Nhập vai Mị Châu và kể lại truyền thuyết với một kết thúc khác

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Tuithichmuitramhuong, 19 Tháng mười một 2021.

  1. Tuithichmuitramhuong

    Bài viết:
    65
    Đề bài:

    "Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu

    Trái tim lầm chỗ để trên đầu

    Nỏ thần vô ý trao tay giặc

    Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu."


    (Tâm sự, Tố Hữu)

    Đoạn thơ trên đã gợi nhắc cho chúng ta nhớ đến truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy thời Âu lạc. Anh/ chị hãy nhập vai nhân vật Mị Châu và kể lại câu chuyện đó với một kết thúc khác.

    BÀI LÀM

    Bóng tối giờ đang bao phủ ta, ánh sáng dường như tắt hẳn chẳng chừa dù chỉ một tia sáng, ta nhận ra mình đang ở trong một nơi tăm tối vô tận không có lối thoát, ta đã chết. Ta là ai, là công chúa Mị Châu, là con gái yêu của vua cha An Dương Vương, vua nước Âu Lạc. Ta là một con người hiền thục lại nết na, thùy mị, sắc nước hương trời- cái ta được hưởng từ mẫu thân yêu quý. Cha ta chiều chuộng ta hết mực, ta cũng thương ông, tất cả tình thương của cha đều dành trên người ta. Cha là một vị vua có tấm lòng yêu nước thương dân, nhân dân luôn tôn kính ông như một vị thần, người đã có công thống nhất và giờ là bảo vệ, giữ gìn Âu Lạc. Nhưng giờ cơ đồ bao năm cũng đã rơi vào tay giặc, ta lại rơi lệ lần nữa sau rất nhiều lần rơi lệ. Ta nhớ về khởi đầu của câu chuyện bi kịch cuộc đời, cả một đời ta cũng chẳng thể quên, đến chết cũng chẳng thể xóa đi sự đau đớn hằn trong tim ta.

    Cha ta, vị vua anh hùng, họ Thục tên Phán. Cha tìm mọi cách để giữ cho nhân dân luôn được an yên, ông phòng vệ cẩn thận bất chấp việc nước nhà đã thống nhất. Cha nói với ta, giặc dữ luôn chăm chăm nhòm ngó xâm lược nên phải luôn cẩn trọng. Cha muốn xây nên một thành đô vững chắc, vạn quân không địch nổi. An Dương Vương chọn đất Việt Thường mà đắp thành, thế nhưng đắp mãi không được, đắp đến đâu đất lở đến đấy. Quyết dựng thành, vua cầu khấn thần linh giúp đỡ, lập đàn trai giới thờ bách thần. Sau đó, sứ Thanh Giang từ phương Đông tới, hiển linh ra tay giúp đỡ cha ta xây thành. Thần là Rùa Vàng nên dân chúng gọi là thần Kim Quy. Thần thông thạo nắm rõ mọi việc trời đất, thế là chỉ trong nửa tháng thành đã dựng xong với tốc độ chóng mặt, vua cha ta lấy làm mừng rỡ lắm.

    Thành rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, nên gọi là Loa Thành hay là Quỷ Long Thành. Thành rất cao, bên ngoài khó có thể vào được. Thần Kim Quy sau khi giúp cha xây thành thì đã ở lại ba năm, sắp xếp việc đâu vào đấy để vận hành đất nước. Vua cha cảm tạ thần, nói:"Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?'. Thần Rùa sẵn lòng giúp đỡ, đáp lại: 'Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận. Nhà vua ước muốn ta có tiếc chi.'Ngài tháo vuốt đưa cho cho cha ta, dặn rằng lấy vuốt mà làm nỏ mà đánh giặc thì sẽ không phải lo cảnh nước mất nhà tan. Dặn dò xong, thần Kim Quy trở về biển cả.

    Cao Lỗ là người được vua cha tin tưởng chế tạo nỏ thần. Hắn là một thân tín rất đáng tin cậy của cha, rất có tài. Cao Lỗ lấy vuốt làm lẫy, chế tác thành công nỏ ' Linh quang Kim Quy thần cơ'. Quả là dùng vuốt Rùa Thần, lại được chế tác tinh xảo, cái nỏ ấy vô cùng giúp ích cho cha ta. Vì là công chúa, là con yêu của cha, ta cũng được ngắm nhìn cái nỏ thần ấy. Người dùng nó phải là người có sức mạnh, bởi, nỏ thần rất rắn chắc, phải tay lực sĩ mới đương nổi. Nỏ có thể bắn ra hàng ngàn tên, là bảo vật quốc gia được cất giấu vô cùng cẩn mật. Trong hoàng tộc có rất ít người biết được nó ở đâu, bao gồm cả ta, và ta cho rằng đó là cả một sai lầm.

    Ít lâu sau, chúa đất Nam Hải là Triệu Đà đem quân đi xâm phạm đất nước ta. Hắn dẫn theo vạn quân hùng mạnh, hành quân dẫm nát cả cỏ ven đường. Cha đích thân giao chiến với Triệu Đà. Cha vuốt ve nỏ thần, cười lớn:

    - Có nỏ thần, phen này quân Triệu làm sao đánh được nước ta!

    Ngài lấy nỏ thần ra bắn, hàng ngàn mũi tên bay như mưa, quân địch chết như ngả ra. Quân ta thắng lớn, quân Đà tháo chạy về Trâu Sơn đắp lũy không dám đối chiến, bèn xin hòa. Chẳng bao lâu sau, Triệu Đà mang người qua cầu hòa, lại cả cầu hôn. Ta sửng sốt khi nghe tin. Ta phải lấy chồng ư? Chuyện này quá đột ngột khiến cho tâm ta rối bời. Cha đến gặp ta, khuyên bảo:

    - Mị Châu, con cũng đã đến tuổi cập kê. Nay Triệu Đà chúa Nam Hải muốn cầu hôn con, gả cho con trai hắn là Trọng Thủy. Cha cho rằng để hai nước hòa hảo là nước đi tốt nhất, nước nha tránh được tiếng khóc đau thương sầu thảm vì chiến tranh. Tuy rằng quân ta lần trước thắng lớn nhưng không phải không có tổn thất. Cha muốn vì thiên hạ thái bình mà muốn hòa hảo. Mị Châu con ta, con hãy nói cho cha biết ý con như thế nào? Cha cũng đã cho người thám thính, Trọng Thủy cũng không tồi, nhưng cha muốn nghe tiếng nói của con.

    Ta không có ý phản đối lời cha. Ta biết ngài luôn lo lắng cho ta, hà cớ gì mà phải khiến cha phiền não. Ước nguyện một thiên hạ thái bình, nhân dân yên ấm của cha, ta hiểu. Ta đồng ý gả cho Trọng Thủy. Chàng sẽ ở tại Âu Lạc, theo như vua cha nói. Ta thấy thế thì vui mừng, ta sẽ không phải ở đất khách quê người mà ta sẽ mãi ở đất này, được sự che chở và bảo vệ của đất mẹ và vua cha.

    Cứ tưởng rằng ta và Trọng Thủy sẽ cứ thế chung sống, ta chẳng ngờ sẽ vướng vào lưới tình với chàng. Ta vốn là công chúa, sống trong thành vô cùng cô đơn, chẳng ai bầu bạn. Cha dù yêu thương ta hết mực nhưng ông cũng bận việc nước nhà. Người hầu thì tôn kính danh hiệu công chúa của ta, rất sợ sẽ làm sai điều gì nên họ chẳng thể gần gũi với ta nhiều. Trọng Thủy thì khác. Xưa nay cung cấm làm gì có đàn ông, ta tiếp xúc với chàng lúc đầu còn ngại ngùng, sau dần thì chìm đắm vào tình yêu. Chàng chiều chuộng chăm sóc ta, nói cho ta nghe những lời ngọt ngào. Chúng ta như hình với bóng đi đâu cũng có nhau. Ta dẫn chàng đi khắp thành Cổ Loa, không ngách nào là không có dấu chân của đôi tình nhân. Trọng Thủy cười rất đẹp, lại là người văn võ song toàn, dịu dàng với ta. Trong mắt chàng phản chiếu hình bóng ta, làm ta tưởng rằng chàng cũng yêu ta thắm thiết.

    Tối nọ, chàng đột nhiên nói lại việc lúc trước hai quân giao tranh, lại nói ' Đất Âu Lạc tuy nhỏ nhưng đẹp đẽ lại hùng mạnh, ngàn quân lúc ấy cũng chẳng đánh lại được. Ta cứ thắc mắc mãi, không biết sức mạnh thần kì nào tạo nên Âu Lạc bền vững đến vậy?'Ta chẳng hề đề phòng, nói cho chàng biết về cái nỏ thần được làm từ vuốt thần Kim Quy. Ta tin tưởng chàng sẽ chẳng làm gì gây tổn hại cho ta và Âu Lạc. Chàng nghe về nỏ mặt hiện vẻ ngờ vực không tin. Ta bèn dẫn chàng đi tới tận mật thất cất giấu chiếc nỏ. Ta cho chàng nhìn ngắm nó. Chàng giờ đã tin ta là có thứ bảo vật ấy trên đời, Trọng Thủy nhìn nó chăm chú không chớp mắt đến nỗi ta phải lay người gọi, chàng mới nhận ra mình quá chăm chú.

    Chẳng bao lâu sau, chàng cứ thẫn thờ buồn bã, ta thấy thế thì gặng hỏi. Chàng nói rằng quê chàng là nơi đất Bắc, đã lâu không về khiến chàng nhớ mong. Vì quá thương chàng, ta đã đi cầu xin vua cha cho chàng quay về đất tổ. Vua cha thấy ta nài nỉ cũng xiêu lòng cho chàng trở lại phương Bắc xa xôi. Trước khi đi, Trọng Thủy nằm bên thủ thỉ:

    - Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể vứt bỏ. Nay ta trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng thì lấy gì làm dấu?

    Sao tự nhiên chàng lại hỏi về vấn đề này? Nhưng ta vẫn đáp:

    - Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông ngỗng rải làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau.

    Sau này ta đã biết hắn căn bản không phải vì nhớ nhà mà quay về, hắn đã đánh tráo nỏ thần nhân lúc đêm khuya vắng người, cũng đã thay lẫy thần thành một cái lẫy giả tầm thường. Hắn mang lẫy về nước. Triệu Đà thế thì vui mừng lắm, dàn quân thế trận chuẩn bị đánh Âu Lạc. Tin tức rầm rộ kéo đến, cha ta lúc ấy đã cậy có nỏ thần trong tay mà không hay biết rằng nỏ giờ không còn, còn giặc thì đến gần sát thành rồi. Ngài điềm nhiên đánh cờ với cận thần. Quân Đà đã tới sát chân thành, âm thanh vang dội. Vua cha lấy nỏ thì thấy lẫy đã mất. Thôi xong! Cha kéo ta lên ngựa chạy gấp về phía phương Nam. Gió vút qua người ta, ngựa cứ phi như bay, thẳng về phía trước. Ta giờ chẳng thể phân biệt Đông Tây Nam Bắc nữa. Tay ta cứ rải lông ngỗng dọc đường. Ta cùng cha chạy đến bờ biển, đã cùng đường rồi! Ông kêu lên:

    - Trời hại ta, sứ Thanh Giang mau mau lại cứu!

    Từ dưới biển hiện lên một con rùa vàng cực lớn. Sứ Thanh Giang đã hiện lên, bọt biển trắng xóa bắn tóe tung. Ngài thét lớn nói ta là giặc. Ta sao lại là giặc cho được? Ta là công chúa nước Âu Lạc, là người Âu Lạc, có chết thì cũng là ma Âu Lạc. Tiếng vó ngựa rầm rập vang dội đằng sau đột nhiên thức tỉnh ta. Trọng Thủy à, sao ta lại không nghĩ đến nhỉ?

    Ta ngước lên, ánh mắt cha mang vẻ phẫn nộ trách móc. Còn có ánh nhìn buồn bã không thể kể xiết. Cha là người yêu thương ta, chẳng thể nào tin chính con gái lại là kẻ gây ra tội đồ mất nước. Mắt cha đỏ ngầu, tuốt kiếm ra. Lưỡi gươm sáng bóng lóe lên một tia sáng, ta khẩn thiết phân trần. Ta là bị người ta lừa gạt mới gây ra cớ sợ này. Ta không mảy may có một ý nghĩ nào phản bội cha, phản lại đất mẹ nuôi ta khôn lớn. Giờ đây nước mất, nhà tan, ta chẳng thể cứu vớt được tí hi vọng chiến thắng nào, chỉ còn có thể cầu xin cha tha thứ. Cha ta bỗng rơi một giọt lệ, nói:

    - Mị Châu, con là con ta, cũng là máu thịt của ta. Nay con phạm sai lầm trời đất nhà nhà không tha, theo lẽ thường thì sẽ bị xử trảm. Con ta, ta chẳng thể lấy đầu đứa con yêu của ta được. Trái tim ta rồi sẽ vỡ nát. Ta còn sống thì hổ thẹn với đời, với nhân dân Âu Lạc. Ta và con đều phạm sai lầm. Mị Châu, con phải biết nhận ra nó, thà muộn còn hơn bị che mắt bởi sự lừa dối của thế gian, dù cho con chẳng còn cơ hội nữa. Ta vốn chẳng thể xuống tay được.

    Vẻ mặt cha cay đắng, nhảy xuống biển. Trong thoáng chốc, ta còn chưa kịp nhận ra cha đã nhảy xuống biển. Sóng gầm lên giận dữ, mây đen kéo về. Ta lặng người đi. Ta đã bị chìm đắm trong lời đường mật ngọt ngào mà thiêu rụi cơ đồ bấy lâu. Ta cũng là người đã dẫn Trọng Thủy xem nỏ thần. Là ta đã hại vua cha và bách tính phải đổi cả mạng sống. Ta nhận ra chính mình đã quá ngây thơ tin người. Cha ta đã không còn, ta còn thiết sống làm chi nữa. Trong tức khắc, ta rút kiếm đâm xuyên người. Đau quá! Tim đau, người cũng đau, máu chảy ra. Ta dần mất đi ý thức, chỉ thấy một đoàn người chạy đến. Ha! Chắc là Trọng Thủy, hắn ta còn biết chạy đến đây ư? Sau khi hại cả ta và cha ta?

    Hồn ta vất vưởng, thấy cảnh hắn ôm ta và khóc. Tiếng khóc thảm của hắn làm ta tự hỏi liệu hắn có thật sự yêu ta? Có lẽ hắn yêu thật. Nhưng hắn yêu lợi ích của hắn hơn. Hắn đã có Âu Lạc nhưng sẽ mãi mất đi ta. Ta mãi mãi không thể xóa đi lịch sử, cũng không thể sửa chữa sai lầm nữa.

    Nghe rằng, hắn sau khi chôn cất ta, bị ép buộc cưới thêm thiếp khác. Hắn ngày ngày uống rượu, thần điên bát đảo. Chẳng bao lâu sau, hắn hóa điên đâm đầu vào tường mà chết. Trước đó còn lẩm bẩm gọi tên ta. Ta yêu chàng, nhưng cũng hận chàng. Dòng sông lịch sử sẽ mãi không thể xoay chuyển. Ta thương khóc cho cha ta, cho số phận vì lợi ích mà không thể yêu một cách chân thật. Ta ở đây chứng kiến tất cả những gì trải qua, lời cuối cùng mà ta muốn nói với cha và nhân dân, chỉ là: Xin lỗi..

    MILKTEA
     
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...