Sức bền của đất Tác giả: Hữu Thỉnh Nhà thơ Hữu Thỉnh sinh năm 1942, tại làng Phú Vinh, xã Duy Phiên, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, bút danh Vũ Hữu, là nhà thơ, nhà văn, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1970, Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (4 nhiệm kỳ liên tiếp). Ông cũng là Đại biểu Quốc hội khóa X và khóa XI. Sức bền của đất là trường ca đầu tiên trong số bốn trường ca của Hữu Thỉnh, mang tính thử sức của Hữu Thỉnh với thể loại trường ca nhưng đã đạt được thành công lớn. Tác phẩm đoạt giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ 1975-1976. Dân tộc ta trong lịch sử đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh vệ quốc. Vì thế, thời điểm nào cũng có những thế hệ thanh niên sẵn sàng dâng hiến tuổi xuân để bảo vệ "mỗi con đường, ngọn núi, dòng sông". Từng dòng thơ trong Sức bền của đất đã thể hiện sâu sắc nỗi niềm cảm phục, tự hào và biết ơn của tác giả trước sự hi sinh và khát vọng của cha ông trong sự nghiệp bảo vệ đất nước. Văn bản: Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ Mẹ ở nhà đã cất áo bông Mẹ có ra bờ sông Qua bến đò tiễn con dạo trước Đường xuống bến có mười sáu bậc Mẹ nhớ thương đã bạc mái đầu... Trận địa của con nối tới bến sông Có cái khát của nhiều trận đánh Có niềm vui trước mỗi cơn mưa Khum bàn tay vốc đom đóm bay ra Kỷ niệm lập loè những đêm bám chốt Kẻ thù trước mặt A.R.15 xả đạn liên hồi Cối cá nhân kêu dóng một Pháo tầm xa cố tình thay quy luật B.52 hay nhè trước mỗi bữa ăn Cây cối thưa dần Màu nguỵ trang cuối cùng là màu của đất. Và mẹ là người chúng con thương nhớ nhất Đất nước ngày có giặc Mẹ vẫn đỏ miếng trầu Ấm một vùng tin cậy phía sau. Sóng đánh cao trên mặt nước Sa Thầy Pháo giặc hầm hầm Đắc Siêng, Đắc Mót Đường Mười Tám như dây bị đứt Rơi rụng hai bên những ung nhọt quân thù Chúng con ở đây hai mươi tám ngày qua Vừa im lặng vừa ồn ào trên chốt Phơi chiếc khăn sương sớm mai rửa mặt Ngủ nhát gừng giữa hai đợt tấn công Tay thêm chai mỗi bận moi hầm Ném cho nhau những khẩu phần khô khốc Mười sáu bận quân thù bắn truyền đơn xin nhặt xác Mặt chúng nó rung lên những chữ nghĩa đen xì... Mây trôi trước mặt Đắc- Bờ- Si Ai đốt rẫy cỏ thơm như mía nướng Đất chiến hào như một người hay chuyện Ta chưa một lần được thư thả đất ơi Ta chưa một lần nói được nên lời Lòng của ta với mẹ! Xanh xao nước trời mùa khô rất trẻ Hầm hập quanh người đất đổ mồ hôi Đưa mắt cho nhau trò chuyện không lời Đồng đội của ta Người giữ A.K, người ghìm B.41 Đồng đội hay cười qua hàm răng cắn chặt Nụ cười mát lành như mấy trắng bay qua Ta đi từ đầu sông Lô đến cuối sông Thương Từ thung lũng Sa Thầy ra sông Trường trắng cát Đất vẫn đất của dân ca và mía mật Gió thổi rừng lồ ô xao xuyến biết bao nhiêu Vẫn chiếc cối xay cười ra hạt trắng tinh Vẫn cây chuối cuối vườn hay ngẫm nghĩ Con dao băm bèo, cái xa cuốn chỉ Phấp phới buồm nâu chiều mỏng tang Đất bận quanh năm điệp khúc mùa màng Chị búi tóc cao hơn, chịu thương chịu khó Mẹ vẫn đong bữa ăn bằng chiếc lon nho nhỏ Quá nữa những cánh đồng dành cho đứa con xa Sức lực nào từ mạch đất ông cha Chuyền đến tận chiến hào hăm hở thế Ánh sáng nào từ mênh mông lòng mẹ Soi cho ta qua khe ngắm đầu ruồi Ta lớn lên kịp đến chiến trường này Để đối địch với quân thù đang quẫy cựa Này đồng đội, này nhân dân, bè bạn nữa Mẹ ở nhà cứ yên tâm về con Kẻ thù lẩn nhanh hơn, thụt đầu trong vỏ cứng Lấy pháo và bom để xua cơn hốt hoảng Tung truyền đơn trắng dã âm mưu Dây thép gai cuốn dài bao nhiêu Đối với chúng ta lại còn quá trống Kẻ thù hô hào gia tăng quần áo mỏng Lại rất thích dày vỏ thép chiến xa Phòng thủ bê tông, bao cát, mìn chờ Chưa yên dạ, tiêm thêm liều kích thích... Kẻ thù không ưng ta gọi anh em Đừng chú bác ông bà gì ráo Muốn phá vỡ những giọt quê hương lặn sâu trong máu Chúng nhổ làng đi, dồn vô "ấp dân sinh" Kẻ thù làm cho ta thương nhớ nhiều hơn, sôi sục gấp trăm lần Con gái con trai nhớ nhau qua bãi bom toạ độ Màu mạ xanh thành màu che chở Hang đá không đèn nuôi trí tạo thời cơ Ta hoãn cưới một năm rổi lại hai năm Đi đánh giặc chân trời in màu thiếp Có miếng cao nai không sao gửi được Mẹ ta đã ngoài sáu mươi Nguyên nỗi nhớ thương này Đủ nuôi lớn cho ta thành dũng sĩ Xin cảm ơn những khu rừng thiên Tán lá rợp cho ta trầm tĩnh lại Chông tẩm thuốc sau nhà, đá mài dao dưới suối Con đường mòn nung đỏ dưới ngàn cây Một cọng rau gợi nhớ về xuôi Củ chuối chát ghi mối thù canh cánh Đêm bên suối sao trời rơi óng ánh Nhắc ta hoài biển đang vỡ dưới kia Con đường tấy lên như một lời thề Đất gọi ta, làng gọi ta, nóng bỏng Vịn vào cây ven đường nhẵn bóng Ngỡ như đồng đội đỡ ta lên Những đứa con quen ném bã trầu lấy cớ để yêu nhau Giờ biết xả trung liên và quăng U.S Cưa ống bom đi làm ca làm bát Ngâm giá làm dưa trong thùng đạn bốn mươi li Giàn mướp nguỵ trang lúc lắc xe đi Lúc nghỉ ngơi chui vào cua-mang- cá Diệt cứ điểm bắt đầu bằng bóc vỏ Phục kích bất ngờ bắn giặt xóc xâu Đánh bộc phá theo đội hình cuốn chiếu Đột kích xe tăng đạp rắn trúng đầu... Kim nhể gai kim càng phải nhọn Mẹ dạy con như thế tự bao giờ Xa mẹ chúng con vỡ nhẽ trăm điều Ăn trông nồi là nhường nhịn anh em Ngồi trông hướng là biết thù bóng tối Chúng con làm ra những bài hát mới Chiếc võng, con cua... ngôn ngữ của ông bà Biết đào hào chữ Z, khoét hầm chữ A Vách nứa hoa chanh cửa xoè nan quạt Sợi dây rừng cũng làm nên bền chặt Tiếng gọi gà rất cổ mỗi chiều hôm Gió trẻ trung rung động những khu rừng Chúng con hát trong giọng trầm đại đội Đắp nắm đất cho người ở lại Trận đánh hiểm nghèo: tất cả giơ tay! Quần áo màu rừng, đôi mắt màu mây Trái tim thả diều về thăm mẹ Nỗi nhớ người yêu thêm vào đêm chuẩn bị Lại những rừng châm, lại những đồi lau... Chiến dịch mở ra thời vụ bắt đầu Mang cái rét giêng hai đi bám giặc Mang chất thép định hình trên bàn cát Qua những cánh đồng đang sủi tăm phù sa Ta chao chân trên những mảnh bờ Lặng lẽ nhận sức bền của đất Đạp cứ điểm Lần theo từng dấu dép Ta nhận ra màu bùn qua những cánh đồng chiêm. Tây Nguyên - Tết Ất Mão (1975) Nguồn: Sức bền của đất, NXB Tác phẩm mới, 1977