ÔN TẬP BÀI THƠ SÓNG - XUÂN QUỲNH A) Tác giả Xuân Quỳnh - Xuân Quỳnh (1942 – 1988) quê ở La Khê, thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây. Năm 13 tuổi, Xuân Quỳnh trở thành diễn viên múa. Năm 21 tuổi, Xuân Quỳnh chuyển sang làm báo, rồi làm biên tập viên báo Văn nghệ, biên tập viên NXB Tác phẩm mới, Ủy viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam khóa III. - Tác phẩm tiêu biểu: Thơ Tơ tằm – Chồi biếc (in chung, 1963), Hoa dọc chiến hào (1968), Gió Lào cát trắng (1974), Hoa cỏ may (1989).. - Xuân Quỳnh thích làm thơ ngay từ khi còn là diễn viên múa và là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ. Thơ Xuân quỳnh thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. - Năm 2001, Xuân Quỳnh được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. B) Bài thơ Sóng Sóng được sáng tác năm 1967, trong một chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968). Trước khi Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. C) Nội dung chi tiết Trong dàn đồng ca của thơ trẻ chống Mĩ, Xuân Quỳnh nổi lên như một tiếng thơ trẻ trung, tươi mát, đầy nữ tính. Đặc biệt, tiếng thơ tình yêu của Xuân Quỳnh đã làm biết bao trái tim độc giả rung động. Viết về tình yêu, Xuân Quỳnh cũng đã hơn một lần tìm đến kí thác vào biển (Thuyền và biển). Tưởng "chỉ có thuyền mới hiểu" biển và "chỉ có biển mới biết" thuyền. Nhưng dường như "Thuyền và biển" chưa nói hết được những khát vọng tình yêu, những trăn trở, âu lo và nhung nhớ trong trái tim dịu êm đầy bão tố của người phụ nữ nên một lần nữa, Xuân Quỳnh lại tìm đến biển, gửi tâm sự vào Sóng. Tiêu biểu cho thành công nghệ thuật của bài thơ Sóng phải kể đến là.. (1) Phân tích hình tượng Sóng Bài thơ Sóng được Xuân Quỳnh viết năm 1967, in trong tập Hoa dọc chiến hào. Bài thơ là tiếng nói của tình yêu, là khát vọng muôn đời của tuổi trẻ, gắn liền với cuộc sống. Sóng là lời đối thoại giữa Em và Anh, thực chất đó là lời độc thoại nội tâm của một người phụ nữ đang yêu; đây còn là tiếng nói hồn nhiên, chân thành của một trái tim phụ nữ đang khát khao yêu đương. Tứ thơ toàn bài xoay quanh một hình tượng sáng tạo có giá trị thẩm mĩ – hình tượng sóng. Không phải ngẫu nhiên tác giả lại chọn Sóng để giãi bày tình cảm của mình mà chắc chắn phải có nguyên do của nó. Chính bản thân Sóng đã mang nét gợi cảm và quyến rũ muôn đời đối với những tâm hồn lãng mạn luôn say đắm cảnh đẹp thiên nhiên. Chính vì thế mà các thi nhân thường mượn sóng để diễn tả cảm xúc của mình: "Sóng không phải là roi mà vách đá phải mòn. Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím. Sóng có nghĩa gì đâu nếu chiều nay em chẳng đến. Vì sóng đã làm anh nghiêng ngả vì em.." (Hữu Thỉnh) Hay Xuân Diệu lại ước mơ: "Anh xin làm sóng biếc. Hôn bãi cát vàng em. Hôn thật khẽ thật êm. Hôn êm đềm mãi mãi.." Xuân Quỳnh cũng không ngoại lệ. Chị cũng mượn sóng để gửi niềm tâm sự. "Và gió thổi và mây bay về núi / Lời thương nhớ ngàn lần em muốn nói / nhưng bây giờ chỉ có sóng và em." Nhưng nét hấp dẫn riêng của "Sóng" chính là ở việc xây dựng hình tượng. Trong bài thơ, sóng không chỉ là hình ảnh ẩn dụ nữa mà có lúc cả sóng và em đã hòa thành một; sóng chính là em mà em cũng chính là sóng. Từ hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả một quy luật muôn thuở của tình yêu: Tình yêu gắn liền với tuổi trẻ, tuổi trẻ luôn khát khao yêu đương, tình yêu là sự trẻ trung của tâm hồn: Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ Bằng hình tượng Sóng, Xuân Quỳnh diễn tả sự băn khoăn, trăn trở của đôi lứa yêu nhau: Muốn giải thích, cắt nghĩa về tình yêu, về người yêu và về chính bản thân mình, nhưng đều không có câu trả lời thỏa đáng. Vì khó giải thích, cắt nghĩa, nên tình yêu luôn luôn mới mẻ, luôn luôn là sự khám phá: Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ. Bằng việc khai thác trạng thái đa dạng, đối lập của hình tượng Sóng, tác giả đã diễn tả nỗi nhó cồn cào, khắc khoải của những người yêu nhau: Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ. Ngày đêm không ngủ được. Lòng em nghĩ đến anh Cả trong mơ còn thức. " Nhân vật trữ tình bày tỏ khát vọng về một tình yêu thủy chung và vĩnh cửu: Em muốn hóa thân thành sóng để còn tồn tại mãi mãi trongtình yêu: Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ Nhờ khai thác sáng tạo tính đối lập, đa dạng, phức tạp, vĩnh hằng của hình tượng Sóng, Xuân Quỳnh bộc lộ sinh động những trăn trở, lo âu, khát vọng.. của người phụ nữ với một tình yêu thiết tha mạnh mẽ. Trái tim khao khát, hạnh phúc của người phụ nữ đã được thể hiện rõ ở bài thơ Sóng. Trái tim ấy thật chân thành, đằm thắm, chứa dựng những tình cảm rộng lớn, mạnh mẽ. (2) Đoạn thơ" Con sóng dưới lòng sâu.. Dù muôn vời cách trở " Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong tình yêu luôn làm con tim thổn thức, rạo rực đến đắm say. Anh nhớ em, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi. (Xuân Diệu) Nhưng ở đây, Sóng nhớ bờ - em nhớ anh, một phát hiện rất tinh tế của xuân Quỳnh. Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ. Ngày đêm không ngủ được. Lòng em nghĩ đến anh Cả trong mơ còn thức." Có lẽ, Xuân Quỳnh dành phần ưu ái nhiều hơn cho nỗi nhớ nên cấu trúc của đoạn thơ cũng có phần khác biệt. Đây là khổ thơ có dung lượng câu thơ nhiều nhất (6 câu). Điều ấy đủ cho ta thấy một nỗi nhớ đến da diết khôn nguôi đang trào dâng trong tâm hồn của nhân vật trữ tình như nhưng con sóng miên man. Bằng biện pháp nghệ thuật đối lập: Dưới >< trên, ngày >< đêm, lòng sâu >< mặt nước, dường như nỗi nhớ đã choáng ngợp cả không gian, chiếm lĩnh cả thời gian. Thế nhưng nếu sóng nhớ bờ đến "ngày đêm không ngủ" thì Em nhớ anh "cả trong mơ còn thức" Nỗi nhớ không chỉ thể hiện ở dạng ý thức mà còn thể hiện ở dạng tiềm thức. Cách bộc lộ nỗi nhớ ở dạng vô thức là một cách nói thành thật nhất và thông minh nhất của một người phụ nữ chín chắn, từng trải. Đến lúc này chị đã tách ra khỏi sóng để tự nói lên nỗi nhớ của mình một cách táo bạo đầy cá tính. Quả thật khi cảm xúc đã đến độ chín nhất, sâu sắc nhất con người ta sẽ không thể trong chờ vào một đối tượng ngoại cảnh để nói dùm. Trong tình yêu, xa cách là phép thử thông minh nhất. Bởi người ta rất dễ "Xa mặt cách lòng". Nhưng với tình yêu đích thực của trái tim yêu thủy chung thì khoảng cách kia sẽ chẳng có nghĩa lí gì cả. Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương. Nghệ thuật đối lập: Xuôi >< ngược, Phương Bắc>< phương Nam và cách nói ngược "xuôi về Bắc - ngược về Nam".. là những hình ảnh chỉ về sự xa cách trong không gian. Thế nhưng dẫu (chỉ hành động ngược lại), ở nơi nào đi chăng nữa thì em vẫn chỉ hướng về một phương duy nhất đó là "phương anh". Quả thật khi nỗi nhớ càng mãnh liệt, thì tình yêu càng thủy chung và niềm tin càng mạnh mẽ: Ở ngoài kia đại dương Trăm nghìn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ. Dù muôn vời cách trở. Từ hình ảnh những con sóng ngày đêm miệt mài vỗ để vào được với bờ yêu thương, Xuân Quỳnh đã khẳng định một niềm tin chắc chắn vào tình yêu của mình sẽ đến được bến bờ hạnh phúc. Khổ thơ không phải chỉ nói sóng mà là nói đến chính tình yêu của mình – tình yêu của một con người sẵn sàng vượt muôn vàn cách trở. Đó không phải là một tình yêu tầm thường, vị kỉ mà đó là niềm yêu tin vào cuộc đời của một người phụ nữ đầy nghị lực và giàu yêu thương – Xuân Quỳnh. * KẾT LUẬN Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ Sóng diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thuỷ, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó, ta thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người. Sóng (hoặc đoạn thơ trên) là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh.