xong lại chỉ vào ngực ông và tai mình, đầu gật nhẹ, miệng mỉm cười hiền dịu. Chẳng nhìn ra cái chữ gì, thế mà rượu lại khiến ông huyện của chúng ta tưởng tượng ra nàng Trinh đang cất giọng ôn hòa. "Con tuy câm, nhưng không điếc, tai vẫn nghe được điều tim ông thổn thức." Rồi ông nghe rõ ràng tiếng nàng buông ra thật. "Nó gào khóc với con rằng.'Tôi là một thanh quan!'" Đêm đó trăng tàn, chỉ có lòng người chợt khẽ khàng le lói, rọi lên dáng hình thằng huyện Thanh Ba sà vào lòng con hầu òa ra nức nở. Đêm đó, có hai đứa câm trọ trẹ tập nói trong mơ. Giấc mơ về một đất nước thanh bình sạch bóng quân Minh, không có người bắt tội hai chữ "trung, trinh;" và không cần đến con hầu, thằng huyện. Từ cái hôm nàng Trinh mở miệng nói lần đầu tiên sau hai năm dìm mình trong uất lặng, cuộc đời dường như đã thay một lớp áo mới cho thằng huyện, con hầu. Ông huyện nhìn đâu cũng thấy hoa tươi, nét cười nơi đuôi mắt càng sâu hơn một chút. Chớ nhầm, ông cũng chẳng nhân từ hiền hậu thêm tẹo nào đâu. Án to án nhỏ trình lên, ông vẫn chễm chệ ăn trốc ngồi trên làm cha thiên hạ. Thằng nào nghèo quá không bòn được gì thì ông tha, chỉ xử qua loa cho có lệ, mấy đứa răng vàng nhẫn ngọc áo quần xênh xang mà dại dột lạc vào phủ ông thì chỉ có chết, ông vắt nó kiệt còn hơn vắt cái cổ chày. Ví như cái sự thuế má đánh trên đàn bà góa và các lão vô tự năm đó, ông ngẫm nghĩ vài ngày rồi lại gọi ông lý lên dạy. "Ông sẽ giúp mày bình an qua khỏi nạn này, nhưng thừa ra bao nhiêu, mày phải nhường ông tám phần." Chờ ông lý đau khổ gật đầu, ông mới tiếp. "Kế của đức ngài tri châu rất hay, nhưng còn có chỗ thiếu sót. Ví như thuế được ban ra, vì để trốn tránh thì đám con góa sẽ đi lấy chồng, mấy lão ông sẽ đi nhận con thừa tự. Chưa biết chừng.. chúng lại lấy nhau để bà được chồng ông được con của vợ, thế là có thể vẹn cả đôi đàng. Chuyện thành thế thì chúng ta công cốc! Đấy là chưa nói đến cái đám không chồng không con ấy chắc gì đã có bạc cho ta bòn? Không khéo dây vào cũng chỉ tốn hơi. Thôi thì ông sẽ trình với quan lớn thế này, nhân việc đám tang của phu nhân ông Đô chỉ huy sử ti, toàn dân Thanh Ba ngoài để tang ra còn phải đề cao thân phận vợ cả của bà qua việc gom tiền cúng tế. Chúng ta vì thế phải đánh thuế trên đám bà lẽ nhà dân, mà theo đạo vợ chồng, các ông phải là người nộp thuế cho các bà mới đúng lẽ. Mày cứ đánh cho cao vào, một quan ứng cho một bà lẽ, càng nhiều bà lẽ thì thuế nợ càng nhiều." "Bẩm ông, một quan có nhiều quá không ạ? Nhỡ đâu nhà nó nghèo, ta thu lại cực.." "Mày ngu quá thằng lý ạ! Đời này có thằng nghèo nào đi lấy nhiều vợ không? Lấy về để mà nai lưng ra nuôi cho chết à? Chỉ có cái đám bá hộ, phú ông, mới có cái tài đó con ạ. Mà với mấy thằng đấy, vài quan đã là bõ bèn gì? Mày cứ việc thu mạnh tay vào! Huống hồ, kẻ giàu có trong huyện không đầy ra như đám dân đen nghèo kiết, chẳng thu nhiều cỡ đấy thì năm nào mới mót đủ ba trăm quan?" Ấy thế là người ta trông thấy mắt ông lý Chả sáng ra, ông gập người như quyển sách lạy tạ ông huyện rồi vội vã ra đình bàn việc thu gom với các ngài chức sắc. Tối hôm ấy lúc ngồi cạnh bên mài mực cho ông huyện vịnh thơ, Trinh đã viết lên giấy một câu hỏi vu vơ; quan ông không sợ các ông giàu sang ấy.. vì trốn thuế nên bỏ vợ hay sao? Ông nhìn nét chữ mềm như liễu trên trang giấy Yên Thái phẳng phiu mà trong ruột khẽ ngăn nhúm lại. Ông muốn lấp liếm với nàng bọn giàu sang sẽ không keo kiệt đến thế, vì một quan tiền mà bỏ luôn vợ. Nhưng rồi ông cũng chỉ chững bút nhìn nàng mà nặn mãi không ra lời, bởi ông thừa hiểu việc đời khó nói trước, đâu đó sẽ tồn tại những giống người trọng một quan hơn cả vợ mình. Cuối cùng, chỉ đành hạ bút viết bên cạnh câu hỏi của nàng. "Thời thế nhiễu nhương, đôi đường khó vẹn, đã vào quan trường, tránh không khỏi tội, chỉ có thể chọn phần tội nhẹ hơn mà làm." Ông thấy nàng cười, đầu chậm rãi gật nhẹ đầy cảm thông, nâng bút lên viết tiếp. "Vâng, con đã hiểu rồi. Nếu có thể vẹn cả đôi đàng, thanh quan đã không cần tự vẫn, hoặc khoác vào cái vỏ tham quan." Ấy rồi ông cũng cười theo. Nàng hầu của ông, tri kỷ của ông.. Người ta thấy ông huyện nha càng ngày càng mê con hầu gái, thu thuế tô gì đều dắt thị đi theo. Này lọng thếp võng đào, này thoa vàng trâm ngọc, nom thị càng lúc càng ra dáng cô bà mấy con đào điếm, trông ghét không chịu được. Đúng là một cặp đôi vô liêm sỉ. Cơ mà.. có một sự thật khó lòng chối bỏ; chúng xứng đôi thôi rồi. Trai anh tuấn, gái mỹ mạo, kèm với mão áo cao sang, trông chẳng khác nào một đôi thần tiên quyến lữ. Có ông học trò áo vải thấy gai mắt bèn lén lút giễu cợt rằng. "Thằng huyện, con hầu, quả xứng đôi! Đứa hầu nằm ngửa, đứa hầu ngồi. Xênh xang áo mũ cho là quý Đào điếm trong phường, cũng thế thôi." Bài thơ ấy được giới nho lâm trong vùng cho là tuyệt tác, đem sao ra phân phát cho những kẻ có chữ khắp nơi. Đến một ngày rơi vào tay ông huyện, người ta thấy ông cầm nó bò lăn ra sập mà cười. "Ông sĩ, ông trò, quả xứng danh! Công tước không tranh, lợi không giành Vận nước mỗi ngày than mấy gánh Gom về đè chết lũ giặc ranh." Đợi cho mực khô hẳn, ông huyện bèn đưa tờ giấy bản đến trước mặt nàng hầu của mình nhờ đề tựa. Nàng trầm tư một lúc, đoạn cười mỉm hạ bút liền một dòng bốn chữ, "Nhàn sĩ làm trò." * Bốn chữ này có hai nghĩa: 1. Sĩ tử nhàn rỗi không phải thi cử công danh nên về quê tiếp tục làm học trò; 2. Sĩ tử rảnh rỗi nên kiếm chuyện làm trò cười mua vui cho thiên hạ. " Ông huyện lại càng hềnh hệch cười to, vừa vỗ đùi đen đét vừa khoái chí cảm thán." Hay, hay lắm! Sĩ tử nhàn rỗi làm trò! Quan thật oán hận cao xanh vì gặp được Bá Nha* quá muộn! " (*Lấy trong tích Bá Nha - Tử Kỳ, ý ở đây là ông huyện ví nàng Trinh như người tri kỷ) Đấy cũng chẳng phải lời nói sáo của người có học. Càng ở bên nàng, ông càng tiếc rẻ những năm tháng nàng chẳng ở bên. Nhất là tám năm trời hầu giặc, bị người ta nhấc khỏi hàng ông ném xuống hàng thằng. Nhục quá, có đôi lúc muốn thắt cổ chết quách cho xong. Đến những khi bị người thân không tin tưởng rồi cấm tiệt về nhà, họ tộc xung quanh vì căm ghét mà đập toi con chó nuôi trong phủ; đuối lòng, ông thật muốn cam tâm sa ngã, lôi cái đám vô ơn ấy ra chém hết cho thỏa nỗi uất oan. Nhưng rồi ông nhớ đến người thầy mệnh bạc, đến những xác đàn bà lõa lồ trên sông ngày giặc Minh tràn vào huyện mình, đến ánh nhìn dài dại của những đứa trẻ thơ khi ngó lên xác thầy, thây mẹ.. ông lại thôi. Có nàng rồi, ông mới thấy gánh nặng trong lòng nó nhẹ đi nhiều lắm. Ông thấy mình giễu làm sao khi căm hờn những đứa chẳng biết gì, dại thế nào khi lắm lần muốn đi tự vẫn. Đây là con đường ông đã chọn, dù nhuốc dù nhơ thế nào cũng phải gắng đi cho bằng hết, ấy mới không phỉ mặt làm trai, dẫu ông biết ngài mai chết đi sẽ đeo mang tiếng nhơ ngàn kiếp. Có giời mới biết, đã lâu lắm rồi, ông mới có lại tráng chí này, cái loại tráng chí khốn đời mà không kẻ sĩ nào đủ gan gánh đỡ. Sự tin tưởng của nàng Trinh khiến ông như thoát được tội nợ. Thì ra.. được người hiểu mình, con người ta có thể kiên gan như vậy. Ông thích chọc nàng cười, lại càng vui hơn khi nàng khóc. Cái thú vui nghe thoáng thì hoang đường, bệnh hoạn làm sao; nhưng quả thật là thế. Bởi lẽ ông biết rõ, mỗi lần nàng rơi lệ trước mặt mình, đều vì thương, vì xót cho cái thân thằng huyện. Được người ta thương xót, ông đắm, ông mê; bởi tám năm ngụp lặn trong bùn nhơ chán chê, ông đói cái tình người ghê lắm. Thằng huyện Thanh Ba, từ nay đã có người thương xót rồi nhá! Rồi ông lấy cái sự vui thầm kín ấy ra hống hách với đời, đi đường càng vênh mặt nghênh ngang hơn một chút. Ông thách chúng mày căm, thách chúng mày hận ông đấy! Căm sâu, hận dày cho thậm vào, ông đây cóc sợ! Ông mà về đến nhà ông rồi, lại có người đổ ra xót cho, nào xoa, nào vuốt, nào sụt sùi thương cảm, sướng mà phải biết. Chúng bây có giỏi thì cứ thử oán chết ông xem? Đêm đêm, ông lại ngồi trên tấm phản sau nhà kể cho nàng nghe những việc tốt mình đã làm trong bóng tối, nào vơ vét lượng thuế sưu bị đám lý giáp ăn tham, nào đem phần lớn của ấy vờ thua vào những canh bạc thâu đêm trên nhà thằng cai tuần Vi Đại. Ông thừa biết thằng đấy vốn người của họ Nguyễn Vi cài vào đình hóng chuyện vụn vặt, người nó lại nhân đức hiền từ nên thể nào cũng bố thí hết của bất hảo lại cho đám dân đen. Ông chỉ mong có thế. Rồi đến mấy mẩu chuyện hoang đường về" đạo quan trường "mà ông phải gánh, như cái đám quan to trên ông chẳng hạn. Để yên lành mà vơ vét lũ lý giáp quan con, ông vừa phải tỏ ra vô lại cho có vẻ hợp cạ hợp bầy, vừa trích ra một phần của tham để đấm vào mõm chúng nó. Nước nhà đang buổi bị xâm lăng, đút tiền cho giặc không vẫn chưa đủ, còn phải tỏ ra trung thành tận tụy. Mà chữ trung này phải được thể hiện rõ ràng nhất qua việc làm ác với chính dân mình. Nói đâu xa, ông huyện Thanh Ba vốn nổi danh hung ác đây này, ngày nào mà chẳng thấy ông vung gậy đánh dân? Năm nào mà chẳng thấy ông bịa ra một đống sưu vặt để thu dần? Ừ thì đánh chẳng mấy đau, đóng chẳng mấy tiền, nhưng phải đòn và thuế quá nhiều lần, dân nó thấy phiền nên oán. Người quê mà, cứ thấy số cao thì cho rằng nhiều, cứ bị khẽ nhiều thì cho là ác, chứ có bao giờ chịu động tim động não suy sâu cho nhờ? Nếu như họ có, đã phát hiện ra cái tiếng dân Thanh Ba khó thuần, huyện Thanh Ba thuế thu khó vẹn, vốn chỉ xuất hiện từ tám năm trở lại đây thôi. Mỗi lần ngẫm đến đây, nàng Trinh lại nhoẻn cười khen quan ông tài quá. Nàng tuy đã nói được, song vẫn rất kiệm lời, giao tiếp thường ngày với ông phần lớn vẫn bằng con chữ; thế nên nghe đến lời khen nỉ non mềm mại đó bật ra trên môi, ông huyện sướng tê người, cứ như học trò dốt lâu ngày được thầy khen hay chữ ấy, nó kỳ diệu gì đâu.. Cuối cùng thì ông cũng là bậc anh hùng trong mắt một người rồi! Đời làm thằng, có sự nào nó vui bằng thế? Cái thòng lọng vẫn quấn hờ trên xà ngang buồng ngủ kia, có lẽ cũng đến lúc tháo xuống rồi.. Đôi lời tác giả: Tui đã nghĩ rất nhiều về thời điểm để nàng Trinh bập bẹ nói lời đầu tiên sau hai năm uất oan cha mà câm nín, ban đầu tính nhét nó vào thời điểm hai nhân vật bày tỏ tình cảm của mình với nhau, tự đắc rằng hình ảnh vẽ ra trong đầu lãng mạn lắm. Nhưng viết đến đoạn thằng huyện lần đầu tiên khóc òa trong lòng nàng hầu của mình, tui lại thấy để ở nơi kia sao mà nó tục, nó thường.. nên cuối cùng, lại nghe theo con tim đưa nó về cảnh này. Thằng huyện, con hầu, bấy lâu đều là những kẻ câm trước miệng đời thối nát, trước gánh nặng đạo đức nho gia. Trinh câm tiếng, ông huyện dù nói năng bẻm mép, nhưng lại chẳng thổ lộ được nỗi lòng cùng bất cứ ai, khác nào một thằng câm? Thời khắc mà cả hai kẻ câm cùng" lên tiếng "trước người tri kỷ, tui thấy là phân đoạn tui đắc ý nhất trong suốt truyện. Đây là câu chuyện ngoài cái mác" tiểu thuyết tình cảm ba xu,"tui còn gắng lòng vun vén cho một chút nhân văn, một chút giá trị của con người thời đó, mượn câu chuyện cổ để phản ánh hiện thực bây giờ. Hy vọng đọc hết rồi, bạn đọc có thể nhẹ tay tăng từ ba xu lên bảy. Tiểu thuyết bảy xu, nghe cũng oai vãi cái linh hồn.
V. Tình đầu Bấm để xem Ấy rồi ông huyện Thanh Ba vui cũng chẳng được lâu, vì làng Ẻn bỗng đâu nảy ra họa lớn. "Biết anh đồ Khê nhà Nguyễn Vi không? Cái anh giỏi chữ, hay văn, được nhiều người mến trọng ấy? Anh ấy bị thằng lý phát giác trữ sách tiền triều, bị nọc lên huyện để chém rồi!" Từ làng Ẻn đến làng Văn, từ làng Kỳ đến làng Khóa, người người túa nhau truyền tai nhau câu đó, rồi họ đổ cả sang sân chầu của phủ huyện Thanh Ba để xem quan xử. Cảnh tượng thật kinh hoàng làm sao! Giữa sân có cái hố rộng độ một trượng, cạnh bên có hơn chục cái rương gỗ chứa đầy sách vở. Anh đồ Khê thì bị gông và bắt quỳ giữa sân chầu, đầu ngẩng cao đầy khí khái. Đối diện với anh là ông huyện Thanh Ba cùng lão châu Thao Giang ngồi chễm trệ trên ghế dựa chạm trổ. Tay siết chặt tay, người ta nín thở nhìn ông huyện tham đủng đỉnh bước xuống thềm, cúi người cầm một cuốn sách trong cái rương thếp vàng trông có vẻ trân quý nhất. "Phi Sa tập? Lạc Đạo tập? Ái chà, anh đồ Khê nhà ta thật là khéo tay, sưu tầm được toàn thứ đồ quý hiếm." Nói rồi thản nhiên giơ chân đạp cả rương đó xuống hố trong tiếng gầm rít của anh thầy đồ. "Không được! Quân khốn nạn! Di sản của cha ông mà mày cũng nỡ thiêu đốt sao? Mày có còn là học trò của thầy tao? Có còn là con dân Nam quốc hay không?" "Xem ra đấy là rương anh đồ đây quý nhất rồi. Nhìn xem, mất hết khí độ ung dung của kẻ thanh nhàn rồi," ông huyện cười sằng sặc đầy mỉa mai, đoạn quay về trên ghế nhận bát chè từ tay nàng hầu, một tay khoan thai đưa lên phẩy nhẹ. "Đẩy hết xuống hố rồi châm lửa đi, trưa rồi, quan phải vào ăn nữa." Đám lính lệ vội vã làm theo. Chồng chồng lớp lớp sách vở thi nhau ào xuống hố đất như ngư dân trút cá ra khỏi lưới. Mười mấy cái đuốc sau đó được ném vào. Khói, chẳng bao lâu đã bốc lên xám xịt. Trước cảnh đó, anh đồ Khê chỉ còn biết khum người gào khóc. "Sẵn lửa chưa tàn thì đẩy nó xuống hố luôn đi, đỡ mất công chém, lúc sau lại phải chuyển xác lên phủ trình báo," lão châu ngáp dài, lừ mắt nói. Bát chè đắng đưa gần đến môi thì chững lại một chút, ông huyện hớp một hơi cạn bát rồi thản nhiên tiếp lời. "Bọn bây nghe quan ngài nói chưa? Còn chưa chịu đạp nó xuống?" Ấy rồi thằng lính chưa kịp chạm vào anh Khê, người ta đã nghe ông thét lên một tiếng chói tai, lúc quay lại nhìn đã thấy tay và gấu áo ông ướt nhem, bát chè thì vỡ tan trên mặt đất. "Con khốn!" ông tát một cái rõ kêu lên má người thiếu nữ đứng hầu. "Tao biết ngay mà! Vừa nghe đến người tình cũ sắp sửa bị thiêu thì mất luôn hồn vía, đổ cả nước sôi lên người tao!" Ai nấy ngỡ ngàng quay sang thì thầm với nhau, chuyện gì đang xảy ra thế nhỉ? Lập tức có vài kẻ từ làng Ẻn đáp liền. "Thì cái con đấy chính là con Trinh câm nhà cụ đồ Quế, năm xưa từng được hứa gả cho anh đồ Khê chứ ai. Giờ thì sướng rồi, bị từ hôn nên đâu cần chịu tội với anh đồ, cứ ăn no rồi lại nằm dài dạng chân hầu quan cho sang trọng." "Khiếp, tưởng sang trọng thế nào, cuối cùng chỉ là một con hầu thôi! Xem đi, ngửa người hầu nó giờ còn bị nó đánh trước đám đông, nhục phải biết!" "Bà thì biết gì chứ? Người ta được quan yêu, quan mới ghen đó nha!" ai đó đáp mỉa, đoạn cả đám cười ồ. Mặc cho những lời bàn tán xôn xao, ông huyện lúc này vẫn đang phùng mang trợn má trước nàng hầu xinh đẹp, kẻ lúc bấy giờ đã mắt lệ cay nhòe. "Giỏi nhỉ? Tang ai mà khóc như chết cha chết mẹ thế hả con kia?" chỉ tay về phía anh đồ Khê, ông gân cổ thét tiếp. "Mày xót thằng chó đó chứ gì?" Và rồi ông hùng hổ bước xuống thềm, ào đến ngay trước mặt anh Khê giơ chân đạp liên hồi lên mặt và tay chân anh ấy. "Xót này! Thương này! Tao đạp cho vỡ mặt thằng khốn này ra, xem mày còn xót thương gì nổi nó!" Tiếng bình bịch cùng rên la của anh đồ trỗi lên càng hung, con hầu câm càng ôm mặt khóc bạo, lát sau đuối người ngất nằm ra đất. Lúc bấy giờ, ông huyện mới dừng chân thở ra hồng hộc. "Mấy đứa kia, còn không biết đem bà vào nhà?" ông quắc mắt ra lệnh, đoạn quay sang kẻ tù tội bị đánh đến không còn nhận rõ mặt mũi dưới chân mình, gằn giọng. "Còn cái thằng láo này, bây đem xuống ngục xát muối vào vết thương cho tao! Mai hẵng đem ra chém! Cho nó đêm nay đau cho nhiều vào, để xuống âm phủ còn nhớ rõ đừng bao giờ vênh mặt đi rù quến đàn bà của Đinh Văn Trung này nữa!" Đến lúc này thì đám học trò đứng xem có tên trở bạo, nhón người ném cục đất vào đầu quan ông. Lính tráng vừa phản ứng quay sang, nguyên đám bu xem đã lao nhao tháo chạy. Cảnh tượng chẳng mấy chốc đã hồ loạn bát nháo, lính càng không biết là do ai ném mà đuổi loạn cả lên. Sợ dân bạo loạn mình sẽ vạ lây, lão châu nhanh chóng nhảy tọt lên võng cho bọn phu khênh về, trước khi đi còn vội vã trách quở ông huyện. "Đều tại anh mà ra cả! Anh liệu mà lo êm cái vụ này! Tốt nhất là hoãn việc chém đầu thằng đồ kia lại, kẻo không cái bọn học trò lại được dịp tụ tập sinh oán, hô hào làm phản!" Mặc cho bùn đất bết đầy đầu, ông huyện khom người khẩn trương vâng dạ, còn hứa rằng sẽ lén áp giải thằng đồ đó lên phủ ngay đêm nay cho êm chuyện. "Cũng chỉ còn có nước đó," lão châu thở dài, đoạn trừng ông. "Làm cho khéo vào!" Thế là xong bề quan trên. Ông huyện hít sâu vào, mắt liếc qua đám tro tàn trong hố rồi rầu rĩ quay trở vào phủ. Chiều đó, lúc ông đang lúi húi xổ tóc ra gội đầu cạnh giếng, gáo dừa trong tay lại bị giằng đi. Mắt dán vào những ngón chân trắng nõn trước mặt mình, ông biết ngay đó là nàng Trinh tri kỷ. Ông thương nàng đến vậy đó, cả cái ngón chân cũng còn nhìn ra. Vì cú bạt tai bất ngờ ban trưa, ông chẳng dám ngước đầu nhìn nàng, thế là cứ cúi đầu mặc nàng vò gội. Mà nàng gội cũng rất nghề, nào xối nào vò vô cùng trơn thuận, cứ như trước đây đã làm rất rất nhiều lần. Trong đầu ông chợt nảy lên, phải chăng trước đây nàng đã từng gội đầu cho Vi Khê như thế? Cái ý nghĩ khiến ông buốt hết ruột gan lòng mề.. Phải vậy, việc xảy ra buổi trưa này dẫu chỉ là cái kế hoãn binh ông dùng cứu đồ Khê, nhưng nỗi ghen là thật. Từ lúc có người đến báo thằng lý đang áp giải đồ Khê lên huyện, ông đã thấy nàng bần thần bất an. Rồi đến khi chúng giải đồ khê ra sân chầu, số lần ánh mắt nàng rơi trên người hắn cũng không phải là ít. Đã có lúc, ông muốn mặc đồ Khê chết đi cho rảnh! Nhưng rồi, ông lại thấy bút tích của thầy mình lẫn trong đống sách quý của anh đồ. Ông làm sao có thể ngoảnh mặt làm ngơ trước cảnh nạn của con trai thầy học? Cũng là người đã liều cả thân mình giữ gìn trí tuệ của cả dân tộc? "Xin lỗi nàng," vẫn trong dáng bộ cúi đầu cho người vắt tóc, ông nói nhỏ, tay nhẹ nhàng bắt lấy tay nàng. Bàn tay nhỏ nhắn mềm mại kia khẽ khàng rụt ra, đoạn vỗ vỗ lên tay ông đầy an ủi. Rồi nàng lại vắt tóc, lau tóc, kéo ông đến bên lò hong tóc cho ông. "Lúc trưa nay, quan bất đắc dĩ lắm mới phải đánh nàng. Nàng đừng vì thế mà ghét quan, Trinh nhé.." Trinh lại xuề xòa lắc đầu, rồi chợt nhận ra mình đang ở sau lưng ông huyện, nghĩ một lúc mới đưa ngón tay lên lưng ông. "Trinh biết mà, quan ông đừng tự trách. Ngay lúc quan ông vung tay lên, con đã biết ông bất đắc dĩ. Nếu không, con cũng chẳng ở đây gội đầu cho ông." Ông huyện thấy mắt nóng lên. Đúng rồi, tri kỷ là vậy đó, đâu phải thứ gì cũng cần ta nói thành lời.. "Nàng đã hiểu quan như thế, vậy có biết tiếp theo quan sẽ làm gì không?" Đêm đó, ông huyện cho người lén áp giải Nguyễn Vi Khê lên phủ Tam Giang, bản thân cũng tháp tùng một đoạn. Đến sông, ông bỗng dưng đuổi đám lính tỏa ra canh giữ, bản thân ở lại với tù nhân. Anh đồ Khê biết chỉ còn hai người, lại thấy ông huyện rút dao ra, nghĩ là sự chẳng lành nên bắt đầu mắng chửi, tận đến lúc dây trói trên người anh bị ông cắt đứt thì mới bất ngờ dừng lại. Mấy thằng lính lệ gác phía xa khẽ lắc đầu, thầm than sao mà ông quan này ác quá. Tưởng tốt bụng tiễn đưa cố nhân thế nào, hóa ra là muốn chính tay thủ tiêu tình địch. "Suỵt, đừng chạy. Bác mà chạy đi rồi, cả họ Nguyễn Vi chỉ có đường chết." Lời cảnh cáo của ông huyện khiến anh đồ sực tỉnh. Ừ, anh còn đeo mang cả một dòng họ, trốn làm sao được? Có phải cái tên quan chó này biết thế nên mới thản nhiên cắt dây trói cho anh? Chưa kịp quay sang nện cho nó một cú trả đũa ban trưa, có tiếng nước khua đã kéo lại sự chú ý của anh. Một khối bèo lớn chầm chậm cập vào bờ, nhìn kỹ lại thì đấy là cái thuyền con phủ đầy bèo và cành lá. Ông huyện nhanh chóng chạy đến kéo thuyền lên, vươn tay đỡ người đàn bà từ trên nhảy xuống. "Cô.. cô Trinh?" anh đồ Khê khẽ mấp máy môi đầy thảng thốt. "Nhỏ tiếng!" ông huyện rít khẽ. "Còn đứng đó làm gì, bác lại giúp quan dở hàng xuống nào!" Tuy chẳng hiểu gì, song sự xuất hiện của nàng Trinh khiến lòng anh đồ dịu đi một tẹo, dự cảm cho thấy việc không đơn giản như mình nghĩ chút nào. Anh rụt rè bước ra giúp ông huyện khiêng "món hàng" xuống. "Món hàng" là một cái xác mới chết, mặt mũi bầm tím thấy mà thương. "Thế nào? Bác đã chịu tôi có cái trí nhớ tuyệt thế vô song chưa?" ông huyện cười đắc ý. "Đến thằng trộm trâu ất ơ nào đó mới bị làng Văn đánh chết hôm qua mà còn nhớ ra để khênh về thế vai cho bác đấy." Trân mắt ra nhìn cái xác một lúc, anh đồ lặng đi, mãi sau bị ông huyện giục quá mới vội vã đổi áo khăn với người chết, lúng túng ngó gã đồng học thuở thiếu thời của mình một lúc rồi leo lên thuyền. Nàng Trinh chạy đến giúp ông huyện đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, đoạn gật đầu với ông rồi nhanh chóng leo lên theo. "Bác hãy xuôi dòng này ra đến Bắc Giang, theo đường núi vòng qua Đông Quan vào Thanh Hóa, tìm núi Chí Linh mà nương nhờ người trên đó. Nghe nói vùng ấy có ông phụ đạo chống lại nhà Minh, bác đến được đấy tất sẽ an ổn. Đường sông chỗ này khúc khuỷu quanh co, cô Trinh sẽ tiễn bác một đoạn." Nói rồi lén siết tay nàng Trinh một cái, đoạn xoay người lội lên bờ. "Khoan đã," anh đồ nhỏ giọng gọi với, tay nhặt một trong những cuốn sách bó lại trên thuyền đưa lên, mặt chứa đầy kinh ngạc. "Đây.. chẳng phải là Phi Sa Tập sao?" "Mớ sách quý của bác, chỉ có bấy nhiêu nằm dưới đáy hố ẩm ướt nên được cứu thoát, số nằm phía trên đã cháy rụi cả rồi, không còn nữa đâu mà đòi." "Ông.. vậy ra lúc đó.. ông cố ý đạp chúng xuống trước là vì thế?" Ông huyện nhảy lên bờ, đầu không quay lại phẩy tay xua xua. "Giữ cho kỹ vào, mai sau còn dạy cho đám trẻ." Rồi ông cúi người lôi cái xác hoang kia vào sâu hơn, cố tỏ ra bận rộn để không phải nhìn về phía chiếc thuyền bèo đang khua nước xa dần, loáng thoáng bên tai chỉ còn lại vài ba tiếng cộp cộp, nghe cứ như có người nện đầu xuống mặt gỗ lạy lục. Mãi đến khi xung quanh đã chìm hẳn vào sự tĩnh lặng rợn người, ông mới thình lình quay đầu chạy vài bước về hướng sông, mắt đầy khổ não phóng ra bóng đêm mờ mịt. Biết người rồi có quay về? Giữa khuya đêm ấy, ông huyện ngồi một mình trên cái sập quen thuộc ở gian chính. Khác với dáng vẻ ngả ngớn thường ngày, bây giờ lưng ông rất thẳng, chân khoanh rất suôn, mắt mở to nhìn chòng chọc ra ngõ như người điên bị nhập. Rượu chè bà bếp bê lên để cạnh ông không buồn động đến, chỉ bất động ngồi đếm từng khắc, từng canh.. Gà gáy canh ba, ông khum người hất đổ mâm rượu bên cạnh. Chờ? Chờ cái chó gì nữa? Người sẽ chẳng quay về! Chẳng quay về! Ấy rồi nghĩ ngợi sao đó, ông phóng luôn xuống sàn, quên phứt đôi giày ống cao sang quý mà chạy chân đất ra khỏi phủ huyện. Ông chạy thục mạng, thể như có giặc đuổi đánh phía sau, vừa chạy vừa càu nhàu thành tiếng rằng, quan không cho nàng chọn nữa! Người cũng đã là của quan rồi, còn theo nâng khăn sửa túi cho thằng chó nào được nữa, cho dù nó có là con của thầy quan? Cao thượng tác hợp cái chó gì? Quan đây cóc cần! Quan đã cứu mạng nó rồi, tại sao phải đem đàn bà của mình tặng cho nó? Hẳn là lúc ấy quan bị lừa đá lên đầu nên mới để nàng tiễn nó! Chạy đến khúc sông vắng người, ông thở ra lấy hơi rồi rệu rã bổ đến một chiếc thuyền con neo bên lưới cá. Bì bõm đẩy nó ra được vài bước, phía sau đã có người kêu lên thảng thốt. "Quan ông?" Giữa cảnh trời tối om, dáng hình người ấy trong mắt ông vậy mà sáng rực như ngọn đuốc sống. Đã bảo rồi, ông thương nàng đến độ hoang đường, chỉ cái bóng đen sì cũng đủ nhận dáng người thương. Rẽ nước lội lên bờ, ông kéo vội nàng vào lòng, ghì siết, gồng ôm, như kẻ chết đuối vớ được khúc gỗ nổi. Nàng cũng ôm ông lại, đơn giản chỉ vì nàng cảm thấy ông cần. Ấy rồi ông mạnh mẽ ép nàng xuống một bụi cỏ gần đó, cúi xuống hôn ngấu hôn nghiến môi nàng. Cơn môi lưỡi chán chê, ông lại vén váy nàng lên tiếp cơn da thịt. Thời điểm vùi sâu vào giữa đôi chân trần nuột nà, ông gần như ngất xỉu. Ôi là đàn bà sao mà ấm, mà nóng lạ? Ông cứ dồn dập mãi mà chẳng thể nguôi cơn đói khát, cứ thế này thì ông có bị thiêu chết hay không? Có mà sung sướng đến chết thì có. Quan ông đã kết luận như vậy khi rũ người trong sự đê mê sau cuộc mặn nồng, vẫn hôn hít và nhấp nhô nhẹ nhàng như tiếc rẻ hơi ấm má hồng sau cơn điên loan đảo phượng. Mãi khi môi hôn chạm đến chất lỏng ươn ướt nơi khóe mắt nàng, lý trí mới lồng lên tát cho một cú vào mặt. Đau điếng. Rút vội ra khỏi sự ấm áp, ông hoảng hồn bật dậy kéo váy xuống cho nàng, môi không ngừng mấp máy hai từ xin lỗi. Giời ơi đất hỡi, ông lại gây ra tội với nàng rồi.. Đành là ông thích nàng khóc vì mình, nhưng không phải như thế này, giời ạ! Mãi mà nàng không có phản ứng gì trước lời xin lỗi của mình, ông quẫn quá bèn ôm đầu gục xuống giữa gối. Trinh lúc này mới nhìn đến tấm lưng trần đầy vết cào cấu của quan ông, lòng tự biết mình vừa mất đi trinh tiết lần nữa. Lần trước, là tấm thân. Lần này, là tấm lòng. Những dấu vết trên lưng kia chính là minh chứng hùng hồn nhất cho trái tim thất tiết của nàng. Nàng đã muốn người đàn ông này ôm lấy mình, sung sướng thăng hoa khi người đàn ông này chiếm đoạt cơ thể, bất kể cả hai không danh phận, chẳng mối lái trầu cau. Người ta gọi nàng là phường đào điếm lăng loàn, quả không sai chút nào. Ít nhất, nàng không hề hối hận. Khóc, chẳng qua vì nhận thức rõ bản thân mà thôi. Đưa ngón tay chạm nhẹ lên tấm lưng run run của ông huyện, nàng viết. "Về nhà thôi ông, ngoài đây lạnh lắm." Ông huyện ngẩng đầu, mừng rỡ quay phắt lại ừ một cái, rồi họ sửa sang khăn áo đi về. Trên con đường làng thênh thang hun hút, có hai dáng người lầm lũi bước đi. "Cô Trinh có đói không?" ông huyện vừa đi vừa hỏi bằng cái giọng khàn khàn vồn vã. Trinh khẽ lắc đầu, lòng tự nhủ ông quan này chắc lại lên cơn gì rồi, mới quay về gọi nàng bằng tiếng "cô" trịnh trọng. "Quan năm nay cũng ba mươi mốt rồi, hơn cô Trinh tận mười ba tuổi, cô có thấy quan như là trâu già đang gặm cỏ non không? " " " Nhưng thuở vẫn là tài tử Thanh Ba, quan cũng nức tiếng anh tuấn cả vùng đấy, ít nhiều đi cạnh cô Trinh cũng không sợ bị bảo chó ghẻ muốn thịt thiên nga đâu nhỉ? " " " " Thậm chí nho lâm cả vùng còn kháo chúng ta xứng lứa vừa đôi cơ mà. Cô biết chúng ví chúng ta là gì không? " " " " Gian phu dâm phụ, mặt ngựa đầu trâu. " Nàng run chân chực đuối. " Cô Trinh sao thế? "Đưa một tay ra đỡ lấy nàng, ông bỗng nhiên đỏ mặt, ghé đầu hỏi khẽ." Vẫn còn rát à? Hay nàng để quan cõng? " Nhìn gương mặt đỏ ửng của quan ông, nghe chữ" nàng "kéo dài đầy cưng chiều run rẩy, Trinh cảm thấy ù tai chóng mặt, đầu váng mắt hoa. Rát? Rát cái gì? Dĩ nhiên là mặt gấc chín lập tức lắc đầu nguầy nguậy. Ông huyện nhíu mày lẩm bẩm." Vậy sao quan lại rát nhỉ? " Dải lưng bị nàng vò siết trên tay bỗng đâu roét một cái đứt thành hai đoạn. " Ấy chết, ý quan không phải làm chuyện đó cùng nàng khiến quan khó chịu, "ông hùng hổ giải thích." Ngược lại là đằng khác! Quan sung sướng muốn điên lên đây này! " Mặt nàng lại càng đỏ hơn, đầu gằm xuống bước đi như chạy, suýt nữa thì vấp đá ngã chỏng gọng trên đường. Cũng may ông đã đuổi đến, kịp thời níu tay nàng lại. " Chết nỗi! Tối giời mà nàng đi như ăn cướp thế kia, ngã hỏng thân thì quan lại đau đến chết!" Nói rồi nắm luôn tay nàng dắt đi. Đến lúc về đến phủ huyện, nơi đôi bàn tay nắm chặt của hai người, mồ hôi đã rịn ra như tắm. Đời có lắm sự lạ thay, da thịt tung hoành ân ái mới đây, giờ đến nắm tay cũng run lẩy bấy. Cái ấy, người ta gọi là tình đầu. Cái ấy, thằng huyện, con hầu, đều gọi là tình cuối. À mà đối với hai đứa này, tình đầu cũng như tình cuối mà thôi.
VI. Lòng người xô bồ Bấm để xem Ai đã từng trải tình đầu, hẳn cũng biết, nó lâng lâng đến lạ. Ông huyện vùng này, cũng chẳng lạ hơn ai. Tam thập nhất tuế, đã đến hàng ba mất rồi, thế mà ông ta yêu vụn dại, yêu si khờ, yêu hâm dở như mấy thằng đôi tám. Mấy năm trời làm phường giặc cướp đội ô sa, ông đã sớm bị cái thói vung tục của lũ chánh lý quan làng ám cho hỏng mất bộ dáng hào hoa thời niên thiếu. Bây giờ đứng trước người thương, ông lóng ngóng như con vịt lạc bầy, không biết đường lối nào để cư xử như một đấng tài tử phong lưu bóng bẩy. Ví như cái câu "cô Trinh thương quan không," một ngày ông phải hỏi dễ chừng hơn chục bận. Gọi bằng "cô," ấy là vì ông thấy bất an, nên muốn giếm lại hạt thóc để dành khi đói kém. Chứ mỗi lần nàng Trinh bẽn lẽn gật đầu, ông lại chả ném luôn cái bồ chứa thóc ra đồng, sà vào lòng nàng mà vờ vịt thở than. "Nàng ơi quan choáng, nàng ơi quan nhọc.." Rồi có mấy đêm trằn trọc, ông lại mò sang phòng nàng vén mùng chui vào, lén lút thậm thụt như thằng gian phu gặp con dâm phụ. Ấy mà ông nào có gian dâm gì ai đâu, chỉ nằm đấy ôm chặt lấy nàng, quẫn lắm thì hôn hít cọ dụi linh tinh cho thỏa cơn say thịt. Ban đầu Trinh cũng hoảng lắm, mấy lần giật mình súyt đạp ông xuống giường, sau quen dần nên mặc, chỉ là cái thói táy máy của ông nhiều lúc chọc nàng muốn nôn ra máu. Sau mỗi cuộc giằng co giữa tay quan ông và cái yếm đào, hay giữa cặp mông no tròn và đũng quần ướt đẫm; có lần nàng nhục quá sinh cáu, viết luôn một tràng đầy ấm ức thế này. "Quan ông đã muốn như vậy, thì con nằm luôn ra cho ông làm, can gì mà đêm nào ông cũng sang chọc phá con như thế?" Đấy là lần đầu tiên ông nghiêm khắc nhìn nàng, môi gằn lên từng chữ. "Tôi cấm nàng nói năng như thế! Nàng phải nhớ mình không phải là đĩ điếm của tôi! Tôi đã định chừng lên được chức tri châu sẽ xóa tội cho cụ nhà để danh chính ngôn thuận cưới nàng, khoảng thời gian này vì thế không thể làm ra việc đáng khinh với nàng nữa." Ngó sự ngỡ ngàng trên mặt hồng nhan, ông bỗng hơi gằm đầu hổ thẹn. "Nhưng mà.. thương nàng đến cái nỗi này, không cho tôi gần chắc tôi điên mất. Tôi.. đã cố hết sức để không trắng trợn xâm phạm nàng rồi, chỉ mong rằng các đấng bề trên có thể khoan dung cho vài khi nông nỗi.." Trinh ngẩn ra một lúc, chợt cảm thấy nửa buồn cười, nửa thương thương tội tội. Quan ông muốn giữ gìn cho nàng ư? Nhưng nàng còn cái gì đâu mà giữ? Lần thứ nhất thất trinh, lần thứ nhì thất tiết. Thân con gái nhà gia giáo, nàng đã không còn có thể ngẩng cao đầu. Nàng không giống quan ông phải vờ bội phản để cáng đáng non sông, nàng đã thật sự đầu quân cho giặc. Giặc ở đây, chính là sự trắc nết trong lòng. Thế mà, quan ông lại muốn lấy một người như vậy. Trinh thấy vui, thấy cảm động, mà cũng xót xa cho ông lắm. Phải năm xưa không bị ép làm quan, ông hiện đã đề huề con cháu cùng một tiểu thư lễ độ gia giáo, nào có phải nhọc thân vì con đàn bà sa cơ lỡ vận như nàng? Muốn lên được tri châu đâu phải chuyện dễ dàng, không tốn kém vàng muôn bạc lượng, thì cũng phải mưu kế thâm sâu, mà ông thì đủ mệt lắm rồi.. Phải phận đa mang, nàng xót cho ông lắm, nàng không muốn trở thành gánh nặng của ông. Nếu ông đã quyết làm chồng nàng, nàng sẽ một lòng chờ đợi, dù không được cũng chẳng oán nửa lời. "Con và quan ông thương nhau thật dạ. Các đấng bề trên nhất định sẽ hiểu mà," nàng dịu dàng hé miệng mở lời, má đỏ hồng bẽn lẽn nhìn ông huyện. Nàng có thể cảm nhận rõ ràng tim ông đang run rẩy. Vì đây là lần đầu tiên nàng chính miệng nhận mình thương ông. "Gớm đời nhà cô!" ông huyện nhào vào ôm lấy nàng, trán kề trán sẽ sàng lẩy bẩy. "Cứ ăn nói linh tinh, khiến quan phải tội với thần linh mãi thôi.." . . . Rồi đấy, Trinh cứ nghĩ cái phận hèn mọn của mình sẽ vậy mà trôi. Nàng không có lòng trông đợi gì vào lời hứa được làm vợ quan của ông huyện. Không phải nàng không tin ông, nàng chỉ không tin vào lề nước thói làng và lẽ đời cay nghiệt. Rồi nàng lại không tin cả vào chính mình, thân là gái đã mất trinh, làm gì còn tư cách hưởng cái phúc của người trong sạch? Nàng thấy nàng không xứng. Đến cả kiên cường bền chí như ông, còn phải chừa ra cái thòng lọng lơ lửng trên xà nhà phòng khi muốn thoát, một cô gái trẻ như nàng tránh sao khỏi nhiều lúc mềm gan? Đạp lên tiếng đời gai góc mà sống, nói nghe thì dễ, nhưng để làm được việc đó, da chân trước tiên phải hoàn toàn chai sạn. Mà nàng thì vẫn chưa đi đủ nhiều để có được thứ đấy. Điều duy nhất níu kéo nàng lúc này, chính là tình yêu mới chớm dành cho ông huyện. Nhưng thứ nào có chớm, ắt sẽ có lúc tàn. Nàng liệu có thể kiên tâm suốt đời đuổi theo tình ái? Trước mặt quan ông, nàng chẳng hề để lộ ra ngoài những suy nghĩ lụy phiền đó, nàng không muốn ông lo. Mãi cho đến năm bà thái Đinh Văn ốm chết, không muốn ông lo, cũng không được nữa.. Sự bắt đầu từ cái ngày có người báo với ông u ông đã ốm mất, dưới làng Khóa họ đang để tang rình rang vô cùng. Ông huyện lúc ấy đang dùng bữa trưa, vừa nghe đến đó thì đánh rơi cả bát cơm dang dở, mặt mũi trắng bệch nửa đi nửa chạy về phía chuồng ngựa, đến giày cũng chẳng buồn mang. Biết ông định một thân một mình cưỡi ngựa về làng, Trinh không an tâm nên vội vã cắp bừa cái nón rồi chạy luôn ra ngõ. Vừa lúc ông đang phóng ngựa cưỡi đến, không nói chẳng rằng, nàng đưa tay ra, ông rướn tay xuống kéo luôn nàng lên yên ngựa, cứ như cả hai đã định trước nàng sẽ luôn theo sau ông vậy. Về đến cửa lớn nhà họ Đinh Văn thì kẻ có vai vế trong làng đều tụ tập cả đấy; lớp già lớp trẻ kẻ uống, người ăn, đứng, ngồi, lăn la liệt trên những dãy chiếu cạp điều trước gian nhà chính. Mặc kệ người nào người nấy đua nhau chỉ trỏ, ông huyện phóng xuống ngựa ào ngay vào nhà, chưa kịp quỳ xuống vái u thì bác cả và bác hai đã nhào ra túm lấy. "Đây là việc tang của u chúng tôi. Không khiến quan ông phải quỳ! Quan ông dời gót giúp cho!" bác cả nghiêm giọng nói to, đoạn đẩy ông ra ngoài. Ông huyện sụp xuống. "Em lạy các anh! Các anh làm phước làm đức cho em vào lạy u để đẫy tròn đạo hiếu. Tang u xong rồi, các anh muốn đánh, muốn đuổi, em không dám oán trách nửa lời.." Cô tư vừa khóc vừa vội vã chen lời. "Chết nỗi! Quan ngài ơi ông đừng có lạy mà chúng tôi phải tội! Khéo rồi cái đám Tam Giang vệ ấy lại bảo nhà chúng tôi bất kính với quan chức triều đình, bắt hết chúng tôi thì tội lắm quan ơi!" "Hừ! Nhiều lời với thằng chó này làm gì! Để tôi tống nó ra ngoài cho rảnh nợ!" bác hai trừng mắt thét lớn, đoạn hùng hổ lao đến xách cổ áo ông huyện lôi xệch ra ngoài cổng như lôi một con chó hoang lạc bầy. "Đấy! Đây là đất quan đấy, mày muốn quỳ, muốn bò, muốn nằm ra ăn vạ thì cứ việc! Nhưng từ cửa này vào là đất của họ Đinh Văn chúng tao, trước lúc tắt thở u tao đã trối tuyệt đối không để mày bước vào nửa bước! Mày còn nhớ đến cái tình với u thì tuân theo cho!" Thấy cả làng đều đang lố nhố ngóng ra, ông huyện biết các anh vì mặt mũi họ tộc sẽ không nương tình cho mình vào vái lạy, ông chỉ đành nuốt nức nở vào lòng lồm cồm bò dậy, chống chân lên thành dáng quỳ thểu não, chỗ đầu bị đẩy ngã va vào cửa vẫn còn rỉ máu. U của ông, người sinh ra ông, đến lúc chết cũng không bằng lòng tha thứ. Là tội của ông, là nghiệp của ông! Ấy rồi trời động, gió gào, mưa tháng bảy ào ào trút xuống, bọn người làng đang xơi cỗ trong rạp đều chỉ trỏ ra ngoài rồi oang oác kháo nhau; đấy, thấy chưa? Đến ông giời cũng còn thù thằng huyện. Nó vừa quỳ đấy mà giời đã mưa rồi! Nàng Trinh từ nãy đến giờ vẫn đứng ngoài trông ngựa, vừa thấy dấu hiệu sắp mưa thì vội vã quay sang ngóng nhìn bóng ông. Khi giọt lệ trời đầu tiên nhỏ xuống mặt, nước mắt nàng cũng theo đó chảy thành dòng. Ông huyện của nàng, ông giời của nàng.. lại đang thẳng lưng quỳ giữa cảnh trời mưa gió, hệt những con chó đá gác trước cổng đình ngày cả làng mở hội thịt cầy. Dạ nàng xót như bị người lộn ra xát muối, vội vã chạy vào nhà họ Đinh toan mượn tạm cái áo tơi, chân chưa qua cổng thì đã bị một thằng hầu cản lại. Nó nhìn nàng đầy khinh bỉ rồi hét lên rằng; cút đi, con đĩ, ở đây không ai muốn chứa chấp lũ chó phản chủ chúng mày. Phóng mắt vào trong, nàng thấy cả gia đình Đinh Văn đang bình thản ngồi ăn, bác cả còn đứng lên kéo roẹt tấm mành che mưa xuống. Người làng trong cái rạp ngoài chỉ nhìn nàng với vô số nụ cười nhếch lên thành hai từ, "đáng, kiếp." Nàng ngửa mặt nhìn trời - Khốn nạn cái thân ông tôi! Bao nhiêu năm còm cỏi gầy mòn vì bọn chúng, đổi lại chính là hai từ này? Nỗi uất ức phừng phực trong nàng như lửa đỏ ngày hanh; nàng muốn gào, muốn thét lên oan khuất của ông để tất cả bọn chúng biết mặt. Lại chẳng hiểu tại sao chẳng thể thành lời, cục nghẹn trồi lên nơi cổ hệt cái ngày nàng chính mắt trông thấy người ta treo thầy nàng lên cây đa đầu xóm. Nàng uất nên câm, bây giờ cũng thế. Siết chặt tay, Trinh rũ mắt quay về cạnh ông huyện, tháo cái nón thúng trên đầu đưa ra. Thân vẫn chưa là vợ chính thức của quan ông, nàng không dám mạo lễ quỳ cùng, chỉ có thể đứng đó trong bão giông nhạt nhòa che mưa cho quan huyện. Nàng không giục ông quay về, cũng không ép ông nép vào hàng cây bên lề trú nấp. Nàng biết ông sẽ quỳ trước cổng họ Đinh Văn đến hết tang lễ, vì đây là nơi gần nhất ông có thể nhìn thấy u mình. Có hề gì? Nàng sẽ ở cùng ông đến tận cùng giông bão. Gió vẫn thét, mưa vẫn gào, trời vẫn trút hận cho đến hồi tối mịt. Cuộc ăn uống trong đám tang bà thái vẫn chưa vãn đi chút nào. Không phải người ta tiếc mẩu xôi, miếng thịt; mà họ tham cái lẽ sống bầy đàn. Cứ trông mà xem, ông giúp bà xỏ miếng đầu, bà phụ ông xiên miếng sau, chắt chít đua nhau vỗ tay rần rần, "à ôi ông bà xỏ xiên chúng nó thật hay, cháu thích, cháu thích!" Đến cả lão thượng Eo và cụ trùm Thăng thù nhau như chó với mèo cũng rót cho nhau miếng chè trong cuộc vui xỉa xói. Họ bóng họ gió đủ thứ dưới đất trên trời, nào con đào nhà giáo trên tuốt Đông Quan, nào thằng cướp đội mão quan ở trên núi Vĩ. Rồi họ cạn chén khen đối phương ví giỏi, đối tài.. đoạn nhìn ra hai bóng người mờ mịt trong mưa và cùng cười hềnh hệch. Họ sung sướng nhất là những lúc bỗng dưng sáng dạ mỉa được một câu tuyệt cú, cả sạp liền ồ lên tung hô hết lời, ví như bậc thánh sống giời cao phái xuống. Ấy thế là họ phải động não nặn ngay một lời hay mới để tiếp tục được khen, không còn nhớ gì đến hai kẻ ngoài mưa kia nữa. Từ thuở giặc Minh tràn vào làng, đây có thể là lần đầu tiên họ đồng tâm đồng lòng như vậy, tình cảm thiết tha hệt một đám chó chung bầy. Đang lúc người người hăng say, đột nhiên có tiếng bát đánh vỡ cùng giọng cười lè nhè men rượu. Hóa ra là cụ Tỉnh điên nổi danh ngớ ngẩn nhất làng. Cái ông cụ này lại lên cơn gì đây, cớ gì lại phá lên cười như thế? Đã vậy còn chỉ tay lên mẩu trăng đỏ oạch mà nghêu ngao hát rằng. "Trăng kia ngự ở cung Hằng Rọi soi cho rõ một thằng, một con. Thằng phường cướp của dân con Con phường đê tiện bán non thân gầy. Trung, trinh, hai cặp thúng đầy Thằng gồng, con gánh, một bầy coi khinh!" Rồi cụ lại cười sằng sặc. "Cái bầy ấy, giễu thay, chẳng đứa nào gánh đến một phần trăm cái thúng.." Cả sạp người xám mặt. Thơ thì có hay, nhưng câu cuối cùng là ý gì đây? Chẳng trách mà người ta bảo cụ học nhiều quá nên điên, suốt ngày chỉ toàn thơ phú xằng bậy! Phải hợp nhau lại mắng cho cụ tỉnh ra mới được! Nhưng cụ ông đã lăn ra ngủ mất rồi. Mặc kệ! Xung quanh làng xóm hò vào mắng chửi, kẻ bảo cụ già rồi thì chết đi, người dọa cụ nói năng cẩn thận không lại họa đến con cháu, có đứa trẻ còn hếch mũi phán cụ dốt thế này mà bày đặt xưng danh ông đồ.. Mưa, thì vẫn cứ đổ. Lòng người, vẫn cứ xô bồ.. . . . Cái đêm tang lễ dầm dề năm đó, ông huyện có lẽ sẽ quỳ luôn đến sáng, nếu nàng Trinh chẳng đuối sức ngất đi. Nàng bệnh, bệnh liền năm hôm chưa dậy. Trong những ngày ngày, ông huyện lo ngay ngáy trong lòng, luôn miệng tự trách bản thân mãi lo đau thương mà chẳng để ý đến người bên cạnh. Thân gái mỏng manh phải đứng che mưa cho ông từ trưa đến tối.. thê thảm đến cỡ nào? Vì sao ông lại vô tâm như vậy? Cũng may, đến ngày thứ sáu nàng đã tỉnh dậy. Lý do là vì có dì nàng đến thăm. Sự xuất hiện của người đàn bà này khiến nàng Trinh mừng vui khó tả. Cũng đúng thôi, bà chịu đến, nghĩa là cụ ngoại vẫn còn nhớ đến nàng? Nàng không phải là con mồ côi mồ cút bị vạn người khinh bỉ.. Nhưng rồi bà mở lời, và nàng biết rõ mình vẫn phận cút côi. "Hôm trước có lão thượng Chi ở bên làng Khóa sang thăm cụ ngoại nhà cô, lão khen kháy cụ cô có đứa cháu gái vô cùng hiền lương thục đức, đứng cả đêm ngoài giời nhường nón che mưa cho chủ. Tội thân cụ ngoại, nghe xong đến đấy liền thở hồng hộc, ngã lăn ra phản bất tỉnh nhân sự." Mặt nàng đã trắng lại càng trắng, rệu rã đưa tay ra viết lên mặt giường. "Thế ông cháu có sao không hở dì?" "Còn sao nữa?" bà thở dài, mắt rưng rưng sắp khóc. "Cụ nằm mãi từ hôm ấy đến giờ vẫn chưa dậy được, dượng cô và tôi phải thay nhau thức đêm lo cho cụ. Lúc trước chỉ nghe cô bán mình chôn mẹ, cụ dù giận song nghĩ cô bất đắc dĩ nên cũng mặc người ta dè bỉu. Sau lại nghe cô đứng ra hết lòng che chở cho ông huyện, người trong vùng họ có thêm chuyện để đắp để bồi. Họ bây giờ nói, con gái nhà họ Lương Nghị đã bán thân, giờ bán luôn tim lòng cho cho giặc. Chỉ sợ nỗi nhục này quá to, cụ ngoại cô chẳng thể nuốt xuống." Mắt nàng rưng rưng, lệ chẳng bao lâu đã trào ra. "Được sự đồng ý của hai cụ, dì lần này xuống đây là muốn xin cô thương cho cái thân các cụ, cũng thương cho mặt mũi của bọn già chúng tôi. Hãy vớt lấy chút danh giá còn sót lại cho nhà Lương Nghị chúng ta." "Tự vẫn đi, cô Trinh ạ." "Ít ra, cô chết rồi, người ta sẽ nghĩ cô bất đắc dĩ." Trinh cảm thấy sống lưng lạnh toát. Đây là ý của ông ngoại nàng sao? Cái ông lão hiền từ đã xốc nàng lên đôi vai gầy chơi trò cưỡi trâu, cái ông lão phúc hậu vẫn luôn dúi cho nàng miếng bánh cốm đầu tiên trong ngày Tết? Trước khi cắp nón ra về, bà còn rầu rầu nói thêm lời cuối. "Cụ ngoại còn dặn, nếu cô chẳng thuận theo, cụ sẽ xóa tên u cô ra khỏi tộc phả." Cả người nàng run rẩy rụng rời. Giời ơi! Đây là cái lẽ gì? Hổ dữ còn không ăn thịt con, u nàng là con ruột của các cụ cơ mà, hà cớ gì lại xử ác với bà như vậy? Không có tên trong tộc phả, khác gì phường cù bất cù bơ? Chết đi rồi thì cũng là cô hồn vất vưỡng. Sao họ lại nỡ đành? Trinh lại nằm vật ra ốm liền thêm hai tuần, thuốc thang gì đều không công hiệu. Ông huyện quẫn quá, mời luôn cả bà đồng về gọi vía, ông thầy về trừ ma, tám cách thiêng mười cách tà đều đem ra dùng hết. Thế mà cái căn bệnh quái ác của Trinh cứ như đỉa đeo bám, rút cạn máu rồi mà chả chịu nhả ra cho nhờ! Mãi cho đến khi có vị sư già từ đất Bắc đi ngang qua, ông chỉ ngó người bệnh hồi lâu rồi buồn bã lắc đầu. "Người đã không thiết sống, không thể chữa." Thiền sư đã rời khỏi lâu rồi, người ta vẫn còn nghe tiếng ông huyện gầm gào; lý nào lại thế, lý nào lại thế? Nhưng hỡi ôi.. Lý của những kẻ trung trinh, là phải như thế. Trinh biết mình chết rồi, vì nàng đã chẳng còn nghe ra tiếng ông huyện gầm gào mắng trời chửi đất, xung quanh chỉ còn sự im lặng nặng nề, đến cả bầu trời cũng tối đen như mực. Nàng tung người leo lên một con ngựa ô, lòng có chút hoang mang vì không thấy quỷ sai đến đón như trong các câu chuyện cõi âm của người già hay kể. Lại nhớ, chẳng phải chỉ những kẻ sinh thời có công với dân, có đức với nước, mới được ngựa âm phủ đến đón hay sao? Con ngựa ô đưa nàng qua trùng điệp núi sông, vượt qua một cái cổng đến một con suối cửu sắc. Nàng chậm chạp bước xuống con thuyền đã đợi sẵn, tức thì gió từ đâu ập lại đẩy nó tròng trành xuôi dòng, chẳng biết qua bao lâu mới đến gần hạ nguồn con suối. Xa xa thấp thoáng hai bóng người đứng đợi. Nàng xúc động đến rơi nước mắt, miệng mấp máy ba chữ, thầy u ơi.. Hai cụ dang rộng vòng tay rồi mỉm cười. Thời điểm tay rướn ra toan chạm vào sự giải thoát bấy lâu khao khát, nàng lại nghe được tiếng khóc nỉ non. Nó nghẹn ngào, nó héo hon, nó hao mòn như tiếng đàn bà hiếm khóc tang đứa con cầu tự. Mà nó, lại thoát ra từ một gã đàn ông. Kẻ ra đi thoát kiếp long đong, người ở lại ngàn thu trống rỗng. Rồi trong những đêm dài, còn ai khóc cho thằng huyện bây giờ? Quỳ sụp xuống trên thuyền, nàng Trinh thổn thức, thầy u ơi, hãy tha thứ cho con.. Thầy u đã sinh ra con, nhưng kẻ ấy mới là người giữ con sống sót. Chữ trinh hiếu khó đặng vuông tròn, con chỉ đành mang tội.. Hai cụ thở dài bước đến bên nàng. Bà nâng, ông dỡ cái đòn gánh trên vai không biết tự khi nào đã nằm dài ra đấy. "Con gái nhà Lương Nghị ta ơi, dẫu mãi mãi chẳng thoát kiếp gánh đời, nhưng phải ngẩng cao đầu mà gánh." Ngậm ngùi dặn dò xong, cụ Nghị Quế đẩy con mình rơi lại xuống dòng, cái dòng suối ngược xuôi như đời người xuôi ngược. Làm cha mẹ, nào ai lại muốn con cái phải mang vác tội nợ vào thân? Chỉ muốn ích kỷ giấu nó vào lòng để nó được bình an cái phận. Nhưng rồi có lúc, cũng chỉ có thể để nó dấn thân đặng mà sống, sống cho đáng kiếp người chìm nổi phù hoa. Hai ông bà già, chỉ còn nước ngồi đây tiếp tục đợi.. Hỡi ôi.. tấm lòng của những bậc cha mẹ trên đời! Đôi lời tác giả: Đọc đến đây hẳn sẽ có bạn cho rằng nàng Trinh "thánh nữ" và cố chấp, có mỗi cái chuyện mất trinh (còn với người mình yêu) mà cứ đay nghiến bản thân miết, cuối cùng còn tự tử vì nó, hỏi có khùng, có dại không? Nhưng tui đã nói rồi, tui dựa theo tâm lý người thời đấy mà viết, chứ không phải giới trẻ hiện dại bây giờ. Chữ "trinh" ngày xưa nặng lắm các bạn ạ, cái này không cần tui nói thì ai cũng biết. Sự dằn vặt của nàng Trinh cũng từ đó mà ra, không phải chỉ do e sợ miệng đời, mà còn vì giáo dưỡng gia đình đã tạo ra con người nàng như thế. Con người thời đấy người ta sống và chết vì danh tiết họ tộc, dù việc đó đã tạo ra nhiều cảnh trái ngang, nhưng cũng sinh ra không ít những tích sử vẻ vang hào hùng. Tui viết truyện này không phải để bôi bác những giá trị cũ xưa đó, mà muốn mượn cái cổ kính để đả kích hiện tại, nên mới phải lôi những góc tối ra mà bàn. Còn góc sáng, bạn vẫn có thể tìm thấy những câu chuyện khác của tui, như Cái Áo Duyên, hay Tình Nghĩa Đồng Đạo. Tình làng nghĩa xóm trong ấy, vẫn được khắc họa rất mặn mà, ấm áp:) Còn một điều nữa, về mặt ngôn ngữ, tui đã search và hỏi rất nhiều, nhưng cũng không chắc từ "đĩ" và "điếm" có xuất hiện ở thời này chưa, bạn người Bắc nào biết thì báo tui với nha, hoặc biết thời đấy họ dùng từ gì đồng nghĩa cũng được. Nhiều lúc muốn vác thân ra Bắc ở vài tháng ở vùng quê nào đó để "thấm" cái ngôn ngữ ghê, rặt miền Tây mà muốn viết văn Bắc sao mà khộ quá..
VII. Xứng lứa vừa đôi Bấm để xem "Quan ông ơi, cơm đã dọn xong rồi, xin ông hãy dùng cho vài miếng.." "Quan ông ơi, cũng đã ba ngày rồi, ông hãy thả bà ra đi.." "Quan ông ơi, ông định nằm miết.. với cái xác ấy đến chừng nào?" Trinh nghe rõ ràng ràng lời của bà bếp cứ cách một hồi lại vang lên đứt quãng, nàng muốn mở miệng song lại lực bất tòng tâm, toàn thân rệu rã như bị bóng đè, đành chỉ biết nằm ì ra đấy để quan ông ôm siết. Ông chải tóc vấn khăn cho nàng, có khi lại lau chùi mình mẩy rồi thay vào đồ mới, chăm chút tỉ mỉ không khác gì người ta trông con nít sốt ban. Ấy mà ông cũng chả đi đâu, chỉ nằm lì ra đấy ôm nàng, hết vuốt tóc rồi lại vuốt lưng, hết hôn môi rồi lại hôn má, hết áp trán rồi lại rúc rích vào cổ, cứ như con gà mái ấp ủ cái trứng ung chờ ngày nó nở vậy. Thế rồi đến một ngày, cổ nàng chợt ướt đẫm. Ông sụt sịt buông nàng ra, lừ đừ đứng dậy kéo đến cái tráp gỗ đầu giường. Sau rồi ông đi đâu đó lâu lắm mới về, cả ngày hôm sau bên tai nàng không lúc nào ngớt các thể loại âm vang của bầy người hò hét. Nào vác cái này, nào nâng cái kia, nào khiêng cái nọ.. phải chừng nửa ngày sau mới im lìm lại. Hết cuộc dọn nhà, lại đến cuộc bày cỗ, nàng nghe tiếng bà bếp cả buổi không ngừng thét mắng, thúc giục đám con hầu nhanh tay chóng chân lo việc bưng mâm, châm chè, giết lợn.. Rồi ông huyện ngồi xuống bên giường, đích thân lau rửa thay đồ, trang điểm, vấn khăn, đeo vào vòng vàng nữ trang cho nàng, đâu đó xong xuôi mới ra ngoài đón khách. Trinh chỉ thắc mắc, cớ gì ông không bế xác mình ra gian chính khâm liệm? Hay vì thân phận của mình quá thấp hèn? Mà thôi, đám tang mình rình rang như vậy, ông xem như đã cạn nghĩa với mình. Ấy rồi cuộc vui tiễn người chết diễn ra từ sáng đến tối, mà họ vui cũng đúng rồi, con đĩ hầu giặc của làng họ đã chết, nỗi nhục lớn nay đã tan, còn gì mà không vui? Không biết cụ ngoại nhà nàng có đến thắp cho vài nén nhang không nhỉ? Mãi nghĩ vẩn vơ, đám tang đã tàn tự lúc nào. Nàng biết thế vì lũ dế đã bắt đầu râm ran như con đào hát xướng. Quan ông nhanh chóng quay vào ôm nàng, có lẽ là muốn kề cận người thương trước giờ hạ huyệt. Hôn hít chán chê, ông liền nhẹ nhàng đặt nàng nằm xuống, tiếng tráp gỗ cạ vào mặt giường lại vang lên cót két. "Nàng ơi, tôi thật có tội với dân mình.. Nhưng tôi mệt quá rồi, không thể tiếp tục nữa.." Câu nói này.. nghe sao mà quen thế? Trinh hoảng hồn nhớ lại cái đêm định mệnh năm nào, trong lòng ra sức thét gào, không được! Dùng hết sức bình sinh của thai mệnh phá bào chui ra, nàng nặng nề hé mở đôi mắt, quả nhiên trông thấy người đàn ông khăn áo chỉnh tề đang thò đầu vào thòng lọng, mắt nhắm nghiền. Không được. Không được! "Không được!" Cuối cùng thì cũng thều thào thành tiếng. Bốn mắt nhìn nhau, nàng nhươn nhướn khóe môi. "Quan ông bỏ cuộc rồi, con còn biết sống với ai?" Nghe nói đêm đấy, có ông quan mừng quá nên luýnh quýnh tay chân, lỡ đá ngã cái tráp kê mình nên suýt bị thòng lọng siết chết. Lại nói ở thời điểm hiện tại, nàng Trinh đang phải cố hết sức liễu yếu của mình ôm lấy đùi ông huyện, chừng đến khi ông thành công thoát đầu ra khỏi thòng lọng thì nàng cũng đuối sức, cả hai ngã lăn kềnh ra giường. Bà bếp và đứa hầu thấy động liền chạy vào, thấy cái xác lạnh giờ đang mỉm cười để quan ông đỡ dậy, cả hai xám ngoét mặt mày tháo chạy ra ngoài. Thoang thoáng bên tai, còn có tiếng họ vọng lại. "Bớ làng nước ơi, người chết sống lại! Đám cưới ma làm người chết sống lại!" Rục rịch trong vòng ôm siết của ông, Trinh ngẩng đầu khẽ hỏi. "Đám cưới ma?" Ông gật đầu với cặp mắt đỏ hoe, đôi bàn tay áp chặt má nàng mừng mừng tủi tủi. "Ừ, cưới rồi, tôi cưới nàng rồi, nàng giờ là bà huyện rồi." Thấy nàng ngớ ra một lúc rồi dang tay nhìn áo đang vận, mắt dần đỏ lên chừng như sắp khóc đến nơi. Sợ nàng mới tỉnh không nên xúc động, ông vội áp trán thì thầm một cách khôi hài. "Quan sợ xuống đó gặp nàng mà chưa có danh phận, nàng lại không cho quan chui vào mùng." Ừ thì nàng đỏ mặt ngượng ngùng, nhưng khóc thì vẫn cứ khóc, cho đến lúc bụng nàng quặn lên nôn liền mấy chập mới nín được. Dọn dẹp phòng ốc xong xuôi, ông huyện lại lăng xăng chạy ra bê một mâm đồ cúng vào để hai vợ chồng lấp bụng. Từ lúc nàng lăn ra chết đến giờ, ông có bỏ bụng miếng gì đâu, cả ngày hôm nay làm ông rể ma cũng chỉ toàn uống rượu sầu, bụng dạ bây giờ quặn thành một nút. Thôi thì nhân lúc bà dâu ma đây đội mồ sống dậy, hai ông bà cùng nhau ăn một mâm cỗ cúng cho ấm cái lòng. Cuộc ăn chán chê, lại đến cuộc nằm, ấy là cái quyền ăn nằm của người đã cưới, thôi thì chẳng có gì đáng phải chê cười. Ông bảo nàng vừa mở mắt thì đã thành vợ quan rồi, chưa kịp có người sang mối lái chi cả, liệu có uất ức gì chăng. Nàng chỉ tay lên trần nhà mà rằng, có ạ, con uất cái thòng lọng kia đấy. Thế là, ông đã nằm rồi lại phải đứng dậy, leo leo trèo trèo tháo dây quăng xuống. Ném vật đi rồi, nàng quay sang đỏ mặt sẽ sàng. "Có vợ rồi, quan không cần đến nó nữa đâu." Ừ thì quan cần cóc gì cái vật khô khan lạnh lẽo ấy nữa. Hiện tại, quan chỉ muốn chú tâm vào việc "nằm" làm sao để ép nàng bỏ thói xưng "con" với chồng. "Nằm" đến già nửa đêm, nàng bỏ thói ấy thật. Một chữ "chàng" buông ra giữa cơn mặn nồng, ông gần như bật khóc. Đời thằng huyện.. cuối cùng đã là chàng của một người đàn bà. Nhìn cây nến thờ người phương Bắc hay dùng trong các đám cưới ma lập lòe trên văn kỷ, nhớ lại những suy nghĩ lụy phiền của hai lần cùng quan ông chung chạ, nàng Trinh chợt thấy lần thứ ba này mình cũng mất toi một thứ rồi. Mất ngủ. Ôi là.. bây giờ nàng mới thấm thía những câu ca gió của mấy chị mới chồng ngày xửa xưa ấy. "Thương chàng, mất ngủ thâu đêm Chàng thương, chàng bảo, nốt thêm hai lần. Một, hai, rồi đến ba lần Chàng thương, chàng bảo, chẳng cần ngủ luôn!" Rồi thì vợ chồng thằng huyện vẫn thường mất ngủ, nhưng cũng chẳng phải vì cái sự ăn nằm của con nhà mới yêu. Đời mà, có khối sự khiến con người mất ngủ ra đấy. Ví như cái sảnh trống hoác của nhà quan huyện vậy. Thì ra, để lấy được nàng, ông đã bán hết ruộng vườn và đồ đạc trong phủ nhà, bòn được một trăm hai mươi mốt quan, đem một phần ba sửa trăm mâm cỗ để thết họ hàng làng mạc, còn lại kính dâng cho đức ngài Hữu tham sứ. Lão này cũng là tay tham có tiếng, nếu là bình thường để xóa tội cho nho sĩ mắng mỏ triều đình, lão có lẽ sẽ đòi tên quan huyện tận cả ngàn quan, nghe bảo nó lắm của cơ mà? Ngặt vì con gái lão năm xưa quyết chết cũng không lấy người ta dù lão đã gạ gả, xét về mặt mũi giờ lão cũng nợ nó một bề, bèn cứ đồng ý cho xong. Đến lúc sự đã rồi; lão cùng mấy gã tri châu, chánh lý đến dự đám cưới thì mới ngã ngửa ra là nó lấy người chết! Ôi giời ơi đất hỡi, lúc ấy lão và chúng sợ đến muốn són ra quần, cả lũ toan bỏ về lập tức. Ngặt nỗi có vài ông quan nhà Minh thấy sự lạ cũng xúng xính áo mũ đến dự, lão mà bỏ về chẳng khác nào đang nhạo họ? Hóa ra cái sự rùng rợn này với họ vẫn bình thường, ở bên ấy thỉnh thoảng vẫn có nhà làm thế, khách khứa đến dự nghe bảo còn phước lộc đầy nhà. Thì thôi, cứ dự vậy, xem có cái phước, cái lộc nào không. Mà lão đã mạo hiểm dấn thân thì đố có đứa nào được thoát, thế nên họ hàng hai bên của làng Khóa và Ẻn ấy, lão xui bọn vệ binh kéo hết cả lên đây. Đám cưới thì phải có hai họ mới ra cái trò chứ nhỉ? Ai đâu mà trách lão được? Cho nên mới ra cái đám cưới ma linh đình nhất Thanh Ba năm ấy. Bà huyện nghe kể nguồn cơn xong, ngó đến quang cảnh trống không của nhà chồng, không nén được tiếng thở dài ảo não. "Của tích cóp bao năm để phòng khi dân nạn cũng đem ra xài hết, nhỡ sau này có gặp biến thì lấy đâu mà lo? Đáng ra chàng không cần tổ chức rình rang như vậy.." Ông huyện vuốt tóc vợ mà rằng. "Không làm thế thì làm sao thiên hạ biết nàng được chồng thương, chồng trọng? Huống hồ phải như thế mới kéo được lũ người Minh và lão tham chính đến đây, ấy rồi họ mạc hai nhà bắt buộc phải khăn áo đến dự. Con gái lấy chồng mà không trưởng bối đến thăm, chẳng họ hàng đến chúc, người lớn bên chồng không ai đem cho bộ thoa, cái vòng.. thì tủi thân nàng lắm.." Dẫu lúc ấy.. nàng chỉ là một cái xác sao? Ông thương nàng thế nào, mới sợ nàng chết đi cũng còn phải tủi? Trinh nhỏ lệ trong lòng, khẽ kêu một tiếng chàng ơi.. Xong rồi đến cái đám ông giời bà đất trong làng, những kẻ mà suốt ngày lo sợ nàng chính là quỷ nhập tràng, có ngày sẽ trỗi cơn đói thịt luôn trẻ con làng họ. Họ cứ nói mai nói mãi, nói đến độ có lúc nàng thật sự nghĩ mình sẽ biến thành thứ quỷ ma tham ăn lòng người đó, lúc nào dùng cơm cũng cố tình tránh các món lòng ra. Thế mới thấy sự lợi hại của miệng đời. Nó khiến cho con người ta đến bản thân mình cũng sinh nghi kỵ. Nhiều khi có con gà bị cáo tha mất, con lợn để qua đêm bị trộm khoắng bộ lòng, họ cũng quy cho nàng đã ra tay, vì ngại quyền quan nên họ chẳng dám đem kiện. Mãi đến lần có đứa trẻ nhà phú hộ bị mất tích hẳn ba ngày, nhà kia ức quá bèn đổ tiền tài đem chuyện thưa lên tận phủ. Đợt ấy rùm beng cả một vùng, chứng cứ liên can như cái quần dính máu và đôi hài lấm bùn cứ lần lượt bị dân chúng lôi ra, ai nấy đều đinh ninh con huyện kia chính là quỷ nhập tràng ăn mất đứa trẻ. Đến cả quan ông cũng đòi dựng đài thiêu sống nàng. Nào ngờ chưa đầy một ngày, đứa trẻ kia đã được tìm thấy. Lính khám xét cũng nói rằng cái quần là dính máu nguyệt đàn bà, còn hài nọ lấm phân voi bị tiêu chảy. Ông tuần phủ thẹn quá, lôi nhà đi kiện ra đánh luôn một hồi, đoạn cấm tất cả dân chúng không bao giờ đá động tới quỷ ma chi nữa. Dĩ nhiên, so với quỷ, dân lại sợ quan hơn. Thế là từ đó cũng không còn quỷ nhập tràng trong nhà quan huyện. Mãi sau nàng mới biết, việc đứa trẻ bị lạc kia chính là đức ông chồng nhà mình ra sức sắp bày, như một đòn phủ đầu cho những gì có khả năng xảy ra nếu họ cứ liên tục quy tội cho nàng từ năm này qua tháng nọ. "Thật ra, họ cũng không nói quá.. Năm đó em thật sự đã cải tử hoàn sinh, nôn lần đầu tiên ra bùn đất và rong rêu, tính ra cũng là điều rùng rợn. Nhiều lúc em trộm nghĩ.. có lẽ mình thật sự là quỷ cũng nên.." "Thì đã sao?" Trinh đã nghĩ đến ông sẽ bảo ông tin nàng không phải quỷ ma, hoặc mắng nàng nói năng bậy bạ, nhưng lại không ngờ là ba chữ bất-chấp này. Thể như ông đã sớm nghĩ qua nàng là thứ uế tà, và đã từng cam tâm chấp nhận. Ba chữ thôi, nó đơn giản như miếng cà, bát mắm; ấy mà nặng đến làm đắm tim nàng. Rồi ngày lại, ngày đi, năm về, tháng đến, bà huyện vẫn tiếp tục cái nghiệp đắm đuối đức ông chồng, ông huyện vẫn kiên trì cái thú trông vợ mình đắm đuối. Người ngoài nhìn vào, họ vẫn mắng vợ chồng thằng huyện là phường vô lương, nhưng cũng phải thừa nhận chúng sao mà thương nhau quá. Có lần ông huyện lần nữa cõng nàng Trinh trên con đê ruộng nhớt nhầy ẩm ướt, nàng chỉ khẽ đảo mắt lướt một vòng những địch ý xung quanh, phụng phịu áp má ông mà rằng. "Họ lại giễu chúng ta là hai đứa chó săn nữa đấy chàng ạ. Chúng ta vợ chồng đã mấy năm trời, có còn lẻ đâu mà gọi ngông như thế!" Ông huyện cười khì. "Thế quan bà vẫn căm cái đôi chữ 'hai đứa' ấy à? Vậy theo quan bà, họ phải gọi gì mới đúng ạ?" "Đôi cẩu nam nữ." Thế là người ta lại nghe ông huyện hềnh hệch cười to, vừa cười vừa ngâm thế này. "Thói gì thói lạ gì đâu, Mắng đơn chẳng chịu, quyết cầu mắng đôi. Người ơi đũa phải có đôi Dầu nhơ dầu mốc phải đôi mới vừa!" Ấy chết, rặt một đôi không biết xấu hổ! Nắng đổ lên thềm, trăng vương trên ngọn, năm lại tháng qua, đôi cẩu nam nữ này vẫn không biết xấu hổ như vậy đấy, riết rồi họ cũng mệt mỏi với cái nghiệp mắng người cứu nước của mình. Thôi thì chẳng rủa xả chúng nó hằng ngày làm chi cho nhọc, cứ giữ lại đấy dạy cho đám trẻ con để mai sau chúng lớn thành người chính nghĩa là được rồi. Cứ rồi xem, nanh nọc lắm vào cũng có giời trừng trị, lấy nhau non mười năm rồi mà chẳng có nổi một mụn con. Đấy, là giời cao có mắt. Ngày chải tóc thấy lược vương vài sợi bạc, ông huyện thở dài hỏi vợ. "Tôi đã già rồi, mai sau chắc sẽ đi trước nàng một quãng, ấy mà chẳng thể để lại cho nàng một đứa con vui cảnh xế chiều, nàng có oán tôi chăng?" "Ấy cũng là ý của em, sao lại oán chàng cho được?" bà huyện buồn bã lắc đầu, cầm bát chè quân dâng lên cho chồng, đoạn phóng mắt ra cảnh vườn xơ xác mà than. "Thời buổi đói kém, lắm nạn lưu vong, làm con của bậc trung lương còn nhiều đường cực khổ; huống hồ là con của thằng huyện, con hầu. Sinh nó ra rồi lại bắt nó gánh tiếng nhơ con nhà đĩ đào bán nước, bị người ta khinh rủa cả đời, có cha mẹ nào lại nhẫn tâm như thế. Thôi thì đành vậy, chàng à." Ông siết tay nàng, sẽ run giọng ngậm ngùi. "Chờ ngày đất nước thanh bình, ta lại sinh, nàng nhé!" Ông và nàng đều biết, đấy chẳng qua chỉ là lời tự an ủi mà thôi.. Hóa ra, cái tội không con, đều là do miệng đời; chứ trời có mắt hay không.. cũng nào buồn nhìn xuống? Suốt mấy năm nay, cái nghiệp quan tham của ông ngày càng khó gánh. Vì dân bị xâm lăng thì cứ như bãi đất màu mỡ vào tay kẻ dở việc ruộng đồng. Cứ bòn, cứ mót, cứ thu hoạch mà chẳng biết bón phân, chăm bẵm.. thì màu mỡ cỡ nào cũng đến hồi cạn kiệt. Dù triều đình Đại Minh sợ loạn phản nên cả năm nay cũng có chính sách an dân, song đó là chính sách nổi của triều đình, chứ còn chính sách chìm của bọn quan chức Giao Chỉ thì không như vậy. Ông huyện và vợ mình dù đã vắt kiệt óc, cũng không thể ngăn nạn đói xảy ra, chỉ có thể cắt xén vài món sưu vặt vãnh, khiến cho ít ra ở Thanh Ba, người ta không đói như các nơi khác. Nhưng đói thì vẫn cứ đói mà thôi. Năm ấy không được mùa, người ta bắt đầu từ đói chuyển sang một giai đoạn khác khốn nạn hơn, chết. Các cụ già là lớp ra đi đầu tiên, một cách tình nguyện. Già rồi, còn tranh ăn với lũ trẻ làm gì, chết đi để cháu con còn được sống. Nhìn cái xác già đong đưa dưới thòng lọng, ông huyện siết tay vợ mình đến gần gãy vụn. Có hai đứa bé khóc nháo trong sân, bà mẹ vội vàng nhào đến ôm chầm chúng nó, nước mắt sụt sùi điên dại hát to; con ơi nhớ lấy cho rằng, cướp đêm là giặc cướp ngày là quan.. Đẩy mụ vợ và hai con vào nhà, gã nông dân tái mặt quỳ sụp xuống. "Con lạy quan ông, vợ con nó đau thầy chết nên hát dại, quan ông đừng trách nó!" Ông huyện không nói gì, lặng lẽ quay đầu ra khỏi nhà đó, tay vẫn nắm chặt lấy tay vợ mình, vẳng lại phía sau vẫn là tiếng người đàn bà than mãi câu hát, cướp ngày là quan, cướp ngày là quan.. "Cướp ngày là quan, cũng đã đến lúc rồi, chàng nhỉ?" bà huyện sẽ hỏi. Ông huyện sững người, giương đôi mắt hồng pha giữa ngạc nhiên và cảm kích nhìn nàng, ấy rồi đằm xuống thành loại cảm tình sâu nặng. Ông nhoẻn môi cười. "Nàng vẫn hiểu quan như vậy, vợ ơi.."
VIII. Kết cục Bấm để xem Mùa xuân năm ấy, cả cái huyện Thanh Ba nháo nhào cả lên. Sự là, ông huyện của họ bị bắt rồi. Cái lý do bị bắt thì hoang đường phải biết. Cướp thuế! Thật! Cái ông lý Chả lại chẳng đang cho lính đi hò reo khắp xóm tội trạng của quan huyện nhà này? Nào cấu kết với bọn cướp núi Thắm cướp sạch thuế ruộng năm nay cứu dân thoát đói, nào lén thả thằng tội đồ nhà Nguyễn Vi ra đầu hàng quân phản, nào lén lút từ từ độc chết ông tri châu Tam Giang, nào cắt xén các món sưu của làng để thông qua thằng cai Vi Đại phát cho dân nghèo.. Rồi ông cho lính gọi hết dân ra sân đình, bản thann dạng chân ngồi giữa ghế ngựa mà ha hả khoe khoang. "Này nhá, ông nói cho chúng mày biết, công đức của ông sáng như sao giời, phen này thì đừng nói quan huyện, tri châu ông làm dễ như chơi! Mấy năm giời ăn gió nằm sương, nhịn nhục luồn cúi thu gom tội trạng của thằng cáo già nhà Đinh Văn ấy; cắm vào người này, nó lại thay người khác, đem chuyện lên châu cáo, nó lập mưu giết cả ông châu! Cực như chó chứ chẳng chơi! Ấy vậy mà tao lại làm được đây này, ông lý chúng mày tài giỏi phải biết! Thế mà ngày xưa người Minh lại gạt qua tao chọn thằng Trung làm quan huyện. Giờ thì đẹp mặt cả lũ chưa?" Nói rồi, ông lại vỗ đùi phớn phở cười to, đoạn tiếp tục câu chuyện về cái sự tài giỏi của bản thân. Ông khoe mình thông minh cái thế, thấy quan huyện thua tiền mãi ở chỗ Vi Đại, mà nhà thằng đấy cũng mãi chẳng giàu liền sinh nghi. Rồi đến một lần có người họ hàng từ Nam vào tình cờ nhắc đến cái tên Nguyễn Vi Khê, ông lại càng nghi ngờ, sau cái chết bất ngờ của tri châu thì càng chắc chắn. Cho đến cái lần thuế lương của huyện trên đường về phủ tự nhiên bị cướp, ông cho người giả làm nạn dân đi sâu vào núi tìm hiểu, rốt cục nghe được lũ cướp gọi ông huyện nhà là người trung lương; ông lý làng này mới ngửa đầu cưới rú lên, vì biết lần này ông thắng chắc rồi. Gom hết chứng cứ phạm tội, ông đệ lên phủ để tố cáo Đinh Văn Trung, lần này phải cho nó đầu bêu thị chúng! Cả họ Đinh Văn chúng nó đố thằng nào thoát cảnh gông cùm! Từ trong đám đông lúc ấy, một bóng người lén lút lỉnh ra, sau đó chạy ào ào về bên làng Khóa, vừa chạy vừa sung sướng hò reo thế này. "Bớ làng nước ơi! Thằng ba Trung nhà tôi nó là tội phản nhà Minh! Bọn lính Minh sắp cùm cả nhà tôi rồi! Cả nhà chúng tôi sắp phải ở tù rồi!" Mãi một hồi sau, người ta mới nhìn ra ấy chính là bác cả nhà Đinh Văn. Ấy rồi người ta thấy bác í ới gọi bọn thằng hầu đi báo tin cho các cụ, các nhà họ mạc gần xa, nhắc trai đinh nhà họ khăn áo chỉnh tề ngồi chờ lính đến bắt. Nhìn cái dáng vẻ hớn hở, vui mừng của bác cùng người nhà, người ta còn tưởng họ sắp sửa được lên huyện ăn cỗ mừng gì sang quý lắm. Làng Khóa vào chiều hôm ấy nhộn nhịp đến lạ, người ta đổ ra đường trông theo cái đoàn bắt tù kỳ lạ nhất thế gian. Những gương mặt trai tráng ngẩng cao đầy hân hoan, những vạt áo the thâm trang trọng phảng phơ trong gió, từ cụ thượng đến thằng đinh, ai nấy đều nói cười râm ran, dáng đi hiên ngang như quan nghè ra đường cái của làng. Họ ngâm thơ, họ đối hát, họ ưỡn ngực kể cho dân hai bên đường nghe cậu ba nhà họ phản giặc như thế nào, giết thằng tri châu ra sao, anh dũng vô song chẳng kém ông Đinh, ông Đổng. Nào có phải họ chẳng sợ cảnh chết trong tù và đòn roi trong ngục. Họ sợ chết khiếp đi ấy chứ! Nhưng họ sợ nhất, vẫn là sự rẻ khinh của người đời. Dù đã ra mặt chống đối kẻ phản bội, nói cho cùng họ cũng cùng họ với người, tránh sao khỏi sự kỳ thị và phân biệt đối xứ? Gần hai mươi năm nay, cứ là người Đinh Văn thì đến đâu cũng gặp cảnh khó xử, người hiền thì họ xa lánh, người ác thì họ sấn vào móc mỉa, ăn cỗ trên đình thì không họ nào chịu ngồi cùng, việc làng nhỏ to đều không ai cho gọi, đến cả dựng vợ gả chồng cũng phải sang các làng xa mà mai mối, vì gần đây thì người ta khinh nên không ai chịu gán duyên cho. Chữ trung tuy của một người, cả họ đều phải gánh. Ấy mới thấy miệng đời nó lợi hại thế nào, khiến cho một họ gần cả trăm người coi thường luôn mạng sống chính mình. . Thu Phân năm ấy, có tin từ phủ Tam Giang truyền về, đầu đông sẽ chém Đinh Văn Trung. Cuộc chuyện lại bắt đầu rôm rả. Kẻ khóc, người than, người đòi làm cỗ cúng quỷ thần giúp đỡ quan ông thoát hiểm. Nhưng đấy là lời của những người bần khổ thật thà, vai vế trong đình không cao thì ai thèm để ý? Thế là cả làng lại hướng sang những ông đồ đức cao vọng trọng, những ông trò bụng đầy chữ nghĩa kinh thư. Các ông này thì lại càng rối ren, cãi vã hơn nửa ngày liền chia phe chia cánh. Đám thì nói ông huyện bấy lâu nhẫn nhục phụ trọng, đầu quan cho người nhưng lòng luôn hướng về dân về nước, là bậc trung lương đời này hiếm thấy, tất cả chúng ta cần phải nổi dậy đi cứu ông ta. Đám kia nghe xong khinh khỉnh cười to, mắng rằng chúng mày còn ngu hơn con chó, tất cả những chuyện này chỉ là một cái bẫy, một âm mưu thâm hiểm của giặc Minh bày ra để bắt trọn ổ những kẻ chống đối mình. Cứ xem thằng huyện mà xem, bị bắt già nửa năm rồi mà vẫn còn sống nhăn răng, có ai tội phản mà được giữ sống lâu như vậy? Đã thế con vợ nó còn được thằng quan nhà Minh cho dựng chòi sống gần quan ngục, ngày qua ngày lại cắt cử lính lác đến trông chừng. Có thằng tội phản nào mà được xem trọng đến thế? Chúng nó nhất định đang cấu kết với nhau diễn ra cái tuồng này dụ chúng ta vào tròng! Cự cãi đến chập tối thì hai bên đã đến hồi sôi máu nên lao vào đánh nhau chí chóe. Kẻ thì hét mày là thằng hèn nhát, người lại la mày là đồ ngu si, cảnh tượng cả cái làng nổi danh văn hiến đè nhau ra sân đình đánh đấm thật là lạ lùng quá đỗi.. Mãi cho đến khi có tiếng trống chầu cất lên giòn giã, cuộc chiến mới tạm dừng, ai nấy đều ngỡ ngàng quay sang nhìn kẻ vừa đến. Ra đó là cụ Tỉnh xóm Đông, ông già điên hay nói lời xằng bậy của làng. Các ông sĩ tử đã toan lờ đi cụ ấy, ngặt vì cụ là bậc cao niên, dẫu có điên thì cũng hàng cụ hàng ông, lễ nghĩa nho gia bắt buộc họ phải kính cụ một phần. "Lạy cụ ạ, chỗ này đang có cuộc sĩ chiến xảy ra, cụ tránh xa xa để đỡ dây vạ vào thân cụ ạ," một anh trò bị bầm bên mắt kính cẩn nói to. "Sĩ chiến?" cụ Tỉnh phá lên cười hềnh hệch, vẫn cái giọng cười sỗ sàng, hoang dại xưa nay. "Nào tôi có thấy ông chiến sĩ nào đâu? Chỉ có một lũ chó cái đang cắn càn mà thôi." "Ơ kìa cụ!" Cả bọn mặt đỏ tía tai nói không thành lời, có tên còn toan lao lên thịt luôn ông cụ. Nhưng cụ này cũng gan góc ghê lắm, thấy như vậy mà vẫn thản nhiên giơ gậy lên chọt vào ngực một người. "Phe anh đòi dắt díu cả làng lên phủ cứu quan đấy phải không?" Anh này chưa kịp trả lời thì cụ đã phang một cú rõ đau lên đầu hắn. "Ngu! Anh nhìn xung quanh xem cái làng thượng văn này có ai? Ngoài đàn bà trẻ con thì hơn nửa là nho sinh trói gà không chặt, anh tính làm phản thế nào? Ném sách, phun mực hay bảo đám đàn bà tốc váy lên chửi vào mặt năm ngàn quân Tam Giang vệ? Không có mắt nhìn rộng thì đừng có xách động hô hào bừa bãi, chết cả lũ có ngày!" Lại quay sang một anh khác đang có vẻ huênh hoang tự đắc mà phang một cú trời giáng tiếp theo. "Còn anh đắc ý cái gì? Cái lũ các anh còn là phường báo hại gấp mười chúng nó! Chúng nó vì ngu nên không nhìn rõ đường, còn các anh.. mắt để đấy nhìn đường, nhưng lại không chịu thấy !" "Tôi hỏi các anh tam tuần, tứ tuần, mười mấy năm nay các anh luôn miệng luận bàn thế sự như các bậc thánh nhân luận nước, lẽ nào nhìn không ra tình trạng thuế má của Thanh Ba bao nhiêu năm nay? Nếu không bằng nửa thì cũng chỉ bảy phần so với các vùng khác! Dù Thanh Ba mang tiếng bạo, quan lo phản nên phải nhún nhường không dám tham thậm, nhưng ngoài mắng chửi ra thì đã ai bạo được cái gì? Có chăng là đục được mẩu tường, giết được con chó nhà" thằng huyện "! Thế mà đã ai bị ông ấy xử chết hay chưa? Đường lớn Thanh Ba đã bao giờ có kẻ ăn xin? Đồng ruộng Thanh Ba đã bao giờ chất đầy xác thối?" "Các anh lớn đến ngần này, biết suy luận, biết đắn đo, đến cái việc mà thằng lý Chả dốt nát nhìn ra, lẽ nào các anh lại không thấy? Để mà bây giờ còn dùng sự đắn đo, tài suy luận ấy bới bèo ra bọt, lái toàn câu chuyện theo một hướng hoang đường. Bẫy các anh? Bẫy các anh thì bọn chúng được cái cóc gì? Cộng cả cái huyện này dân còn không bằng một phần ba vệ binh của chúng nó, bẫy một nhúm học trò như các anh thì bõ bèn lắm đấy!" Nói đến đây thì cụ dừng lại thở, những kẻ xung quanh im lặng như tờ. "Tôi biết," cụ hạ giọng, thở dài. "Thế thời đảo điên khiến kẻ có học không có đất vẫy vùng, các anh phải nén vào bao nhiêu cái uất. Hỡi ôi.. thân làm trai mà không thể gánh vác non sông, còn có nỗi nhục nào cao hơn thế? Cậu ba Trung lại ra hàng giặc, các anh tránh sao khỏi oán hận trong lòng, bèn dồn hết nỗi đớn đau của cái phận sĩ tử lạc thời vào cậu trai ấy." "Lỡ căm, lỡ hận bấy nhiêu năm rồi, nên dẫu việc có rành rành ra trước mặt, các anh cũng không sao chấp nhận người ta vô tội. Nếu chấp nhận rồi, các anh sẽ trở thành người sai. Và sai rồi, thì còn mặt mũi gì đối mặt với những lỗi lầm mình đã gây ra từ cái sai đó?" Cụ ngẩng mặt nhìn ánh trăng mờ mịt trên đầu, rầu rầu thở hắt ra một cái. "Đời này, cái tôi nặng quá, chính là cái tội." Ấy rồi cứ như bị mặt trăng bỏ bùa, cụ đột nhiên bật ra cười dài, đoạn vung gậy vừa múa vừa hát nghêu ngao một màn trong tuồng chèo nào đó. Hai thằng nhỏ theo cụ mình biết cụ lại đến lúc trở chứng điên, sợ cụ hại thân, lại lao lên nắm tay cụ dắt đi. Trong cái cảnh đêm mịt mờ nhang khói từ đình làng bốc lên, cụ Tỉnh lảo đảo ra về. "Cái tôi nặng quá, chính là cái tội," một người trong đám sẽ sàng lẩm nhẩm. Đoạn, lặng lẽ gằm đầu. . . . Tháng mười lập đông, gió ngàn từ phương Nam ập đến, mang theo trong mình mùi máu thoang thoảng. Trinh cắp thúng quỳ xuống trước mặt chồng, khẽ khàng dở lớp lá dong trên mặt thúng. Nàng lần lượt lôi ra một đĩa cá chưng, một thố canh rau và hai bát cơm trắng. Nhìn về phía cái bục gỗ người ta xây tạm để chém phạm nhân, một ông quan nhà Minh tay cầm bát trà, tay vẩy nhẹ về phía đao phủ. Gã đao phủ biết ý, vội vã lùi về sau hơn chục bước, dành ra một khoảng riêng tư cho bữa cơm cuối cùng của người tử tù và vợ hắn. "Xem ra, ông quan Đại Minh ấy vẫn rất trọng chàng," Trinh sẽ cất giọng, nhét vào tay chồng một đôi đũa gỗ. "Không những cởi trói, còn cho đao phủ lùi ra sau." Ông mỉm cười. "Đều là người thẳng ngay phải chấp nhận vẹo cong trong thế thời bất đắc dĩ, ông ta thông cảm cho tôi thôi." "Lại cảm thông với chả cảm thán, ông ấy muốn chàng về Đại Minh làm quan thì có, còn gạ gả con gái cho chàng nữa mà." Khẽ bật cười véo nhẹ mũi nàng, ông vừa nhai cơm vừa thả lời trêu chọc. "Người ta muốn cướp chồng bà đấy bà Văn Trung ạ, bây giờ bà tính thế nào đây?" Trinh điềm đạm gắp miếng cá cho chồng, thản nhiên đáp. "Muốn cướp thì cướp thôi, bà Văn Trung đây vẫn thắm thế này, sợ không thể tìm được bến khác hay sao?" Ông dừng đũa nhìn vợ mình. Ừ, nàng còn thắm thật, gương mặt bầu bĩnh, cặp mắt tròn xoe, gò má hây hây như bọn con gái xuân thì. Ngó lại cái thân mình, ông tự nhiên thấy giận, mà chẳng biết giận ai cho vừa. Giời ạ, sắp chết đến nơi, hờn dỗi cái chi nữa? Thầm rủa một câu đó xong, ông lại thấy đau đau cái lòng, miếng cá đưa vào miệng tự nhiên không còn chút mùi vị. "Lát nữa.. tôi đi rồi, nàng đợi cỏ xanh mộ rồi hẵng.. tìm bến mới nhé?" Trinh im lặng, ông đột nhiên gác đũa, giọng run run khẩn khoản. "Mà bến mới ấy chắc cũng chẳng vui vẻ gì đâu, không bằng.. nàng theo tôi xuống đấy, tôi lại tiếp tục lo cho nàng?" "Chứ để nàng lại ở cái làng đầy những đứa sĩ diện kia, tôi không an tâm.." Đặt bát xuống, Trinh đưa mắt lướt qua đám người đông nghịt đang quây quanh xem án, bất chợt trông thấy một đám lớn ở phía Đông nổi bật giữa dòng người. Họ phần lớn mặc áo the thâm, khăn đen, quần trắng, và tất cả đều đang quỳ. Một nụ cười he hé trên môi, nàng lay ông rồi chỉ về phía đó. Trông qua những gương mặt quen thuộc như cái bậu cửa ngáng chân mỗi ngày, ông sững ra một lúc, đoạn chầm chậm quay lại càu nhàu, đúng là một lũ sĩ tử ngu độn, nếu chẳng phải gặp ông quan hiền thì cả đám đã bị bắt cả rồi. Rồi ông cong môi nhìn nàng, mắt dịu xuống sự xót xa nhàn nhạt. "Xem ra, tôi muốn không an tâm cho nàng.. cũng không được nữa rồi.." Nhìn cái vẻ cam chịu đầy lạc lõng của chồng, Trinh khẽ lắc đầu, tay cầm lên đôi đũa khua liền vào đĩa cá hấp. Mật cá vỡ ra thấm đều cả vào thớ thịt khiến chúng trở nên đen ngòm. Ấy rồi nàng gắp một miếng rõ to vào bát mình, hai miếng nhỏ khác vào bát chồng, sẵn tay chan luôn cả đĩa nước cá vào hai cái bát. "Cá trắm này rất to, nghe ngoài chợ bảo là cá trắm vua, khó tìm lắm đấy, chàng gắng ăn nhiều vào." Nhìn hai miếng thịt cá rỉ nước mật đen sì, ông đột nhiên nhớ lại lời dặn thường xuyên của vợ mỗi lần ông có cuộc rượu chè trên châu, trên phủ. "Mật con gì chứ mật cá trắm là độc chết người đấy, họ rủ thế nào chàng cũng không được uống nghe chưa? Cá càng to thì mật càng độc, như mật cá trắm vua ăn vào thì chỉ có chết liền tức khắc." "Nàng.." ông run giọng. Nàng mỉm cười. "So với bị giặc chém, chết dưới tay vợ vẫn hơn, quan ông nhỉ?" Và rồi, ông cũng bật cười lại. "Đời này, hiểu quan nhất chỉ có nàng thôi." Đũa cả hai đã chạm môi, xa xa chợt có người la ó. Ông phủ tay lên bát cơm của vợ rồi nhíu mày ngóng nhìn, chẳng bao lâu đã thấy một gã lính nón chóp bổ ra trước án quan la lên bằng tiếng nước nó. "Bẩm ông, ông nhanh chạy đi ạ! Nghe cấp báo lại thì hiệp ước giữa ngài Tổng binh với quân Lam Sơn đã không thành, chúng hiện đang trên đường kéo hết vào đây!" Thế là mọi việc vỡ òa, quan lính nhà Minh xám nghoét mặt mày dắt díu nhau tháo chạy, cũng chẳng biết là đi đâu. Dân chúng vây quanh kẻ tỏ ra mừng rỡ hò reo inh ỏi rồi phóng chạy về nhà, kẻ ngơ ngác chẳng hiểu gì nhưng cũng học theo vùng chạy, cả một đám người loạn như đám cào cào gặp lúa, đến thằng đao phủ cũng ném luôn thanh đao mà dáo dác chạy kiếm vợ con. Pháp trường nghiêm oai, chẳng mấy chốc đã ra một đám chợ chạy. Giữa cái cảnh ngược xuôi xuôi ngược, lại có cặp vợ chồng chỉ ngồi im trên bục chém. Người chồng bình tĩnh đỡ lấy bát cơm trên tay vợ mình đặt xuống, đoạn siết chặt lấy rồi cất giọng nghẹn ngào. "Nàng ơi, thế là chúng ta có thể sinh con rồi.." Tháng mười lập đông, gió ngàn từ phương Nam ập đến, mang theo trong mình mùi máu thoang thoảng và hy vọng cay nồng. -HẾT- Lời cuối của tác giả: Về bốn câu ca dao "mất ngủ" ở trên, tui nghĩ sẽ có bạn cho là đem sex vào ca dao sẽ làm mất thuần phong mỹ tục Việt Nam. Thật ra tùy các bạn nghĩ, chứ người Việt ta xưa là chúa rải tình dục vào trong ca dao, đọc không những không thấy tục, mà còn tinh tế và có duyên kinh hồn:D Có lẽ văn tui chưa được tinh và duyên cho lắm, nhưng tui vẫn thích đưa tình dục vào; có lẽ phần để câu view, phần vì tính dục có sẵn trong người. Đến đây thì sỗ sàng quá nên chắc nhiều người ném đá Tui nghĩ tình dục trong thơ văn không nhất thiết phải là bẩn, là dơ, là hạ giá trị tác phẩm - chừng nào mà chúng ta vẫn chưa sa đà vào tả nó quá nhiều. Thứ nhì, có lẽ có vài người đọc xong truyện này, sẽ cho nó là một bài "văn chửi" đội lốt ngôn tình. Tui không hề phản đối cách nghĩ đó. Về một khía cạnh nào đó, tui thật sự đang chửi. Nhưng những người tui chửi ở đây không chỉ là cộng đồng mạng, mà còn cả bản thân mình trong đó. Vì mặc dù rất muốn ra vẻ thanh cao, nhưng tui không thể chối bỏ những nết xấu trên mạng mà mình lên án, mình thật ra vẫn luôn mắc phải hằng ngày.. Cho nên, dẫu có nhột, cũng đừng xâu xé tui nha, tui viết mà tui nhột xám hồn luôn đây nè Câu chuyện này dành tri ân cho tất cả độc giả đã theo tui từ hồi chân ướt chân ráo cầm.. bàn phím, đúng 8 năm rồi, ứng đúng 8 chương hehe.:3 Mến thương các bạn.