Phân tích nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Du trong đoạn trích Cảnh ngày xuân

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Hạ Như Phong, 3 Tháng chín 2021.

  1. Hạ Như Phong Hạ Như Phong

    Bài viết:
    72
    Trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã bao lần dụng công hác họa, tô điểm những bức tranh thiên nhiên tương xứng với từng hoàn cảnh, tâm trạng của Thúy Kiều, nhân vật chính mà ông ưu ái. Những bức tranh tứ thời Xuân, Hạ, Thu, Đông thật đặc sắc, sinh động, gợi cảm. Có bức là cảnh chiều xuân Kiều gặp Kim Trọng, có bức ảnh tâm trạng cô đơn của Kiều ở lầu Ngưng Bích, có bức là cảnh Thúc sinh từ biệt Kiều giữa chiều thu rừng xao xác lá nhuốm màu quan san..

    Cảnh nào cũng có dụng ý dự báo những biến động của đời nhân vật. Mối tình của Thúy Kiều và Kim Trọng đầy ước mơ đẹp đẽ nhưng cũng đầy đau xót bi thương nên Nguyễn Du đã lấy bối cảnh ngày xuân tươi đẹp trong sáng nhưng đã ẩn chứa mầm mống buồn bã để hai người hội ngộ. Đoạn thơ "Cảnh ngày xuân" là một đoạn thơ biểu hiện nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên thật tài tình, tuyệt diệu

    Đoạn thơ có kết cấu hợp lý, miêu tả theo trình tự thời gian, không gian của du xuân của chị em Thúy Kiều trong tiết Thanh minh. Bốn câu đầu gợi tả khung cảnh ngày xuân với những nét đẹp tượng trưng của mùa xuân:

    Ngày xuân con én đưa thoi,

    Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

    Cỏ non xanh tận chân trời,

    Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.


    Hai câu đầu vừa nói thời gian, vừa gọi không dám mùa xuân. Ngày xuân thấm thoát trôi mau, tiết trời đã bước sang tháng ba. Trong tháng cuối cùng của mùa xuân, những cánh én vẫn rộn ràng bay liệng giữa bầu trời trong sáng như thoi đưa. Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân là cảnh thảm cỏ xanh non trải rộng chân trời, trên màu xanh non điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Nguyễn Du đã phỏng theo ý hai câu thơ cổ "Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm hoa" (cỏ thơm liền với trời xanh/ Hoa lê đã nở trên cành vải bông). Màu sắc có sự hài hòa ánh lên vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống, nhẹ nhàng, thanh khiết, khoáng đạt của mùa xuân từ điểm làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh tại.

    Vẫn bằng bút pháp cổ điển vừa gọi vừa tả, vừa chấm phá vừa điểm xuyết, trong tám câu thơ tiếp theo Nguyễn Du đã tái hiện cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh và hoạt cảnh du xuân. Ở đoạn này, với ngôn ngữ giàu chất tạo hình bao gồm một loạt từ ghép là danh từ (yến anh, chị em, tài tử, giai nhân), động từ (sắm sửa, dập dìu), tính từ (gần xa, nô nức) và cách nói ẩn dụ "nô nức yến anh", đoạn thơ đã biểu hiện rõ nét hoàn cảnh lễ tảo mộ và hội Đạp thanh làm hiện lên trước mắt người đọc động thái tâm trạng của những đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân như chim én chim oanh bay ríu rít, những người đi quét tước sửa sang phần mộ, viếng mộ người thân. Trong hội đạp thanh (tiết Thanh minh đi chơi xuân ở đồng quê, dẫm lên cỏ xanh), tấp nập rộn ràng náo nhiệt nhất là những nam thanh nữ tú, những tài tử giai nhân:

    Thanh minh trong tiết tháng ba,

    Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

    Gần xa nô nức yến anh,

    Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

    Dập dìu tài tử, giai nhân,

    Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

    Qua cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều, tác giả đã khắc họa một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa: Tiết thanh minh mọi người sắm sửa lễ vật để đi tảo mộ, sắm sửa quần áo để vui hội đạp thanh. Người ta rắc những thoi vàng vó, đốt tiền giấy hàng mã để tưởng nhớ người thân đã khuất:

    Ngổn ngang gò đống kéo lên,

    Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.


    Hai câu thơ gợi hình ảnh một vùng mộ địa chạy từ thấp lên cao, từ đồng bằng lên đồi núi Nguyễn Du không hề đề cập đến đồi núi nhưng ta vẫn hình dung được khung cảnh một vùng mồ mả nằm theo sườn đồi thoai thoải. Trong cảnh trong sáng tươi đẹp của mùa xuân, vui vẻ của lễ hội, cảnh ngổn ngang gò đống kéo lên/ thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay ẩn trưởng một nỗi buồn kín đáo, phớt qua như gió cuốn thôi vàng cho tiền giấy bay nhẹ; tình cảm nỗi buồn tự nhiên mà ai cũng có khi đứng trước cảnh mộ địa dù trong ngày xuân.

    Sáu câu cuối là cảnh ba chị em du xuân trở về. Tác giả chuyển cảnh thật tài tình. Cảnh buổi sáng chị em Thúy Kiều đi thanh minh nhộn nhịp bao nhiêu thì cảnh buổi chiều lúc về trông thật buồn:

    Tà tà bóng ngả về tây,

    Chị em thơ thẩn dan tay ra về.

    Bước dần theo ngọn tiểu khê,

    Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.

    Nao nao dòng nước uốn quanh,

    Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.


    Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp cầu nhỏ bắc ngang. Mọi chuyển động nhẹ nhàng: Mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Tuy nhiên cái không khí tưng bừng rộn ràng của lễ hội không còn nữa, tất cả đang nhạt dần, lặng dần. Cảnh mùa xuân ở bốn câu cuối và bốn câu đầu bên cạnh những nét giống nhau còn có sự khác nhau bởi thời gian, không gian thay đổi (sáng khác chiều tà, lúc vào hội khác lúc tan hội). Nhưng điều quan trọng là cảnh được cảm nhận qua tâm trạng. Những từ láy "tà tà", "thanh thanh", "nao nao" không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Hai chữ "nao nao" (Nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày vui xuân đang còn mà sự linh cảm vì điều gì sắp xảy ra đã xuất hiện. Dòng nước uốn quanh "nao nao" như báo trước ngay sau lúc này thôi Kiều sẽ gặp nấm mộ Đạm Tiên, sẽ gặp chàng thư sinh "phong tư tài mạo tót vời" Kim Trọng, sẽ khởi đầu ám ảnh giấc mộng Tiền Đường đeo đẳng suốt mười năm năm sau, khởi đầu một cuộc tình đầy dở dang tiếc nuối với Kim Trọng, khởi đầu những tháng ngày ảm đạm, bạc mệnh.

    Đoạn thơ rất thành công trong nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên. Nguyễn Du không những là một nhà thơ lỗi lạc mà còn là một họa sĩ tài tình. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân ít màu mà thật linh hoạt. Toàn thể cảnh săc là một màu xanh lan rộng tâm hồn người đọc: Trời xanh, cỏ xanh, nước xanh, trời nước đượm một màu xanh, màu buồn. Bức tranh như có linh hồn, làm rung cảm người đọc một cách nhẹ nhàng.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...