Ôn tập bài thơ Việt Bắc - Tố Hữu

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi estoulam, 2 Tháng mười 2021.

  1. estoulam

    Bài viết:
    63
    ÔN TẬP BÀI THƠ VIỆT BẮC - TỐ HỮU

    A) Hoàn cảnh ra đời:

    - Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Tháng 7 – 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới.

    - Tháng 10 – 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử đó, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc để nói lên tình cảm thắm thiết với Việt Bắc – quê hương của cách mạng. Việt Bắc rất tiêu biểu cho thể tài thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.

    [​IMG]

    B) Giá trị tư tưởng:

    Việt Bắc thể hiện tình cảm của Tố Hữu đồng thời tiêu biểu cho tình cảm cao đẹp của những người kháng chiến đối với căn cứ Việt Bắc, đối với nhân dân và Đất nước.

    Việt Bắc là khúc hát ân tình thủy chung giữa những con người cách mạng kháng chiến (người miền xuôi) với Việt Bắc và giữa nhân dân Việt Bắc với cách mạng, thể hiện truyền thống đạo lí thủy chung, giàu ân nghĩa của dân tộc ta.

    C) kiến thức cơ bản.

    (1) Đoạn 1 (Mình về mình có nhớ ta.. Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay)

    Giống như những khúc hát giã bạn "người ơi người ở đừng về" trong đêm hội, ở đây người cất lên tiếng nói đầu tiên trong cuộc chia tay là người ở lại, gợi nhắc về những kỉ niệm gắn bó suốt mười lăm năm: Mình về mình có nhớ ta.. thiết tha mặn nồng

    Giọng cất lên là giọng của yêu thương trìu mến, nhung nhớ, chia xa. Tất cả nhắc gọi về kỉ niệm giống như vô vàn những cuộc chia tay muôn thuở xưa nay. Có bao nhiêu điều cụ thể từng chia sẻ, gắn bó đã trôi qua suốt Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.. Cụm từ thiết tha mặn nồng dường như không chỉ là tình yêu lứa đôi mà còn gói trọn cả những sẻ chia sóng gió thác ghềnh làm nên cái nặng sâu bền chặt của tình nghĩa vợ chồng. Thời gian mười lăm năm được đánh dấu từ mốc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 cho đến khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, hòa bình lập lại, Việt Bắc đã làm tròn sứ mệnh của một căn cứ địa cách mạng vững chắc.

    Chuyện nghĩa tình cách mạng lớn lao đầy màu sắc chính trị như vậy đã hóa thân tự nhiên vào câu chuyện tình cảm lứa đôi bền chặt, để mười lăm năm ấy trở thành thiết tha mặn nồng dìu dặt và quyến luyến lòng người.

    Đúng ở thời khắc chia tay, mối bận tâm, điều muốn nhắn gửi, cũng là điều muốn dò đón, khắc sâu chính là mối băn khoăn Có nhớ không? Trào lên qua câu chữ: Mình về mình có nhớ không

    Bảo là hỏi tu từ, hỏi để gợi nhắc, gợi nhớ cũng đúng. Nhưng bảo là mối quan tâm thực sự tha thiết đang chờ đợi câu trả lời có lẽ đúng hơn. Có nhớ không? Trở thành mối quan tâm đau đáu riết róng vì thói thường gian khổ thì bền chặt, sung sướng hạnh phúc rất dễ làm con người quên đi những ngọt bùi cay đắng đã nếm trải. Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

    Bốn câu thơ trên chính là khúc dạo đầu của cảm xúc chia tay để từ đó biết bao điều chưa nói sẽ được thổ lộ giãi tỏ tâm tình. Lời hỏi chỉ là cái cớ gợi dẫn để trào tuôn mạch cảm xúc nhớ thương trong lòng người lên đường.

    Bốn câu thơ cuối của đoạn (lời người đi) đã tái hiện trước mắt người đọc một cuộc chia tay kẻ ở người đi đầy bâng khuâng, lưu luyến: Tiếng ai tha thiết bên cồn.. Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay

    Sắc áo chàm chất phát, đậm đà, quen thuộc gắn bó với đồng bào Việt Bắc giờ đây hiện lên như một điểm nhớ thân thương trong lòng người ra đi qua cách sử dụng nghệ thuật hoán dụ của nhà thơ. Tất cả đã làm trào dâng cảm xúc trong lòng người lên đường.

    Người ra đi như đồng vọng thiết tha với cảm xúc thiết tha của người ở lại nên ngập ngừng không nỡ bước chân: Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

    Các từ láy bâng khuâng, bồn chồn, tha thiết hài hòa đồng điệu với nhau để thể hiện cảm xúc, vừa lưu luyến nhớ thương, vừa mong ngóng nôn nao.

    Nhà thơ đã sử dụng thành công nhịp ngắt linh hoạt của thơ lục bát để gợi ra khung cảnh và ấn tượng, cảm xúc cuộc chia tay: Áo chàm đưa/ buổi phân li; Cầm tay nhau/ biết nói gì/ hôm nay.. Như hiển hiện sau câu chữ là động thái trữ tình: Người đi kẻ ở tay trong tay, những khoảng ngừng lặng không nói nên lời bởi bộn bề cảm xúc, biết nói gì đây bởi quá nhiều điều để nói, bắt đầu từ đâu và nói bao nhiêu cho đủ, cho thỏa bấy nhiêu năm thiết tha mặn nồng gắn bó cùng nhau.

    (2) Đoạn 2 (Mình đi có nhớ những ngày.. Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa)

    Đoạn thơ là lời người ở lại nhắn nhủ với người đi đừng quên "chiến khu" – vùng đất gắn liền với những gian lao trong kháng chiến và lòng căm thù giặc nhưng cũng rất hào hùng trong chiến đấu: Mình đi, có nhớ những ngày.. Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

    Những dòng thơ gợi nhắc kỉ niệm đã lí giải vì sao nhà thơ gọi mười lăm năm ấy bằng từ thiết tha mặn nồng đầy nghĩa tình. Bởi đó là thời gian dệt lên từ tình yêu thương, từ gian khổ thiếu thốn, từ sự chung sức chung lòng. Ở đó ta – mình cùng chia sẻ những khó khăn, vất vả của cảnh mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù, cùng dằn lòng với miếng cơm chấm muối, chung một mối thù nặng vai, cùng trải qua những buổi hắt hiu lau xám để gánh cuộc kháng chiến trên vai. Từ thuở khởi đầu chiến đấu, bên ta đã có mình, hỏi sao không chất chứa tình cảm thiết tha mặn nồng lưu luyến?

    Đặt trong cấu trúc cân đối, hài hòa của những tiểu đối trong các câu thơ tám chữ, ấn tượng để lại với người đọc là cái sắt son bền chặt thuỷ chung của tình cảm con người. Từ miếng cơm chấm muối mà nung nấu tâm can mối thù nặng vai thêm sôi sục. Từ hắt hiu lau xám, mưa nguồn, suối lũ, mây mù mà ngời lên đậm đà lòng son vẹn tròn, chung thuỷ. Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình. Mười lăm năm ấy cũng là bao nhiêu kỉ niệm kháng chiến.

    Theo dòng hồi tưởng, người ở lại gợi nhắc cho chúng ta trở về thuở ban đầu gây dựng nền móng cách mạng cho đến khi lớn mạnh trưởng thành. Và đến giờ, nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc vẫn sắt son và mãi khắc ghi trong dạ: Mình về, rừng núi nhớ ai.. Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?

    Những khi ấy, mình – ta từng chung niềm vui kháng chiến sôi sục trong những ngày kháng Nhật, phong trào Việt Minh và mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào nơi Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, tiền thân của quân đội Việt Nam lớn mạnh sau này, nơi Quốc dân Đại hội phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

    Có rất nhiều cảm xúc đang dâng lên trong lòng người đưa tiễn trước lúc chia xa. Đó là nỗi nhớ khôn khuây, ngơ ngẩn: Mình về, rừng núi nhớ ai – Trám bùi để rụng, măng mai để già.. Đó là nỗi niềm bồi hồi dâng lên khi kỉ niệm dào dạt ùa về.

    Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ rừng núi nhớ ai.. trám để rụng, măng để già, điệp từ mình về, mình đi, có nhớ, còn nhớ, nhịp câu 2/4 – 4/4 đều đặn.. gợi lên hình ảnh một người đang bâng khuâng sững sờ với cảm giác hụt hẫng của chia li, dè chừng sự lãng quên nên tha thiết nhắc nhở người về bằng những hoài niệm ân nghĩa nhất, nguồn cội sâu rộng nhất, sâu trong tình người, rộng trong thời gian, không gian. Đây là tình cảm những con người cách mạng trong không gian, thời gian của cách mạng.

    (3) Đoạn 3 (Nhớ gì như nhớ người yêu.. Chày đêm nện cối đều đều suối xa)

    Hiện theo mỗi điệp khúc nhớ là hình ảnh con người và thiên nhiên hòa quyện trong nhau. Khác với đoạn thơ trước, cảnh Việt Bắc ở đây hiện ra rất thơ mộng hiền hòa. Một vầng trăng thấp thoáng nơi đầu núi, một ánh nắng chiều lấp ló lưng nương: Nhớ gì như nhớ người yêu.. nắng chiều lưng nương

    + Những bản làng bồng bềnh thực hư trong sương khói:

    Nhớ từng bản khói cùng sương

    Sớm khuya bếp lửa người thương đi về

    + Những rừng nứa, bờ tre, những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê đầy vơi trong nhung nhớ:

    Nhớ từng rừng nứa bờ tre

    Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

    Mỗi cảnh vật là một nét nhớ, nét thương thân thuộc vì gợi nhắc đến con người Việt Bắc. Đó là những con người từng chia bùi sẻ ngọt cùng người cách mạng:

    Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi

    Thương nhau chia củ sắn lùi

    Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

    Các từ ngữ thương nhau, sẻ nửa, đắp cùng như những ngọn lửa thắp sáng vần thơ, làm cho tình đồng bào đồng chí, tình quân dân cá nước thêm ấm áp. Câu thơ làm ta nhớ đến những vần thơ sáng ngời tình đồng chí của Chính Hữu: Súng bên súng đầu sát bên đầu – Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ (Đồng Chí).

    Đó là những con người tảo tần lam lũ, chịu thương chịu khó:

    Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

    Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

    Trên những miền núi quê ta, chúng ta dễ dàng bắt gặp những hình ảnh những người mẹ vừa làm nương rẫy vừa địu con trên lưng thật cảm động: Mặt trời của bắp nằm ở trên đồi – Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng "(Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa Điềm. Người mẹ chống Pháp và người mẹ chống Mĩ có những điểm tương đồng trong công việc. Nét đẹp của hình tượng được khơi lên từ tính chất công việc" Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội ".. Người mẹ được khắc họa trong từng chi tiết sống động nhất, nổi bật nhất đã từng xuất hiện như thế này trong nhiều trang thơ của Tố Hữu và bao giờ cũng gây một mối giao cảm mãnh liệt.

    Đó là những con người từng cùng vui niềm vui của lớp học xóa mù chữ, diệt giặc dốt và những giờ liên hoan tưng bừng với ngọn đuốc sáng:

    Nhớ sao lớp học i tờ

    Đồng khuya đuốc sang những giờ liên hoan

    Đó còn là những người lạc quan yêu đời gắn bó cùng kháng chiến và cuộc sống thanh bình tươi đẹp Việt Bắc:

    Nhớ sao ngày tháng cơ quan

    Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

    Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

    Chày đêm nện cối đều đều suối xa.

    Bức tranh không chỉ có đường nét, màu sắc, ánh sáng mà còn gợi tới âm thanh: Tiếng i tờ vỡ lòng ngượng nghịu, tiếng hát ca vang núi đèo, tiếng mõ rừng chiều thân quen, tiếng chày đêm nện cối điểm nhịp đều đều nơi suối xa.. Những âm thanh ấy đã thổi cái hồn riêng vào bức tranh thơ.

    Bên cạnh việc sử dụng điệp từ nhớ, trong cả đoạn thơ tác giả còn sử dụng thành công nhiều biện pháp nghệ thuật khác. Đó là nhịp điệu thơ mượt mà, êm ái, như ru người đọc vào những kỉ niệm bang khuâng. Đó là những hình ảnh thân thuộc gần gũi của thiên nhiên và con người mang đậm chất Việt Bắc. Đó còn là những cách diễn tả đậm màu sắc trữ tình phù hợp với cấu tứ như cuộc chia tay của đôi bạn tình đã từng gắn bó nay phải tạm chia xa. Việt Bắc đã trở thành người yêu (Nhớ gì như nhớ người yêu), thành người thương (Sớm khuya bếp lửa người thương đi về) trong nỗi nhớ ấy.

    Đoạn thơ trên là bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Tuy nhiên, không phải nhà thơ chỉ dừng lại ở việc tả cảnh tả người, mà qua mỗi hình ảnh thiên nhiên, mỗi hình ảnh về con người đều chất chứa một nỗi niềm nhung nhớ của người đi. Bức tranh hiện ra với nhiều chi tiết thật cụ thể, thật quen thuộc, thật cảm động. Điều đó thể hiện nghĩa tình thuỷ chung của người đi rất sâu đậm với chiến khu Việt Bắc.

    (4) Đoạn 4 (Ta về, mình có nhớ ta.. Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung)

    Trong nhiều đoạn thơ của Việt Bắc, người đọc dễ dàng bắt gặp vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hiện lên thật sinh động. Đặc biệt tác giả đã dụng tâm khắc họa một bức tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc trọn vẹn trong khổ thơ cân đối hài hòa: Ta về, mình có nhớ ta.. ân tình thuỷ chung.

    Hai câu đầu khái quát chung về nỗi nhớ, cũng là hé mở cách tạo" bố cục "cho bức tranh: Một nét vẽ hoa (những hoa) – thiên nhiên và một nét vẽ con người (cùng người), cứ thế lần lượt hiện ra: Ta về, mình có nhớ ta/ Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

    Những câu tiếp theo tập trung vào miêu tả thời gian trôi đều đặn qua bốn mùa cùng những tín hiệu riêng của cảnh và người:

    Mùa đông ấm nóng, tươi tắn trong gam màu nóng của những bông hoa chuối rừng đỏ tươi thắp lửa thấp thoáng bên tàu lá. Cả khu rừng màu xanh như được điểm thêm sắc đỏ cùng" nắng ánh "như tạo một không gian khí trời mùa đông" không lạnh lẽo ". Trong khung cảnh đó, nhà thơ vẽ một nét chấm phá về con người, đó là con người đi rừng lao động thu hái sản vật núi rừng:

    Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

    Mùa xuân Việt Bắc bạt ngàn màu trắng của hoa mơ. Màu trắng của hoa mơ như gợi sắc xuân núi rừng Việt Bắc một nét mơn mởn tươi trong và tinh khiết. Hòa cùng sắc xuân ấy là cảnh người dân Việt Bắc chuốt giang đan nón. Cuộc sống mùa xuân như sôi động hơn cũng chính bởi cảnh lao động của những thôn dân nơi đây: Ngày xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

    Hè sang, tiếng ve kêu báo tín hiệu của mùa và rừng phách ào ạt đổ vàng. Đó cũng chính là lúc" cô em gái "đi hái măng" một mình ". Mùa nào thức nấy, thiên nhiên đã cung cấp nhiều" sản vật "núi rừng cho bữa ăn hằng ngày của người dân nơi đây. Cảnh" cô em gái "măng cũng thường xuất hiện nơi núi rừng Việt Bắc và đã để lại ấn tượng lâu dài trong lòng người đi: Ve kêu rừng phách đổ vàng / Nhớ cô em gái hái măng một mình.

    Mùa thu thanh bình trong ánh trăng hạnh phúc. Trong ánh trăng huyền ảo lung linh, giọng ai cất lên tiếng hát về mối ân tình thuỷ chung càng làm cho bức tranh Việt Bắc thêm thơ mộng và trữ tình biết bao: Rừng thu trăng rọi hòa bình/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

    Đoạn thơ trên có thể xem là tuyệt bút khi viết về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Chỉ qua một vài nét chấm phá, cảnh núi rừng Việt Bắc xuất hiện thật sinh động: Mỗi mùa một nét riêng, thiên nhiên hiện lên đa dạng theo thời gian, không gian, có nắng sớm, nắng chiều, trăng khuya và các mùa..

    Đặc biệt, bức tranh Việt Bắc càng hữu tình, sinh động hơn khi có sự gắn bó với con người qua cách miêu tả tài tình: Một câu tả cảnh đi liền là một câu tả người. Âm hưởng bao trùm đoạn thơ là ngọt ngào, thiết tha sâu lắng như ru vỗ con người vào nhịp nhớ đều đặn của những kỉ niệm không quên.

    (5) Đoạn 5 (Nhớ khi giặc đến giặc lùng.. Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng)

    Ta dễ dàng cảm nhận được đoạn thơ trên khắc họa cuộc sống chiến đấu nơi Việt Bắc mang âm điệu mạnh mẽ, dồn dập, sôi nổi, hào hùng. Hình ảnh thơ hoành tráng, mang đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn bay bổng. Một hình tượng" đất nước đứng lên "như sống dậy trong mỗi câu thơ.

    Đó là hình tượng người dân Việt Bắc, người cán bộ kháng chiến, bộ đội, dân công, rừng cây, núi đá, tất cả đã thống nhất thành một trận tuyến chống quân thù: Nhớ khi giặc đến giặc lùng/ Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.

    Cuộc kháng chiến thần thánh ngày một trưởng thành lớn mạnh. Từ lúc giặc đến giặc lùng, rừng và người Việt Bắc che chở, bao bọc nhau, đến chỗ rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây là một bước phát triển của kháng chiến: Nhớ khi giặc đến giặc lùng/ Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.

    Sự lớn mạnh đó là nhờ vào sự chung lòng đoàn kết chiến đấu của mọi người dân:

    Mênh mông bốn mặt sương mù

    Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

    Để rồi từ đó, chúng ta có những chiến thắng đầu tiên nức lòng nhân dân, bộ đội gắn với các địa danh Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Phố Ràng, Cao – Lạng, Nhị Hà..

    Ai về ai có nhớ không?

    Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà..

    Đó là bức tranh Việt Bắc ra trận với khí thế sôi nổi, hào hùng. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã đi đến những ngày quyết định cuối cùng. Cả một đội quân nhân dân trùng trùng ra trận được khắc họa hoành tráng trong mỗi câu thơ: Những đường Việt Bắc của taĐèn pha bật sang như ngày mai lên.

    Những con đường Việt Bắc cụ thể, cũng là những nẻo đường cách mạng của dân tộc đã đến ngày rộng trải thênh thang. Con đường là hình ảnh quen thuộc trong thơ Tố Hữu gắn với ý nghĩa biểu tượng về đường cách mạng. Tả con đường ra trận nhưng là để nói lên khí thế dũng mãnh của những người ra trận bằng biện pháp so sánh cường điệu và từ láy gợi thanh:

    Những đường Việt Bắc của ta

    Đêm đêm rầm rập như là đất rung

    Tưởng như mặt đất cũng đang chuyển động dưới bàn chân những chiến sĩ trong một cuộc ra quân vĩ đại từ khắp các ngả đường của căn cứ địa cách mạng.

    Trong cuộc ra quân ấy, hình ảnh đoàn quân rất đẹp.

    Quân đi điệp điệp trùng trùng

    Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

    Đẹp trong đội ngũ điệp điệp, trùng trùng như một sức mạnh vô tận, đẹp trong ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan gợi nhớ hình ảnh đầu súng trăng treo trong thơ Chính Hữu và hình ảnh súng ngửi trời trong thơ Quang Dũng. Cái ánh sao ở đây vừa như gần gũi thân quen với mũ nan của anh, lại như rực sáng lí tưởng trên đầu mũi súng của người lính. Một hình ảnh thơ vừa thực, vừa lãng mạn, gợi nhiều liên tưởng đẹp về anh bộ đội cụ Hồ.

    Hai câu 5, 6 là hình ảnh những đoàn dân công phục vụ tuyền tiến. Khí thế mạnh mẽ của đội quân nhân dân được tác giả khắc họa bằng lối thậm xưng, phóng đại:

    Dân công đỏ đuốc từng đoàn

    Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

    Hình ảnh những đoàn dân công đỏ đuốc đi trong đêm là đúng với hiện thực. Nhưng với ánh đuốc đỏ rực ấy cùng với muôn tàn lửa bay thì lại lãng mạn biết bao. Có khác gì một hội hoa đăng! Còn bước chân nát đá là bước chân của những người đạp bằng mọi chông gai để đi tới, hình ảnh được lấy từ ý ca dao: Trông cho chân cứng đá mềm..

    Hai câu tiếp theo là hình ảnh những đoàn xe ra trận mà đèn pha bật sáng quét sạch màn sương đêm dày thăm thẳm:

    Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

    Đèn pha bật sang như ngày mai lên.

    Rất hiện thực mà cũng rất lãng mạn. Từ những đêm Việt Bắc, những đường Việt Bắc đó, một cảm hứng lãng mạn bay bổng về tương lai tươi sáng của dân tộc chói lòa qua từng câu thơ đầy hào khí.

    Và đây là một" bản đồ vui"tỏa rộng khắp đất nước báo tin chiến thắng:

    Tin vui chiến thắng trăm miền

    * * *..

    Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

    Nhịp điệu thơ dồn dập tươi vui, náo nức phấn khởi. Mỗi một địa danh là một nốt nhạc vui rộn ràng trong bản hùng ca chiến thắng.

    Các địa danh không chỉ có ở Việt Bắc mà còn trải dọc theo trăm miền đất nước: Từ Nam Bộ, Tây Nguyên cho tới Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên. Sự xuất hiện của một loạt các địa danh trăm miền bên cạnh nhau gắn với các tin vui chiến thắng dường như cho thấy tốc độ thần kì của những thắng lợi đó.

    Những từ ngữ vui về, vui từ, vui lên mặc nhiên đã đặt Việt Bắc vào tâm điểm của mọi miền vui. Từ Việt Bắc niềm vui tỏa đi. Và từ khắp nơi, tin vui bay lại Việt Bắc.

    * KẾT LUẬN

    Việt Bắc là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian – tất cả đã góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu: Hãy nhớ mãi và phát huy truyền thống quý báu anh hùng bất khuất, ân nghĩa thuỷ chung của cách mạng, của con người Việt Nam.

    Việt Bắc (hoặc đoạn thơ trên) tiêu biểu cho hồn thơ và thể tài thơ trữ tình – chính trị mang đậm tính sử thi, cảm hứng lãng mạng và đậm đà tính dân tộc của Tố Hữu.
     
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...