Khởi nguyên của vũ trụ trong thánh ca Ấn Đô Nguồn. Beswich, Ethel, Tales of Hindu Gods and Heroes. Bombay, 1960. Edit. Lương Bảo Thanh Thuở hồng hoang ấy không có Hữu thể mà cũng không có Phi thể, chẳng có không gian chứa đầy khí trời mà cũng chẳng có tầng trời nào ở bên kia khoảng không ấy. Cái gì bao trùm hết thảy? Do ai bảo hộ? Phải chăng là trùng dương thăm thẳm khôn dò? Thuở ấy không có chết mà cũng không bất tử, không có gì phân biệt ngày đêm. Đấng Một ấy hô hấp bằng nội lực, không hề tạo thành hơi thở. Tuyệt nhiên khôngcó cái gì hiện hữu ở ngoài Ấy và khác với Ấy (Có nghĩa là ngoài Tự Ngã ra không còn ẩn hiện cái gì khác). Lúc khởi thủy, chỉ có bóng tối mịt mù trong bóng tối, toàn thể vũ trụ là nước mênh mông. Khi ấy, do sức mạnh của nhiệt tính (tapas), Đấng Một phát sinh giữa hư không. Trước tiên, tự nơi ấy phát hiện ra dục tính tức là mầm mống tối sơ của tinh thần. Các thi nhân, đạo sĩ quan sát nội tâm và dùng minh trí khám phá được mốiliên hệ của Hữu thể trong Phi thể. Các thần linh ra đời sau sự sáng tạo thế gian này, vậy ai biết do đâu mà cósáng tạo? Sự sáng tạo này do đâu mà có? Có hay không có sáng tạo? Chỉ có Đấng Cai Quảnthế gian này ở trên tầng trời cao nhất là có thể biết được. Mà có khi chính Ngài cũng không biết nữa. Thực tại tuyệt đối là một cái gì ở ngoài mọi giới hạn của thời không, sinh tử và ý niệm. Tuyệt Đối tự ý thức lấy mình và cái động lực phát hiện ý thức đầu tiên ấy là Tapas, bản tính nồng nhiệt của Tuyệt đối. Nhờ Tapas, ngôi thứ nhất là "Ta" phát hiện. Từ đó, bắt đầu có sự phân biệt giữa Hữu và Vô, giữa Ta và Không ta, giữa Tâm và Vật, giữa Thần ngã sáng tạo (Purusha) và vũ trụ hiện tượng (Prakriti).. Bản thánh ca kết luận là có một Đấng Cai Quản Tối Cao, nhưng không biết Ngài cóphải là Đấng Sáng Tạo hay không? Chỉ có một mình Ngài biết, mà có khi chính Ngài cũng không biết nữa. Ai biết? Đó là bí nhiệm của sự sáng tạo! So sánh với Kinh Cựu ước, Sáng thế thư: Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất. Bóng tối bao trùm Vực thẳm, và Tinh thần Đức Chúa Trời chuyển dịch trên mặt nước mênh mông. Ngày đầu tiên Đức Chúa Trời phán phải có sự sáng và do đó phân chia ra ngày đêm; ngày thứ hai Đức Chúa Trời phân cách ra khoảng không trên trời; ngày thứ ba Đức Chúa Trời phân ra miền đấtcao thảo mộc phồn thịnh và miền nước tụ là biển; ngày thứ tư Đức Chúa Trời làmra mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú, vì vậy mà phân chia được ra ngày, tháng, năm và thời tiết; ngày thứ năm Đức Chúa Trời dựng nên các loại chim trời, cá biển; ngày thứ sáu Đức Chúa Trời dựng nên các loài động vật; rồi loàingười một nam, một nữ để quản trị cá biển cùng là muông, thú. Sang ngày thứ bảy Đức Chúa Trời ban phép lành đặt tên là ngày thánh: Ngày đó Ngài nghỉ vì đã làm xong mọi công việc.
Thương đế - Ba ngôi và các Thần linh của Ấn Độ Nguồn. Beswich, Ethel, Tales of Hindu Gods and Heroes. Bombay, 1960. Edit. Lương Bảo Thanh Bấm để xem Thượng Đế duy nhất tự hữu hằng cửu là nguyên nhân và cứu cánh của toàn thể các thần linh và muôn loài trong vũ trụ. Theo quan niệm của Ấn Độ, con người không thể hình dung Thượng Đế bằng bất cứ một ý niệm hay hình ảnh cụ thể nào. Con người chỉ có thể nhận biết được. Thượng Đế qua những vị thần linh biểu hiện cho quyền năng mầu nhiệm của Ngài. Cõi Trời (Dyaus), Đất (Aditi), và Mười Hai Nguyên Lý Tối Cao (Âditya) tức Mười Hai Tháng: Hình ảnh tiếp cận nhất có thể biểu hiện cho Thượng Đế toàn diện là Cõi Trời (Dyaus) chứa đựng toàn thể vũ trụ. Cùng với Cõi Trời (Dyaus) là Cha tượng trưng cho Tinh thần, có Đất (Aditi) là Mẹ tượng trưng cho Vật chất. Do hai nguyên lý này mà sinh ra Mười Hai NguyênLý Tối Cao (Âditya) điều hành mọi sinh hoạt giữa Trời và Đất, cai quản chư thầnvà loài người. (Nói vậy vì mười hai tháng trong năm khi chuyển vận lôi cuốntheo tất cả thế gia) (Bộ ba Dyaus-Aditi-Âditya, Cha-Mẹ-Con, với tính cách nhất nguyên, có thể ví như quan niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi Cha-Con-Thánh-thần trong Thiên Chúa Giáo). Lại cũngcó thể ví như quan niệm trong Kinh Dịch về Âm, Dương và các hình thái biểu hiệndo sự giao hòa của hai nguyên lý ấy. Các thần linh trong Veda ngụ khắp ba cõi : Thần cai quản Hạ giới là Lửa (Agni) ; thần cai quản Không trung la` Gió (Vâyu) và thần cai quản Thiên giới là Mặt trời (Suârya). Đó là Ba ngôi tối linh Tri-murti trong Veda. Về nguyên lý ba ngôi là Dyaus-Aditi-Âditya; về thể hiện thì Tamlinh vị là Thần lửa Agni, Thần gió Vâyu và Thần mặt trời Suârya. Vì vậy, Đất vàLửa là một, Bầu Trời và Không Khí là một, Cõi Trời và Mặt Trời là một. Cả bavừa là Thể vừa là Dụng của cùng một bản chất và là ba yếu tố căn bản của đờisống. Sau đây Ba Ngôi tối linh còn là: Thần Sáng Tạo Brahmâ, Thần Bảo Tồn Vishnuvà Thần Hủy Diệt Shiva. Lại còn có nhiều quan niệm khác về Ba Ngôi, tỉ như quan niệm về ba phẩm tính trong thiên anh hùng ca Mahâbhârata (sẽ đọc sau đây) là : Thuần khiết hay Tri thức (Sattva) có tác dụng Quy tâm, Tình cảm hay Hành Động (Rajas) có tácdụng điều hòa; và Ô trọc hay Ngu tối (Tamas) có tác dụng ly tán; hoặc quan niệmphái Vedânta về Thực hữu (Sat), Trí thức (Chit) và An lạc (Ananda).
Thần lửa Agni Nguồn. Beswich, Ethel, Tales of Hindu Gods and Heroes. Bombay, 1960. Edit. Lương Bảo Thanh Bấm để xem Thần lửa Agni được coi là bản chất chung của ba ngôi. Lửa thể hiện dưới nhiều hình thức nhưng chỉ có riêng ngọn lửa thiêng trong cuộc tế lễ, do sự cọ sát hai mảnh gỗ tạo nên mới được coi là sự hiện diện đích thực của Agni. Ở hạ giới, Thần lửa Agni được giữ sứ mạng làm trung gian giữa loài người với các thần linh, chuyển đạt lên chư thần những lễ vật do loài người dâng cúng. Thần Lửa Agni còn được mệnh danh là Đấng thấm nhập khắp nơi (Vaishvânara). Ngay trong cơ thể sinh vật, lửa là khả năng hấp thụ và tiêu hóa, động cơ của sựsống. Bản tính của lửa là soi sáng cả ngoại giới lẫn nội giới. Hiểu được bảntính của Lửa là hiểu được bản tính của toàn thể vũ trụ. Về hình tượng, Thần Lửa Agni mình đỏ và vàng, có hai đầu, bảy lưỡi, và bốntay cầm một chiếc rìu, một ngọn đuốc, một cây quạt và một chuỗi hạt. Thần Lửa Agni thường cưỡi một con cừu đực, hoặc ngồi trên xe có bảy con ngựa kéo. Khói là cờ, gió là bánh xe, Agni đi đến đâu là hỏa thiêu tới đó, hung hãn như mãnh hổ giữa đàn cừu, như thác lũ đổ xuống đồng bằng. Tuy vậy, Thần Lửa Agni vẫn là thần bảo hộ của loài người, là vị chủ tế (hotri) trong các buổi lễ, ban phát ánh sáng và hơi ấm cho nhân loại. CHÚ THÍCH: Lửa thể hiện dưới nhiều hình thức. Có mười hình thức chính; năm hình thức tự nhiên và năm hình thức tế tự. Năm ngọn lửa tự nhiên là: Agni (Lửa trần gian), Indra (Sét ở không gian), Suârya (Mặt trời ở Thiên giới), Vaishvânara (Nhuận thắp) và Vâdevagani (Lửa phá hoại). Năm ngọn lửa tế tự là: Brahma-agni, lửa thiêng trong buổi lễ; Prâjâpatya-agnilà lửa trao cho thiếu niên tu học (brahmacharya) khi làm lễ khai hóa (upanuyana) ; Gârhapatya-agni là lửa trong gia đình không bao giờ được để tắt; Dakshine-agni là lửa dùng trong khi cúng tổ tiên hoặc các vong hồn; và sau hếtlà Kravyada-agni tức là ngọn lửa thiêng trên giàn hỏa táng.
Thần gió Vâyu Nguồn. Beswich, Ethel, Tales of Hindu Gods and Heroes. Bombay, 1960. Edit. Lương Bảo Thanh Bấm để xem Thần Gió Vâyu được coi là hơi thở của Lửa, có nhiệm vụ thánh tẩy và cùng với Lửa chuyển lễ vật lên các thần linh. Về hình tượng, Vâyu là một vị thần mình trắng, dũng mãnh, cưỡi con linh dương, mang theo cung và tên. Tất cả các món trang phục khác của Vâyu đều màu trắng cả. Đôi khi Vâyu cùng Indra (Thần Sét) ngự trên chiếc xe bằng vàng có một ngàn con ngựa kéo và có thể chạy thẳng đến trời. Dũng sĩ Bhĩma trong thiên anh hùng ca Mahâbhârata và Thần Khỉ Hanuman trong thiên anh hùng ca Râmayâna đều là con củaVâyu và đều có tài đi nhanh như gió cuốn. Xưa có một hôm đạo sĩ Nâranda thỉnh cầu Vâyu thổi gãy đỉnh núi Meru. Vâyu thổi một trận cuồng phong kéo dài suốt một năm mà không có kết quả vì thần điểu Garuda (do thần Vishnu thường cưỡi) đã xoè cánh che ngọn núi và cản sức mạnh của cuồng phong. Đạo sĩ Nâranda bèn đề nghị với Thần Vâyu chờ khi nào Garuda đivắng hãy tấn công. Quả nhiên cơ hội này đến và Vâyu thổi bay chóp núi Meru ratận ngoài biển, biến thành hòn đảo Lankâ tức là xứ Ceylon (Tích Lan) bây giờ. Vâyu do tự căn Vâ có nghĩa là thổi. Trong kinh Upanishad (Áo NghĩaThư), Vâyu được mô tả là sinh khí của vũ trụ, là mạch sống của muôn loài, là bản chất, uyên nguyên của Thượng Ngôn (Vâc) cũng như Ngôi Lời (Verbe) trongSáng thế thư. Vâyu cũng có nghĩa là "thấm nhập, tràn lan". Sách Brihad-devatâ ghi : "Ngài ngự trong không gian, thấm nhập và tràn đầy ba cõi. Các bậc tiên tri tôn thờ và gọi Ngài là Vâyu".
Thần mặt trời Suârya Nguồn. Beswich, Ethel, Tales of Hindu Gods and Heroes. Bombay, 1960. Edit. Lương Bảo Thanh Bấm để xem Thần Mặt Trời Suârya, nghĩa là nguồn sáng của vũ trụ, là nguồn minh trí của tất cả các sinh vật biểu thị bởi mười hai nguyên lý tối cao (Âditya), là cửa mở vào con đường đưa tới thần linh, là nguyên nhân và cứu cánh của tất cả những gì hiện hữu trong quá khứ, hiện tại và vị lai, tất cả những gì sinh động và bất động. Suârya do tự căn Sur hay Svar nghĩa là sáng chói. Về hình tượng, Suârya là một vị thần mình màu đồng đỏ, tóc và râu màu vàng, ngự trên một chiếc xe một bánh do bảy ngựa kéo, đôi khi do Rồng (Naga) kéo. Suârya đội vương miện và đeo vòng, tất cả đều tỏa hào quang chói lọi khắp mọi phương trời. Thần Mặt Trời Suârya có bốn vợ: Samjnâ (Trí thức còn có tên là Saranyuâ-Mây), Rajni (Hoàng hậu), Prabhâ (Ánh sáng) và Châyâ (Bóng Tối). Suârya có nhiềucon, trong số có Yama (Tử thần). Tương truyền rằng Samjnâ không thể chịu nổi sức nóng của chồng lâu được, nên phải trốn vào rừng đi tu, nhờ các thiên thần tạo ra nàng Châyâ có dung mạo giống hệt mình để đánh lừa Suârya. Khi khám phá ra sự thật, Suârya đi tìm. Samjnâ bèn biến thành con ngựa cái. Suârya cũng lập tức biến thành con ngựa đực để theo vợ. Vì thế mà Samjnâ sinh ra một cặp sinh đôi, mình người đầu ngựa, tức là hai thần Ashivins, thần của nhà nông và cũng là thần y chữa bệnh cho chư Thần. Sau đó Suârya dẫn vợ về nhà. Cha vợ là Tvashtri (Hóa công) muốn cho con gái khỏi bị đau đớn vì sức nóng, bèn xén bớt một ít tia sáng của Suârya. Những mảnh này được tạo thành cái đĩacủa Thần Bảo Tồn Vishnu, cái chĩa ba của Thần Hủy Diệt Shiva, cái chùy của ThầnTài Sản Kubera, cùng là khí giới của nhiều thần linh khác nữa.
Kalpa trong thần thoại Ấn Độ Nguồn. Beswich, Ethel, Tales of Hindu Gods and Heroes. Bombay, 1960. Edit. Lương Bảo Thanh Bấm để xem Ba Ngôi chủ động: Đấng Sáng Tạo, Đấng Bảo Hộ và Đấng Hủy Diệt (Brahmâ, Vishnu và Shiva). Tuy ba mà một, tuy một mà ba. Sáng tạo để bảo tồn rồi hủy diệt; hủy diệt để sáng tạo rồi bảo tồn; bảo tồn để hủy diệt rồi sáng tạo. Cứ thế tiếp diễn theo một chu kỳ bất tận. Kalpa là một kiếp của vũ trụ, lâu bằng một ngày của Brahmâ (Thần Sáng Tạo), tính ra là 4.320.000.000 năm. Mỗi Kalpa gồm có 1.000 đại kỷ nguyên (Mâhâ-yuga). Mỗi đại kỷ nguyên gồm có 4 thời đại kế tiếp nhau theo một trật tự nhất định: 1. Kritayuga tức là thời hoàng kim, lâu 1.728.000 năm, trong đó nhân loại sốngtrong hạnh phúc tuyệt đối, mầm ác chưa xuất hiện. 2. Tretâyuga tức Bạch ngân thời đại, lâu 1.296.000 năm, trong đó mầm ác bắt đầuxuất hiện, gây nên những chuyện bất hòa trong nhân loại. 3. Dvâpara-yuga tức lưỡng tính thời đại, lâu 864.000 năm, trong đó tính ác đãphát triển ngang sức với tính thiện, mâu thuẫn và xung đột mỗi ngày một nhiều. 4. Kati-yuga tức Hôn ám thời đại, lâu 432.000 năm, trong đó tính ác tràn ngập, tính thiện mất dần, nhân loại sống trong hỗn loạn đau khổ. Vào cuối mỗi đại kỷ nguyên, tức là vào cuối mỗi Kali-yuga, thần Vishnu sẽ xuấthiện dưới tên Kalki, tiêu diệt nhân loại trong một trận hồng thủy hay đại hỏa tai, rồi sau đó tái thiết một đại kỷ nguyên mới. Cuối mỗi Kalpa sẽ xảy ra một vụ hủy diệt (pralaya) của toàn thể vũ trụ. Vụ hủy diệt này mở đầu cho đêm của Brahmâ khi thần này đi ngủ. Hết một đêm, thời gian dài bằng một Kalpa, Brahmâ tỉnh giấc, lại bắt đầu một Kalpa khác của Vũ Trụ tái sinh. Cuộc đời của Brahmâ sẽ thọ 100 năm (tính theo mỗi ngày của Brahmâ như trên). Khi Brahmâ chết, ngày đó sẽ xảy ra một vụ đại hủy diệt (mahâpralaya) : Toàn thể vũ trụ và thế giới thần linh đều chết hết. Một trăm năm sau nữa, Brahmâ tái sinh, vòng sáng tạo và hủy diệt lại bắt đầu. Tính cho đến nay, Brahâm vừa được 50 tuổi. Hôn ám thời đại (Kali-yuga) chính là thời đại này của nhân loại. Theo sự tính của người Ấn Độ thì hiện nay chúng ta đang sống trong khoảng năm 6.000 của kỷ nguyên Kaliyuga, còn cách ngày tận thế426.000 năm nữa.
Brahmâ Đấng sáng tạo Nguồn. Beswich, Ethel, Tales of Hindu Gods and Heroes. Bombay, 1960. Edit. Lương Bảo Thanh Bấm để xem Brahmâ là Đại Tổ (Pitâmaha) tức là cha chung của muôn loài, là đấng tự sinh tự hữu (Svayambhuâ). Cuộc đời của Brahmâ chia ra ngày và đêm; ngày thức đêm ngủ. Khi Brahmâ thức, vạn vật sinh trưởng; khi Brahmâ ngủ, vũ trụ tiêu tan, nhưng sẽ tái sinh khi Brahmâ lâu bằng 4.320.000.000 năm ở trần gian; một đêm cũng lâu như vậy. Hiện nay Brahmâ đã 50 tuổi và sẽ sống đến 100 tuổi. Về hình tượng, Brahmâ có màu da đỏ hồng (màu đỏ tượng trưng cho nguyên lý sáng tạo trong thiên nhiên). Brahmâ có bốn đầu ngoảnh nhìn về bốn phía biểu thị ý nghĩa quán triệt khắp vũ trụ của Tứ Veda. Brahmâ có bốn tay: Cầm bốn pho Veda, hoặc có khi Brahmâ nắm bốn pho Veda ở tay thứ nhất, tay thứ hai cầm trượng, tay thứ ba cầm cây cung và tay thứ tư cầm một bình nước. Brahmâ thường cưỡi con Thiên Nga (Hamsa) tượng trưng cho trí thức. Về phẩm tính, Brahmâ là nguồn gốc của trí thức, và vợ của Thần, nàng Sarasvâti, là hình ảnh nhân hóa của trí thức. Chính Brahmâ đã truyền thụ trí thức tuyệt đối (Brahmâ-vidya) cho đạo sĩ Atharvan, tác giả bộ Atharva-Veda. Brahmâ cũng dạy ý nghĩa về vô biên (Brahmâ Upanishad) cho Brajâpati (Đấng SángTạo, một danh hiệu của Thượng Đế hữu ngã). Brahmâ say mê nàng Ushas (Rạng đông), có cùng nàng một người con trai làManu, tổ của loài người và muôn vật, tác giả của nhiều bộ pháp điển được gọichung là Manu-samhitâ hay Manu-smriti. Thần Brahmâ có nhiều liên hệ mật thiết với nghệ thuật: Kiến trúc, hội họa, khiêu vũ, âm nhạc và kịch nghệ; thảy đều là những cố gắng ca ngợi Thiêng Liêng, đồng thời phổ cập hào quang vinh hiển của Thiêng Liêng nơi trần thế. Một lần chư thần trên thiên giới cảm thấy chán nản vì cuộc sống thiếu hoạt động tại nơi đây bèn phái Indra tới yêu cầu thần Brahmâ soạn cho một vở kịch để cùng thưởng thức. Brahmâ bèn tham bác bốn bộ Veda cũ, soạn ra bộ Veda thứ năm mệnh danh là Nâtya-veda (Veda về kịch nghệ) : Phần đọc tụng, ngâm nga rút ở Rig-veda; lời ca điệu múa gợi cảm lần lượt rút ở trong Sâma, Yagur và Atharva veda (cavịnh, tế tự và cầu đảo). Khi soạn xong, Brahmâ nhờ Vishva-karman (Hóa công) dựng lên một hí viện ở Thiên Đường của Indra. Shiva đóng vai vũ công múa điệu Tân dava tượng trưng cho sự vận hành của vũ trụ. Vợ Shiva, nàng Pârvati (nghĩa đen là sơn nữ. Trong thần thoại Ấn Độ, Parvâti là con gái của sơn thần Himavant, tức là núi tuyết Himâylay) múa điệu Lâysya; vũ điệu về tình ái. Vở ca vũ nhạc kịch đã thành công rực rỡ, thổi lại luồng sinh khí tưng bừng, chói lọi vào nếp sống chư thần trênthiên giới từ đấy. Còn có nhiều truyền thuyết khác nhau về lai lịch Brahmâ. Một truyền thuyết kể rằng Brhamâ ra đời do cuộc phối hợp giữa đấng tối cao với nănglực của Ngài là Mâyâ (Ảo tưởng). Một truyền thuyết khác lại nói Brahmâ sinh ratự một quả trứng vàng (kim noãn Hiranya-garba) trôi nổi trên mặt biển nguyên thủy vô biên. Sau khi nằm trong trứng được một năm, Brahmâ phân vỏ trứng làmđôi, một nửa làm thành vòm trời, một nửa làm thành đất, khoảng giữa là không trung. Thuyết thứ ba cho rằng Brahmâ sinh ra tự một bông sen mọc ở rốn của Thần Bảo Tồn Vishnu. Hình ảnh này tượng trưng ý nghĩa tái sinh do những mầm mống của tiền kiếp được bảo tồn trong Vishnu. Và cũng do điển tích này, Brahmâ còn cótên là Nabhi-ja (tự rốn sinh ra), hoặc Abja-ja (tự bông sen sinh ra). Chính ra Brahmâ có 5 đầu, bị Shiva hủy mất một nên chỉ còn bốn. Sự tích Brahmâ có 5 đầu thường được kể như sau : "Brahmâ lấy chất vô nhiễm của mình tạo thành một người đàn bà. Nữ thần này được thờ với nhiều tên khác nhau là Shataruâpâ (Bách Tướng), Vâc (Thượng Ngôn cũng như Ngôi Lời) hay Sarasvâti (Hùng Biện), Savitĩ (Thánh Mẫu), Gâyatri (Thánh Ca) và Brahmani (vợ của Brahmâ). Khi ngắm người con gái do chính mình tạo ra, Brahmâ bị mê hoặc bởi dục tính, Shararuâpâ phải lẩn về phía tay mặt để Brahmâ khỏi nhìn thấy. Brahmâ bèn mọc thêm một đầu trông ra phía mặt; nàng lẩn về phía trái; Brahmâ mọc thêm một đầu ra phía trái; nàng lẩn về phía sau, Brahmâ mọc thêm một đầu trông ra phía sau; cuối cùng nàng bay lên không, Brahmâ lại mọc thêm một đầu thứ năm để ngắm nhìn nàng." Còn về việc Brahma bị Shiva hủy mất cái đầu thứ năm cũng có nhiều truyền thuyết. Truyện cho là vì chính miệng của đầu ấy khoe rằng Brahmâ ưu thế hơn Shiva; truyện thì cho rằng vì miệng ở đầu ấy đã nói dối trong một cuộc tranh tài giữa Brahmâ và Vishnu; truyện thì kể vì Brahmâ phạm tội loạn luân nên Shiva bèn trừng phạt bằng cách chiếu con mắt thứ ba vào cái đầu ấy và đốt nó ra tro. Trong ý nghĩa triết học, Brahmâ biểu thị khuynh hướng vận động điều hòa (rajas), tạo nên thế quân bình giữa hai khuynh hướng qui tâm (sattva) và ly tâm (tamas), giữa bảo tồn và hủy diệt mà thần Vishnu và Shiva là biểu hiện. Chính cái tác dụng điều động quân bình ấy mới thực sự là nguyên lý sáng tạo, bởi vậy Brahmâ biểu thị cho sự sáng tạo. Mặc dầu vai trò của Brahmâ có vẻ quan trọng nhất, địa vị của Brahmâ lại sút kém nhất trong ba ngôi tối linh. Lý do có thể vì: · Đứngở phương diện đạo đức, Brahmâ đã phạm tội dối trá và loạn luân. Thần thoại trên đây đã kể do sự phối hợp của Brahmâ và Ushas (Rạng Đông) mà sinh ra Manu, tổ của loài người và muôn vật. Ushas chính là con gái của thần. · Đứng về phương diện triết lý mà suy thì vì có sự sáng tạo của thần mà con người phải đắm chìm trong bể khổ, trong vòng thiện, ác xung đột và bị tách rời khỏi chân lý và hạnh phúc tuyệt đối. Như vậy sáng tạo không hẳn là một hành động đầy ân phước mà chính là một hành động đọa đày, nếu không bị chống đối thì cũng chẳng đáng được sùng bái nhiệt thành.
Thần hủy diệt Shiva Nguồn. Beswich, Ethel, Tales of Hindu Gods and Heroes. Bombay, 1960. Edit. Lương Bảo Thanh Bấm để xem Dưới hình ảnh như nhân, Shiva có nước da trắng tượng trưng cho bản chất thuần túy của tất cả màu sắc. Shiva có ba mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng và ngọn lửa thế gian, có thể nhìn thấu quá khứ, hiện tại và tương lai. Mái tóc rối của Shiva tượng trưng thần gió. Mái tóc đó cũng tượng cho sức mạnh vì sông Hằng Hà linh thiêng nên khi xõa tóc, Shiva đã phải xõa tóc cho dòng nước xuôi theo và đổ xuống nhẹ nhàng, nếu không thì thế gian đã rung chuyển và xụp đổ tan tành. Một hôm thần Brahmâ trông thấy thần Vishnu đang nằm trên một chiếc lá sen trên mặt nước nguyên thủy, Brahmâ hỏi danh tính. Vishnu bèn xưng danh và kêu Brahmâ bằng con. Brahmâ tức giận và tuyên bố chính mình mới là đấng sáng tạo và hủy diệt vũ trụ. Vishnu bát bỏ lời của Brahmâ, cương quyết cho mình mới là đấng sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt vũ trụ. Hai bên đang cãi cọ tranh giành ngôi thứ, thì bỗng hiện ra một cột lửa cao ngất tưởng chừng như không có khởi nguyên. Hai thần bèn ngừng cuộc tranh luận và đồng ý chia nhau đi tìm đầu và cuối của cột lửa. Vishnu đi xuống dưới gốc và Brahmâ đi lên phía ngọn. Sau một thời gian thám hiểm rất lâu, cả hai đều không đạt được mục đích và phải trở về nơi gặp gỡ ban đầu. Vừa khi đó không gian bỗng vang lên âm thanh linh thiêng của tiếng AUM (Linh ngôn, âm thanh linh thiêng biểu thị quyền năng về cả ba phương diện: Sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt. AUM cũng là thần chú đọc trong các buổi tế lễ, và có lẽ là gốc của tiếng UM trong Việt ngữ) và Shiva xuất hiện giữa cột lửa khiến cả Brahmâ và Vishnu đều cảm thấy hân hoan. Khi ấy Shiva bèn nói cho hai thần biết rằng không có ai hơn, ai kém, và ba ngôi tối linh Brahmâ-Vishnu-Shiva chỉ là ba tác dụng khác nhau của cùng một bản thể. Shiva có hai đời vợ nhưng cùng là một người trải qua hai kiếp. Kiếp thứ nhất nàng tên là Satĩ (Hiền phụ), con gái của Daksha (Tài Trí), một trong tám vị thần sáng tạo do Brahmâ tạo ra. Daksha vốn không ưa Shiva vì Shiva thường cóbề ngoài là một đạo sĩ khất thực tiều tụy và không tỏ thái độ tôn kính mình. Daksha đã đuổi Satĩ ra khỏi địa phận của mình khi nàng nhất định chọn Shiva làmc hồng. Một lần Satĩ về nhà vào dịp làm lễ mừng thần Vishnu, Daksha đã không tiếc lời nhục mạ nàng cùng Shiva. Satĩ bèn thoát hồn trả lại thân xác cho cha. Shiva nổi giận, giết chết Daksha tức thì. Satĩ tái sinh làm con gái của thần núi Himâlaya (Núi Tuyết), mang tên là Umâ Himavutee và thường được gọi là Pârvatĩ (Sơn nữ). Sau nhiều lần thử thách về đức tính, Shiva lấy Pârvatĩ làm vợ. Chúng ta còn nhớ Shiva đã múa vũ điệu Tândava, tượng trưng cho sự vận hành của vũ trụ tại hí viện Thiên Đàng của thần sét Indra. Khi nhảy múa như vậy, Shiva đã cho phát ra năm cung điệu căn bản. Khi vợ Shiva là nàng Pârvatĩ cất tiếng hát thì có thêm một cung điệu thứ sáu. Sự kết hợp giữa Shiva và Pârvatĩ biểu thị sự kết hợp giữa Chất và Năng chuyển hóa thành các âm điệu và cung bậc. Các cung điệu có liên hệ với toàn thể vũ trụ vì mỗi cung âm có một giá trịriêng biểu thị cho một hệ thống tinh thể, và toàn thể hệ thống tinh thể chínhlà nguồn gốc các âm thanh phát ra trong vũ trụ. Con trai lớn của cặp vợ chồng Shiva- Pârvatĩ là Kârttikeya đã có công diệt được quỷ Târaka, đem lại yên vui cho thế giới thầnlinh và được thờ làm thần chiến tranh. Con thứ hai của Shiva và Pârvatĩ là Ganesha, mình người đầu voi, được tín đồ ẤnĐộ giáo tin thờ như một phúc thần, ban phát hạnh phúc thịnh vượng cho nhân loại. Shiva là vị thần tiền Veda cổ xưa nhất của dân bản xứ Ấn độ; đến khi đồng hóa với dân tộc Aryan, Shiva đã thay thế cho thần Bão Rudra trong Veda để làm giảm bớt cái ý nghĩa ghê gớm của danh hiệu Rudra. Sống với chết không những chỉ tiếp nối nhau mà còn đồng nhất với nhau. Với tư cách nguyên lý của sáng tạo, Shiva là nguồn sống. Nhưng tại sao người ta lại coi Shiva là biểu hiện chohủy diệt (Tamas) ? Tamas nghĩa đen là tối tăm, biểu thị cho khuynh hướng ly tâm, hủy diệt (trái với sattva biểu thị cho khuynh hướng quy tâm, xây dựng). Vũ trụ càng phân tán tức là càng tan rã, hòa đồng vào đêm tối của vô chất nguyên thủy, chấm dứt mọi sự phân biệt trong không gian và thời gian. "Hữu hình tất hữuhoại" là định luật thiên nhiên tất yếu. Từ u tịch mà có sự sống, sự sống lại trở về u tịch, bởi thế tamas vừa là nguyên nhân, vừa là cứu cánh của mọi đời sống, và vì cứu cánh quan trọng hơn hết nên Shiva được mệnh danh là thần hủy diệt. Với ý nghĩa ấy, Shiva còn được mệnh danh là thần của giấc ngủ. Khi mọi người đã chán hành động, chán sống, chán biết, chán lạc thú và đau khổ, và đi tìm một sự yên nghỉ thực sự trong giấc ngủ say không mộng. Khi ấy họ trở về với Chúa tể của giấc ngủ, chốn yên tịnh, cực lạc (Sambha). Ở nơi đó vũ trụ nghỉ ngơi và an giấc.
Thần bảo tồn Vishnu Nguồn. Beswich, Ethel, Tales of Hindu Gods and Heroes. Bombay, 1960. Edit. Lương Bảo Thanh Bấm để xem Hai hình ảnh thông thường nhất cho thấy Vishnu nằm nghỉ trên mình của xà thần Shesha (Di Tích), bềnh bồng trên mặt biển nguyên thủy Ananta (Vô Biên), hoặc Vishnu đứng thẳng, bốn bàn tay nắm giữ bốn vật tượng trưng là vỏ ốc, đĩa tròn, bông sen và cái chùy. Vỏ ốc tượng trưng ngũ hành; cái đĩa sáng như mặt trời tượng trưng thần trí; bông sen tượng trưng vũ trụ vận hành; và cái chùy tượng trưng cho trí thức nguyên thủy. Về hóa thân (Avâtara) thì có nhiều, nhưng thông thường người ta chỉ nói đếnmười kiếp hóa thân của Vishnu trong mỗi đại kỷ nguyên (mâhayuga). Đó là: 1. Matsya (Cá) cứu cho Manu, tổ loài người, thoát khỏi nạn hồng thủy. Chuyện này khiến cho chúng ta liên tưởng đến chuyện Noé và chiếc tàu trong Kinh Thánh vào dịp đại hồng thủy, nước dâng lên trên mặt đất trọn một trăm năm mươi ngày. 2. Kârma (Rùa), giúp cho chư thần vét Biển Sữa (Samudra mathana) để thâu hồi những sinh vật và dụng cụ cần thiết đã bị thất lạc trong trận hồng thủy. 3. Vâraha (Lợn rừng) kéo mặt đất chìm dưới đáy đại dương lên mặt nước để cho muôn loài cư ngụ. 4. Narasimha (Nhân Sư), mình người đầu sư tử, giúp cho Prahlâda, con trai quỷ vương Hyranya Kashipu, thoát khỏi nanh vuốt của cha y để có thể tu thành chính quả. Bốn kiếp hóa thân trên đây thuộc đệ nhất kỷ nguyên, tức Kritayuga, thời đại hoàng kim. 5. Vâmana (Người Lùn) dùng mưu để truất ngôi của Quỷ vương Bali khi ấy đang làm chúa tể ba cõi (Trời, Đất, Địa Ngục). 6. Parashu Râma (Râma cầm rìu), hai mươi mốt lần tiêu diệt đẳng cấp chiếnsĩ (Kashatriya) để lấy lại uy quyền cho đẳng cấp Bà La Môn (Brâhmana). 7. Ông hoàng Râma, nhân vật chính của thiên anh hùng ca Râmâyana, và là vua xứ Ayodhyâ, tiêu diệt quỷ vương Râvana xứ Lankâ (Tích Lan ngày nay) để cứu vãn hòa bình và công lý. Ba kiếp hóa thân trên đây thuộc đệ nhị kỷ nguyên, tức Tretâyuga, thời đại bạch ngân. 8. Krishna (ông Hoàng đào hoa), nhân vật quan trọng trong thiên anh hùng ca Bhagavad-gitâ, chỉ dẫn cho nhân loại làm thế nào thực hiện được giải thoát. Krishna xuất hiện vào cuối Đệ tam kỷ nguyên tức Dvâpara-yuga, thời đại thiện ác quân bình. 9. Buddha (Phật) xuất hiện để giải thoát nhân loại bằng tứ diệu đế và bát chánh đạo. 10. Kalki (Thành Tựu) chưa xuất hiện. Thần này sẽ ngự trên mình ngựa trắng, tay cầm thanh kiếm sáng như sao chổi, và khi xuất hiện, toàn thể vũ trụ sẽ bị tiêu diệt để sau đó lại được tái thiết lập trong một đại kỷ nguyên mới, mở đầu bằn gthời đại hoàng kim. Buddha và Kalki thuộc đệ tứ kỷ nguyên, tức Kali-yuga, thời đại hỗn loạn. Cũng như giữa hai đầu sinh và tử là sự sống, giữa thần Sáng Tạo Brahmâ và thần Hủy Diệt Shiva, có thần Bảo Hộ Vishnu. Vishnu sẵn sàng che chở và cứu giúp con người. Khi cần đến, Vishnu sẽ giáng trần để trực tiếp ra tay tếđộ chúng sinh. Bởi bản tính tốt lành ấy, đền thờ Vishnu đầy rẫy khắp Ấn Độ và người ta đã mệnh danh Vishnu bằng những danh hiệu vô cùng tốt đẹp như Thánh của các Thánh (Pavitram pvitrânâm), Đạo (Marga), chân lý (Tattva), Từ phụ (Pitâ), Thân Hữu (Suhrid).. Danh từ Vishnu do tự căn Vish nghĩa là tràn lan thấm nhập. Vishnu biểu hiện phẩm tính thuần khiết (Sattva) có khuynh hướng quy tâm, trái với phẩm tính huỷdiệt (Tamas) có khuynh hướng ly tâm mà Shiva là biểu hiện. Ấn Độ Giáo dường như không muốn thừa nhận Phật là hóa thân của Vishnu vì đường lối Phật trái ngược với chế độ tứ đẳng cấp của truyền thống Ấn Độ Giáo. Dư luận các học giả trên thế giới thì nhiều người lấy làm lạ về điểm đạo Phật xuất hiện ở Ấn độ mà rồi lại rời khỏi Ấn Độ để phát triển ở ngoài Ấn Độ. Điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là đạo Phật rời khỏi Ấn Độ mà không hề gây sự va chạm đổ máu nào. Thật ra tinh thần đạo Phật vốn uyển chuyển như nước, đi tới nơi nào thích nghi với tinh thần dân tộc nơi đó. Như Bloomfield, tác giả cuốn The Religion of the Veda, đã xác nhận là không có một hình thức tưt ưởng quan trọng nào ở Ấn Độ, kể cả triết học Phật Giáo, mà không bắt nguồn từÁo Nghĩa Thư Upanishad. Vậy đến như ra nước ngoài mà đạo Phật còn dễ dàng đồnghóa với tinh thần từng dân tộc, nói chi ngay tại xứ sở mình! Chuyện Phật là hóa thân thứ chín của Vishnu chính là ngụ ngôn "lá rụng về cội", giải quyết được mọi thắc mắc trên của các học giả thế giới – đặc biệt học giả Tây phương.