PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO "CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA" - NGUYỄN MINH CHÂU Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút đi tiên phong của văn học thời kì đổi mới. Với hai chặng đường sáng tác ở hai giai đoạn trước và sau 1975, ông có những đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Các sáng tác của Nguyễn Minh Châu luôn thể hiện khát vọng đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người, với cái nhìn thấu hiểu, trĩu nặng tình thương và nỗi lo âu đối với những số phận nhỏ bé, bất hạnh. "Chiếc thuyền ngoài xa" là kết tinh của tâm huyết và tấm lòng của nhà văn, là thành quả của một bầu máu nóng luôn hết lòng vì cuộc đời, với những nỗi đau đời đau người tha thiết. Đây cũng là một tác phẩm thấm đẫm giá trị nhân đạo, đọng lại trong lòng người đọc nhiều suy nghiệm về nghệ thuật cũng như hiện thực cuộc sống. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được sáng tác vào tháng 8 năm 1983, lúc đầu in trong tập "Bến quê", sau đó in trong tập truyện ngắn cùng tên. Tác phẩm nằm trong giai đoạn sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, thời điểm mà ngòi bút nhà văn hòa cùng dòng chảy của cuộc sống, tìm về với cảm hứng thế sự, phát hiện, tìm tòi bản chất tốt đẹp của con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn, trong quá trình hoàn thiện bản thân và tìm kiếm hạnh phúc. Truyện ngắn CNTX in đậm phong cách tự sự - triết lí của NMC. Với ngôn từ dung dị đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng với câu chuyện bi kịch của gia đình hàng chài đằng sau bức ảnh đẹp của thiên nhiên ngoại cảnh, từ đó anh có được những chiêm nghiệm sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của một tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của các nhà văn với nỗi đau của con người, những mảnh đời nhỏ bé, bất hạnh trong cuộc sống. Hơn nữa, nhà văn còn thể hiện sự trân trọng, chia sẻ những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin về khả năng vươn dậy của con người dù trong bất kì hoàn cảnh nào. Giá trị nhân đạo của tác phẩm trước hết được thể hiện ở thái độ cảm thông của Nguyễn Minh Châu đối với cuộc sống của những con người nghèo khổ nơi vùng biển. Thông qua truyện ngắn, nhà văn đã bộc lộ sự xót xa trước cảnh đời túng quẫn của gia đình hàng chài. Khi cách mạng về cuộc sống đỡ đói khổ hơn những nỗi lo cơm áo vẫn còn đó. Cuộc sống ở chiếc thuyền chật chội, lênh đênh trên biển, con đông, mọi sinh hoạt đều diễn ra một chỗ như thế, cả nhà hay phải chịu cảnh đói khát, có hàng tháng biển động ăn toàn xương rồng lược chấm muối. Không chỉ vậy, nhà văn đã nhìn thấu và miêu tả chân thực cuộc sống nhọc nhằn, cơ cực, khốn khổ của những con người lao động thông qua hình tượng người đàn bà hàng chài. Chị phải thường xuyên chịu đựng sự hành hạ của người chồng vũ phu, năm ngày một trận nặng, ba ngày một trận nhẹ, như đã thành lệ. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Người đàn bà lam lũ ấy phải lựa chọn giải pháp bị đánh để người chồng kia giải tỏa mọi bức bách, bế tắc của cuộc sống nghèo khó, cùng đường. Rõ ràng, nếu không có cái nhìn bênh vực, đứng về phía những mảnh đời bất hạnh thì Nguyễn Minh Châu không thể viết nên trang văn thấm đẫm sự suy tư, trăn trở trước số phận của họ. Thêm vào đó, tinh thần nhân đạo của CTNX còn nằm ở thái độ phê phán, lên án gay gắt cái xấu, cái ác kiên quyết đấu tranh với những hành động bạo lực, vũ phu của người chồng. Câu chuyện bi kịch của gia đình hàng chài đã giúp người đọc thấy được tình trạng bạo lực trong gia đình, gióng lên một hồi chuông báo động về những vấn đề nhức nhối vẫn đang tồn tại trong xã hội. Nhân vật Phùng, với tinh thần của một người lính, với trái tim nhân hậu của một con người thông thể làm ngơ trước sự hiện diện của cái ác, đã không ngần ngại can thiệp để bênh vực kẻ yếu. Đó là thái độ đáng trân trọng của một con người có thiên lương tốt đẹp, biết đứng lên chống lại cái xấu, cái bất công trong xã hội. Nhà văn NMC cũng đã thể hiện nỗi khắc khoải, âu lo về tình trạng nghèo khổ, tối tăm của con người, khiến chúng ta không khỏi có những âu lo, suy nghĩ: Cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo tăm tối và bạo lực còn gian nan lâu dài hơn cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Và chừng nào còn chưa thoát khỏi cuộc sống đói nghèo chừng đó con người vẫn phải chung sống với cái xấu, cái ác. Chúng ta đã đổ xương máu trong bao năm qua để giành được độc lập tự do trong cuộc chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc. Nhưng chúng ta sẽ còn phải tiếp tục làm gì đây trong cuộc chiến đấu giành quyền sống của từng con người, làm gì để đem lại cơm ăn áo mặc và ánh sáng văn hóa cho biết bao con người đang đắm chìm trong kiếp sống đói nghèo u tối. Đây cũng chính là những băn khoăn, trăn trở của Nguyễn Minh Châu ở thời điểm ngay trong những năm chiến tranh, khi sáng tác những tác phẩm mang đậm không khí sử thi hào sảng của thời đại, ông đã thầm lặng suy nghĩ về những bước đi sắp tới của nền văn học khi cuộc chiến đấu giành độc lập tự do của dân tộc đã hoàn thành. Ông viết trong nhật ký: "Bây giờ ta phải chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc. Sau này, ta phải chiến đấu cho từng con người, làm sao cho con người ngày một tốt đẹp. Chính cuộc chiến đấu ấy mới lâu dài". Đó cũng chính là sứ mệnh và tấm lòng của một nhà văn lớn một cây bút tiên phong mở đường "tinh anh và tài năng nhất của văn học hiện đại" (Nguyên Ngọc). Không chỉ dừng lại ở đó, nhà văn luôn đứng về phía cái đẹp, cái thiện, luôn đi tìm, phát hiện, ngợi ca, khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của con người, mà tiêu biểu là vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài. Đó là một người mẹ với tình mẫu tử thiêng liêng, một người vợ với khát vọng hạnh phúc gia đình mãnh liệt. Chị tự nguyện hi sinh hạnh phúc của phúc của mình vì sự khôn lớn của những đứa con, không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ nên đã xin chồng lên bờ mà đánh khi con lớn. Người đàn bà ấy đau đớn khi thấy các con phải chịu cảnh đói khát, phải ăn cây xương rồng luộc chấm muối, đó là nỗi đau, sự bất lực của tâm hồn người mẹ không thể lo cho con miếng cơm. Chị vui nhất là khi các con được ăn no, một niềm vui tội nghiệp, giản đơn nhưng thật cao cả, thánh thiện của người mẹ. Chị không có ý định rời bỏ gia đình nghèo khó, thà bị đánh, bị phạt tù, bị bắt chứ không muốn bỏ chồng. Người đàn bà ấy luôn chắt chiu những hạnh phúc bình dị, đời thương: Chị nâng niu, trân trọng những phút giây hiếm hoi khi gia đình hạnh phúc. Tâm tình của chị khiến chúng ta vừa xót thương vừa cảm phục. Người đàn bà hàng chài còn mang trong mình một tấm lòng nhân hậu, vị tha, giàu đức hi sinh cho gia đình. Chị phát hiện ra những phẩm chất tốt đẹp của người đàn ông: Hiền lành, lương thiện nhưng cục tính, hắn đánh vợ là do nhà đông con, do cái đói khổ, áp lực mưu sinh nhọc nhằn làm cho bế tắc, cùng đường. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Vì các con, chị sẵn sàng chấp nhận tất cả. Đó là sự nhẫn nhục của con người có nhân cách mà trên hết là một tình yêu thương con vô bờ. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà hàng chài là bóng dáng người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, kiên cường chịu đựng, giàu lòng vị tha và đức hi sinh "biết hi sinh nhưng chẳng nhiều lời" (Tố Hữu). Vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài còn nằm ở sự sâu sắc, từng trải, thấu hiểu lẽ đời. Trong lời kể của mình, người đàn bà cho thấy những nhận thức sâu sắc về thiên chức của người vợ, người mẹ, những gánh nặng của người đàn bà vùng biển. Với sự từng trải của mình, chị dễ dàng nhận ra sự giản đơn, ngây thơ, thiếu thực tế trong cách nhìn nhận về con người và cuộc sống của Phùng. Đối với Phùng, Đẩu, nhưng con người có thiện chí giúp đỡ người đàn bà hàng chài cũng như đa phần người đọc, chị nên bỏ chồng, giải thoát mình khỏi cảnh bị hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần, nhưng tất cả đều phải ngả mũ trước tâm tình và lí lẽ của người mẹ. Chị thấu hiểu nguyên nhân của sự tha hóa ở người chồng, lí giải cho Đẩu và Phùng về ngọn nguồn sâu xa khiến cho mình không thể li hôn. Quan niệm hạnh phúc của chị thật giản đơn và sâu sắc, sự kiên cường của chị xuất phát từ tình yêu thương con, ý thức về trách nhiệm của người làm mẹ. Nhân vật người đàn bà hàng chài hiện lên với những phẩm chất tiêu biểu của nhân vật nữ trong tác phẩm của nhà văn NMC, đó là thiên tính nữ: Sự chịu đựng, đức hi sinh, tính cách nhạy cảm và trái tim giàu lòng yêu thương. Ta được thấy trên trang văn Nguyễn Minh Châu một người đàn bà hàng chài sống cho con hơn là cho mình trong CTNX, một người mẹ xót xa khi biết đứa con của mình hóa ra cũng chỉ là một kẻ hèn nhát, cơ hội trong Mùa trái cóc ở miền Nam, hay bà mẹ ngất lịm đi vì đau đớn trước sự hi sinh của con trong "Phiên chợ Giát". Người đàn bà hàng chài trong CTNX, với tính cách chịu thương chịu khó, lam lũ vì gia đình cũng có nhiều điểm tương đồng với Liên trong Bến Quê, một người vợ suốt đời gắn bó cùng chồng, ngay cả lúc hoạn nạn nhất, dù cho trước nay anh vẫn thờ ơ với những hi sinh thầm lặng của chị. Có thể thấy, những nhân vật nữ xuất hiện trong các tác phẩm của NMC, dù xuất hiện ít hay nhiều, nhưng cũng để lại ấn tượng bởi tâm hồn nhân hậu, tính cách tần tảo và tình mẫu tử thiêng liêng. Đây cũng là cách mà NMC đào xới lên ở nơi tầng sâu tâm hồn người phụ nữ để tìm ra những "hạt ngọc" đằng sau sự đói khổ hay trái ngang của hoàn cảnh. Cuối cùng, giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện ở những trăn trở của nhà văn về vấn đề giải phóng con người khỏi nỗi đau khổ, tăm tối, đói nghèo. Câu chuyện về bi kịch gia đình của người đàn bà hàng chài vẫn còn đó, và trong chúng ta vẫn còn nhiều băn khoăn, nhức nhối về việc làm sao để những phận người như chị có được một cuộc sống tốt đẹp, tươi sáng hơn. Và hơn hết, đó cũng là bài học vẫn còn nguyên giá trị cho tới hiện tại: Con người muốn thoát khỏi đau khổ, tăm tối, man rợ cần những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tiễn. Đó là khi những lí lẽ sắc sảo của một người có học, một chánh án huyện, phải thua lí lẽ của tình mẫu tử, của lòng mẹ: "Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con", "Vui nhất là thấy lũ con tôi chúng nó được ăn no". Người đàn bà không thể bỏ người đàn ông vì đàn con, bà cần lão để "chèo chống khi phong ba", để nuôi đặng một đàn con "trên dưới chục đứa". Đó là cái uẩn khúc của tình người mà Đẩu không thể ngờ trước được, đã đánh tan giải pháp hời hợt, thiếu thực tế của anh, là khuyên người đàn bà bỏ chồng. Chính điều đó đã làm sáng lên giây phút nhận thức trong Đẩu. Đằng sau cái đơn giản là cái phức tạp, và để giải quyết mọi chuyện không chỉ nhìn bằng lý thuyết suông, mà phải biết lắng nghe, thấu hiểu, nắm rõ hiện thực của cuộc đời, của lòng người để tìm ra nguồn gốc và giải quyết tận gốc vấn đề. Người nghệ sĩ cần rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc sống, bởi nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật. Người nghệ sĩ phải biết đi sâu vào hiện thực, vượt qua những hiện tượng nhất thời để khám phá bản chất, và phải nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Nghệ thuật chân chính phải hướng đến việc phục vụ con người. Nguyễn Minh Châu đã từng quan niệm về vấn đề này: "Cuộc đời và nghệ thuật là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người". Nam Cao nói: "Sống đã rồi hãy viết", hay như Chế Lan Viên cũng cho rằng: "Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép". Đó là vấn đề muôn thuở của nghệ thuật, là trách nhiệm mà cũng là thiên chức cao cả của người nghệ sĩ. Như vậy, tác phẩm CTNX để lại nhiều dư vị trong lòng người đọc nhờ tinh thần nhân đạo thấm đẫm trên từng trang văn. Sedrin đã từng nói: "Nghệ thuật nằm ngoài sự băng hoại của thời gian, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết" Thời gian trôi qua, những gì vô nghĩa sẽ bị sàng lọc, trôi vào lãng quên, nhưng những giá trị đích thực sẽ còn sống mãi, qua thời gian sẽ càng chứng minh được sức sống và giá trị của mình. Thật vậy, mang đến những băn khoăn, chiêm nghiệm sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống, con người, Chiếc thuyền ngoài xa sẽ là một tác phẩm sống mãi với thời gian cùng những thông điệp mà nó gửi gắm. Đó cũng là điều làm nên dấu ấn của nhà văn cũng như sức sống lâu bền của tác phẩm.