Phân tích bài thơ Đây thôn vĩ dã - Hàn Mặc Tử Hàn Mặc Tử được mệnh danh là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ Mới bởi vì trong thời gian sáng tác ngắn ngủi ông đã để lại những tác phẩm bất hủ, sống mãi theo thời gian như tập thơ "Gái quê", "Thơ điên". Trong đó "Đây thôn Vĩ Dạ" được in trong tập "Thơ điên" là tác phẩm đã đưa tên tuổi Hàn Mặc Tử lên đỉnh cao trong văn học Việt Nam hiện đại. Bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình đơn phương giữa Hàn Mặc Tử và Hoàng Cúc - người con gái xứ Huế và từ kỉ niệm gắn liền với xứ Huế - một vùng đất mộng mơ. Điều ấy thể hiện rõ hai qua hai khổ đầu của bài thơ (hoặc 2 khổ sau) :(trích thơ). Sinh thời, Hàn Mặc Tử có thầm thương trộn nhớ cô Hoàng Thị Kim Cúc, tuy đây chỉ là mối tình đơn phương nhưng khi nhận được tấm bưu thiếp của cô Kim Cúc hỏi thăm về bệnh tình của mình. Hàn Mặc Tử đã rất xúc động, không khỏi mơ tưởng về người xưa. Đặc biệt, tấm bưu thiếp in hình ảnh làng quê Vĩ Dạ càng khiến nhà thơ càng khao khát được trở về Huế, nơi thi sĩ đã từng sống một thời gian. Bài thơ mở đầu bằng một hoài niệm mênh mang về cảnh và con người thôn Vĩ. Bức tranh đẹp thơ mộng còn tình người thì tha thiết nhớ mong: "Sao anh không về chơi thôn vĩ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền" Nếu như mỗi tình yêu đều gắn với một khonng gian và thời gian cụ thể, thì mối tình của nhân vật trữ tình trong bài thơ này lại gắn với vườn tược và con người Vĩ Dạ, với những kỷ niệm thật khó quên. Câu thơ mở đầu phảng phất chút riêng tư của tác giả: "Sao anh không về chơi thôn vĩ". Hình thức câu thơ là một câu hỏi tu từ nhưng mục đích là gợi cảm giác như lời trách nhẹ nhàng và cũng là lời mời tha thiết của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ hay đó cũng là lời tự trách mình, tự hỏi mình, là ước ao thầm kín của người đi xa được về lại thôn vĩ. Đó còn là lời giới thiệu thật khéo léo, tế nhị về vẻ đẹp của thôn Vĩ. Nhà thơ đã sử dụng từ "chơi" mà không dùng từ "thăm". Nếu sử dụng từ "thăm" thì cấu trúc của thơ vẫn không thay đổi nhưng nó trở nên khách sáo, từ "chơi" gợi lên sự thân mật, gần gũi và thắm thiết. Câu thơ mang nhiều ý nghĩa sâu sắc: Nhà thơ nghĩ có người con gái ở thôn Vĩ đang mời mình nhưng thực chất chỉ là tưởng tượng. Điều này cho thấy ông rất cô đơn, đang trong hoàn cảnh tội nghiệp, đang khao khát có người chia sẻ, cảm thông với mình. Ngay sau đó là cảnh và người thôn Vĩ hiện lên qua hoài niệm của thi nhân trong ba câu tiếp theo: "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền" Cảnh sắc thôn Vĩ được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. Từ xa nhà thơ đã nhìn thấy những hàng cau cao vút đón ánh nắng mặt trời buổi sớm mai, màu nắng trong trẻo tinh khôi, ánh lên những giọt sương buổi sớm. Nhắc đến Vĩ Dạ thôn, hình ảnh đầu tiên hiện lên trong tâm trí nhà thơ là "hàng cau". Bởi vì cau là một loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân hình thằng tắp, tán lá xanh tươi. Cau còn là loại cây rất quen thuộc với làng quê Việt Nam. Nguyễn Bính – Một nhà thơ của cảnh quê, hồn quê cũng đã đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên cái nền phong cảnh có hình ảnh hàng cau thân quen ấy: "Nhà anh có một hàng cau Nhà em có một giàn trầu" Ở khoảng cách gần, thôn Vĩ hiện lên như một khu vườn tràn đầy nhựa sống: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" "Vườn ai" không xác định nhưng ngầm hiểu đó là khu vườn của cô gái Huế. "Mướt" là một tính từ khác với "mượt" bởi "mượt" chỉ gợi lên sự mịn màng còn "mướt" thì gợi sự sáng bóng, tươi mới của cảnh vật. Thủ pháp nghệ thuật so sánh "Xanh như ngọc" thật đẹp, đó là một màu xanh ngọt ngào, lãng man, đượm màu sắc của tình yêu. Xanh ngọc là xanh trong, màu xanh đi liền với ánh sáng nhưng không chói chang mà lại rất dịu, người đọc có thể hình dung vẻ đẹp của viên ngọc đính giữa bầu trời xứ Huế. Câu thơ: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" thật là một sang tạo độc đáo. "Mặt chữ điền" gợi cho người đọc nhớ tới hình ảnh người đàn ông có khuôn mặt vuông vức, than hình cường tráng, đầy nam tính. Nhưng, khi hình tượng này đặt trong chỉnh thể đoạn thơ và câu thơ thì ấn tượng nổi bật lại là sự hài hòa, gắn bó mật thiết giưa con người vơi vườn tược quê hương. Như vậy, câu thơ còn khắc họa thành công một nét đáng nhớ, đáng yê của thô Vĩ: Cảnh đẹp đẽ tốt tươi, con người đôn hậu giàu sức sống. Nếu như khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng niềm lạc quan, yêu đời thì sang khổ thứ 2, tâm trạng của thi nhân dường như đã có sự thay đổi, đó chính là lúc mặc cảm chia lìa hiện ra rõ nhất trong từng câu chữ: "Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?" Hai câu thơ đầu gợi lên vẻ đẹp của sông Hương xứ Huế và thi sĩ cảm nhận dòng sông qua tâm trạng chia ly, cách biệt: "Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay" Không gian được mở rộng ra ngoài cảnh thôn Vĩ: Trời mây sông nước xứ Huế. Câu thơ đã mang cả nhịp điệu nhẹ nhàng của Huế. Buổi ban mai ở Vĩ Dạ lúc này đã chuyển sang đêm tối. Đó là lúc tâm cảnh đã nhuốm vào ngoại cảnh, nỗi buồn của thi nhân dường như phủ khắp cảnh vật. Hình ảnh "gió", "mây" là hai thực thể luôn gắn bó với nhau: Gió thổi mây bay. Chúng ta không thể nhìn được mà chỉ cảm nhận được sự tồn tại của gió qua sự chuyển động của mây. Cách ngắt nhịp4/3 rõ ràng, dứt khoát như ngắt thành hai nửa, gió đóng khung trong hai chữ "gió mây" cuộn trong hai từ mây để gợi ra tâm thế chia ly thật quyết liệt, không thể cưỡng lại được. - Hình ảnh "dòng nước buồn thiu hoa bắp lay" dùng biện pháp nhân hóa con sông thành một sinh thể có hồn, có tâm trạng để giãi bày tâm sự của chính mình. Câu thơ mang một tâm trạng buồn bã của con người hay nỗi buồn chia phôi của gió – mây. Động từ "lay" gợi một nỗi buồn hiu hắt, lay lắt – một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất. Hai câu thơ đã mở ra một bức tranh thiên nhiên ảm đạm, hiu hắt mang dự cảm về hạnh phúc chia xa, nhuốm màu chia lìa, sự sống mệt mỏi, yếu ớt. Hai câu thơ sau là nỗi nhớ, là hoài niệm của nhân vật trữ tình về sông nước, đêm trăng và tâm trạng xót xa, nuối tiếc: "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?" Cảnh vật ở khổ một thực bao nhiêu thì khổ hai lại hư ảo bấy nhiêu: "Thuyền chở trăng", "sông trăng". Một không gian ngập tràn ánh trắng, gợi không khí mơ hồ, huyền ảo, đẹp một cách thơ mộng làm cho không gian nghệ thuật trở nên hư ảo mênh mang. Hình ảnh con thuyền cô đơn nằm trên bến sông trăng là một sáng tạo độc đáo của Hàn Mặc Tử, nó mang theo những nỗi niềm của thi sĩ. Nếu như mọi vật đang trong thế chia lìa, li tán thì chỉ có trăng là gắn bó với thi sĩ. Tâm hồn nhà thơ rợn ngợp trong nỗi cô đơn. Trong khoảnh khắc ấy, thi sĩ chỉ biết mong đợi một hình ảnh duy nhất, đó chính là trăng. Vì thế câu cuối là một câu hỏi ẩn chứa biết bao niềm khắc khoải, lo âu bởi quỹ thời gian còn lại của ông quá ngắn ngủi mà trăng thì vẫn còn quá xa xôi. Tâm trạng của nhân vật trữ tình phấp phổng, lo âu được thể hiện qua từ "kịp" vừa như mong chờ hi vọng từ một cái gì đó đang rời ra, biết khi nào trở lại. Điều đó đã khiến cho khoảng thời gian "tối nay" càng trở nên ngắn ngủi. Qua hai câu thơ ta thấy được bứ tranh thiên nhiên sông nước xứ Huế buồn hiu hắt trong đêm trăng chở nặng nỗi niềm ưu tư của thi nhân. Tất cả được thể hiện qua câu hỏi tu từ đầy da diết và khắc khoải. Khổ thơ được xây dựng bằng cái nhìn tâm trạng của nhà thơ. Âm điệu rộn ràng vui tươi ở khổ 1 đến đây không còn nữa. Tác giả mang mặc cảm của một người sắp phải từ giã cõi đời nên nhìn đâu nhà thơ cũng thấy sự chia lìa. Đặc biệt là cảm giác sợ hãi không kịp thời gian để tận hưởng cuộc sống nên ông càng khắc khoải. Khổ thơ cho thấy sự khao khát, mong mỏi được giao cảm với người, với đời, mong tìm được bạn tri âm của người nghệ sĩ bất hạnh. Mặc dù sống trong mơ nhưng thi nhân không mất hết hi vọng mà vẫn mong ước một cách mãnh liệt: "Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?" Nhịp thơ đã có sự thay đổi, cảnh ở đây dường như không thật, nhịp thơ 4/3 và điệp ngữ "khách đường xa" được lặp lại hai lần thể hiện sự gấp gáp, vội vàng và mơ ước, khao khát đến mãnh liệt. Từ "mơ" nằm ở đầu câu, "mơ" chứ không phải là "mong", vì không mong được nên "mơ", vì sống trong "mơ" có lẽ sẽ bớt đi nỗi cô đơn thì phải. "Khách đường xa" dường như là cô gái xứ Huế và khách đường xa xuất hiện trong màu áo trắng. Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp tinh khôi của cô gái Huế; màu trắng chỉ sự trong trắng của mối tình đơn phương của thi nhân. "Ở đây" – trại phong Quy Hòa - là nơi mà nhà thơ luôn xem là tù ngục giam lỏng mình. "Ở đây" và "ngoài kia" có xa xôi mấy đâu, vậy mà một lần về thăm thi nhân cũng không về được, đó chính là xứ Huế chứa đựng cả một trời kỉ niệm. Để rồi sau đó từ trong sâu thẳm tâm hồn của thi nhân cất lên một câu hỏi đầy hoài nghi và khắc khoải về một mối tình đơn phương "Ai biết tình ai có đậm đà?" Chữ "ai" ỏ đầu câu là để chỉ cô gái Huế chăng? Đây là sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết. Nhà thơ trong trạng thái bị dày vò vì khao khát tình yêu, vì càng yêu nhiều thì sẽ càng lo sợ tình yêu ấy sẽ mất đi. Đoạn thơ thể hiện sự bi quan, chán nản đến tuyệt vọng của một tâm hồn, khao khát tình người nhưng lại không được đáp lại. Một hoàn cảnh bất hạnh, tội nghiệp của Hàn Mặc Tử-một nhà thơ trẻ trong phong trào Thơ Mới. Hàn Mặc Tử chỉ chủ yếu sử dụng bút pháp gợi tả nhưng cái tình của nhà thơ vẫn đong đầy trong từng câu chữ. Đặc biệt, mỗi khổ thơ hoặc mở đầu, hoặc kết thúc bằng một câu hỏi tu từ cho thấy nỗi băn khoăn, lo lắng của Hàn Mặc Tử về tình người, tình đời. Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, "Đây thôn Vĩ Dạ" đã cho ta thấy được tình yêu thiên nhiên và con người xứ Huế thật sâu nặng, tha thiết ở Hàn Mặc Tử. Có lẽ đây là một trong số ít những bài thơ trong sáng, trữ tình nhất của Hàn Mặc Tử. Qua đó, người đọc càng đồng cảm cho một cuộc đời tài hoa, bạc phận. Đọc những dòng thơ cuối cùng, khép tác phẩm lại, người đọc vẫn còn cảm nhận rõ khát khao được chia sẻ, được giao cảm với con người, cuộc đời của nhà thơ bất hạnh trong văn học Việt Nam. Thật không hổ danh là một nhà thơ nổi tiếng, tiêu biểu trong phong trào Thơ Mới.