Liên Thành Quốc Bảo Tác giả: Liên Hoa Tử. Thể loại: Tiểu thuyết kiếm hiệp (cổ trang). Nhân vật: Nghiêm Long (nam chính) & Từ Phụng (nữ chính). Tình trạng: Đang sáng tác (khởi bút từ ngày 08/08/2023). Văn án: Xưa nay, trên chốn võ lâm có không ít câu chuyện truyền kỳ về lòng trung nghĩa, cho hậu thế muôn đời mãi mãi xướng bia danh. Liên đóa du trần mỹ tự nhiên Thành công thất bại ý thanh thiên Quốc hữu trung thần gia hiếu tử Bảo kiếm anh hùng vĩnh lưu duyên.Long quốc tương truyền, từng có một tà nhân, biết độn thổ phi thiên, giỏi bày binh bố trận, tự khoác long bào, tự muốn xưng vương. Long vương cho mời lê thứ, thưa hỏi nhân do. Bách tính sợ hãi đao binh, tìm đường chạy trốn. Can qua khởi dậy, dân chết thê lương. Hảo hán ngũ phương, tìm đường hộ quốc. Nơi nam phương đất đai cằn cỗi, có một hùng anh. Chốn đất bắc lạnh lẽo hoang vu, một nàng giai lệ. Nghiêm Long - Từ Phụng, đôi lứa yêu nhau, quét sạch tà gian, an bang định quốc. Võ văn siêu phàm nhập thánh, như phụng như long. Đạo đức viên mãn vô song, công thành quy ẩn. Giết chết Châu Thần, võ lâm yên bình trở lại. Phân thây Long Khí, dứt sạch can qua. Trảm thủ Thành Tinh, không còn yêu đạo. Trời ban thanh long tuyền kiếm, bạch phụng hoàng thương. Trung thần hộ quốc một chương, xứng danh muôn đời hiếu tử. Mừng cho Long triều thịnh thế, vạn đại thiên thu. Xem qua một cuốn Long Thư, nhà nhà ca tụng. Bảo châu long huyết, giá trị liên thành, quốc bảo tự sanh, lẽ nào tự diệt? Ba lần võ lâm đại hội, hảo hán thi công. Bốn phen binh hỏa đau thương, nước nhà thịnh trị. Nghiêm Long xứng ngôi minh chủ, công thành quy ẩn sơn lâm. Từ Phụng tuyệt sắc giai nhân, sau này xuất gia xuống tóc. Con người ở thời cổ đại, báo quốc trung trinh. Đáng cho hậu thế ngàn sau, soi mình lặng lẽ. Tấm gương toàn hiếu, cực phẩm tôi trung. Trinh nữ xả thân, tiết toàn thập mỹ. Câu chuyện hộ quốc trừ gian xảy ra vào triều đại Long châu thuộc về Long quốc, nơi binh hỏa triền miên, muôn nhà điêu linh thống khổ.
Chương 001. Liên đế công thành Bấm để xem Xưa nay, trên chốn giang hồ, đâu thiếu gì anh hùng hào kiệt, và đao kiếm vô tình, không mắt cũng không tai. Triều đại Long Châu trải qua hơn ba trăm năm thịnh thế, nay đã đến lúc suy tàn, giặc giã như ong. Nơi đỉnh Phụng Hoàng sơn, có bài sấm truyền không ai hiểu được, trong vô ý âm thầm đã động đến tai vua. Lời bài sấm ca rằng: Liên hoa ngũ đóa Thành sự tại thiên Quốc hữu thần tiên Bảo châu long huyết. Tam phân ngũ tuyệt Y nhật nguyệt quang Quy phụng long lân Hồi quang phản chiếu.Bài sấm này được một vị thần nhân dạy lại cho đám trẻ con ở gần chân núi Phụng Hoàng, gọi là Long Châu sấm ký. Cũng từ đây, bốn biển năm châu bắt đầu dậy sóng. Trong võ lâm, có vị minh chủ tên là Liễu Phi Thiên dẫn theo chín lộ anh hùng, chiêu binh mã mã, âm thầm tính kế lâu dài, hộ quốc an dân. Lúc đó, nơi ngọn núi Huyền Long cũng lại có một vị tiên nhân tu hành đắc đạo, đi trên áng mây hồng mà để lại bài thơ: Nghiêm Lăng xuất hiếu Long tử vô chiêu Từ đạt cao siêu Phụng sinh bách điểu. Trảm sơn tại triệu Tà độc thành chiêu Diệt lục long tiêu Yêu thành hạ liễu. Dẫu biết càn khôn không ngừng xoay chuyển, nhưng nước mắt anh hùng vẫn chảy trong đêm. Từ Đạt, một danh sĩ đương thời, giỏi về thuật chiêm tinh, bói quẻ, xem tinh tượng trên trời mà ão não tâm can, biết rằng thế cục khôn lường, chân long xuất thế, nhưng bá tánh Liên thành thật quá thiếu phúc duyên. Nhân lúc nửa đêm, ngày đi qua huyện Hứa, xin ngủ ở trong chùa, để gặp một thần tăng. Đúng canh tư, nơi cổng Long Thần tự, bỗng xuất hiện một người đạo cốt tiên phong. Người ấy mắt phụng, mày rồng, mình cao chín thước, thong thả bước lại gần Từ Đạt để hàn huyên. Từ Đạt vừa thấy đại sư thì liền quỳ xuống, nâng cái bánh ngang mày, tỏ rõ ý quy chân. Liễu Giới thiền sư vẫn nở nhẹ nụ cười trên đôi môi đỏ thắm, ánh mắt chứa chan tình quân tử, lại gần bên, không gấp không buồn, ung dung thoát tục, ngay nơi giữa chặng mày, chính khí ngất trời xanh, mở miệng sen hồng mà nói giọng khoan thai: - A Di Đà Phật! Từ Đạt ngước mắt lên nhìn, hân hoan vô kể, nước mắt cứ lăn dài trên đôi mắt tinh anh, vừa cung kính chắp hai tay vừa nói: - Sư phụ! Con, con.. con.. Nơi yết hầu như ai bóp nghẹt, không nói nên câu. Tấc dạ trung thần, không ai hiểu được, một kiếp một đời, hộ quốc an dân. Đại sư hai tay đỡ Từ Đạt đứng lên, mắt cũng ngấn lệ rồi, bi tâm càng da diết, nói: - Sư phụ biết con cả đời lo cho thiên hạ, không màng sống chết bản thân. Tấm lòng trung trinh đó, tam tào đều hiểu được, chỉ duy nhất có một người là không hiểu được thôi. Có phải không? Từ Đạt nói: - Thưa sư phụ, nhân quả đúng ba đời, con đâu dám không tu. Chẳng qua, thế đạo suy đồi, nhân tâm mục nát, trong khắp thiên hạ này, minh chủ biết nơi đâu? Liễu Giới thiền sư trầm ngâm nhìn trăng sáng, trong một chút đau lòng đã chợt nói ra: - Ý trời đã định, con chớ đau thương. Nói xong, ngài đi thẳng, không quay trở lại chùa, mà du hóa tha phương. Với thần thông của một bậc thánh tăng, trong ba bước người thường, ngài bay xa ngàn dặm, không để lại y vàng cùng tích trượng làm tin. Từ Đạt khóc lớn, nói vọng theo: - Sư phụ! Chẳng phải người đã hứa là sẽ trao cho con mảnh y vàng và tích trượng cầu mưa sao? Hơn nữa, đó còn là tín vật để quy tụ quần hùng, an bang định quốc. Sao người nỡ bỏ con mà đi? Sư phụ, sư phụ, sư phụ!.. Bấy giờ, ngoài trời tự nhiên đổ cơn mưa lớn, chắc thiên đế cũng đau lòng, mà nhỏ lệ từ bi. Nạn đói ba năm, nắng dường đổ lửa, nếu như ông trời còn không ban mưa xuống, thì cuộc sống của trăm nhà không biết sẽ ra sao. Tuy nói, đời người ai cũng phải đi qua vòng sanh già bệnh chết, nhưng trước thảm cảnh đau lòng, ai mà chẳng xót thương. Nghiêm Long, người tráng sĩ kiêu hùng nơi đất Đạo, đã không màng đến chuyện sanh tử của bản thân mình mà quyết định hạ sơn. Nhưng chắc có lẽ ý trời chưa muốn cho mưa, nên cho dù nhân ý có trung can mà thế thời thường giễu cợt. Nơi vùng đất xinh tươi, có rất nhiều kỳ trân dị thảo, linh thú tu tiên, cũng như miếu mạo chùa chiền nhiều không kể xiết, đã xuất hiện một con người như vậy, cả đời lo cho thiên hạ, không màng sống chết bản thân. Nghiêm Long là con trong một gia đình nông dân chân chất, tay lấm chân bùn, cực khổ đã quen, không bao giờ than vãn. Chàng có đôi mắt rồng hai ngươi sáng rực, mặt trắng, tay dài, thân cao chín thước, dáng người như long như phượng, giọng nói chuông đồng, sức mạnh vô song. Tuy tướng mạo phi phàm là vậy, nhưng do tính nết thật thà, không thích tranh quyền, mà chỉ ưa cảnh non sông. Những lúc ngắm nhìn phong cảnh đẹp, nói non hùng vĩ, nước xanh mây trắng, chàng cũng hay múa kiếm lăn dài, khổ luyện võ công. Bất kể trời nắng hay mưa, mỗi ngày Nghiêm Long đều dành ra ít nhất một canh giờ để trao dồi kiếm pháp huyền long. Đêm nay là rằm trung thu, trăng tròn rất đẹp, chàng cũng thư thái nở nụ cười xem những chiếc hoa đăng được thả trôi theo dòng nước, có những em bé nô đùa bên cha mẹ và những nàng thôn nữ yêu kiều thi thoảng đứng ngâm thơ. Can qua trước mắt, ngày tháng tươi đẹp như vầy còn có được bao lâu. Liệu rằng, Liên đế có công phá thành trì hay hòa hoãn liên hôn, tất cả đều chỉ có thể trông cậy vào tạo hóa an bày, người sống cứ mừng vui. Tương truyền, ngày mà Nghiêm Long ra đời, có chín con rồng nhả ngọc phun châu, nước sông Hoàng Hà tự nhiên dâng cao, mẹ của chàng trong đêm hôm đó cũng đã nằm mơ thấy có một con rồng ban đầu thì màu vàng, nhưng sau đó lại chuyển thành màu xanh, nhìn bà một hồi, gật đầu ba cái, bay lên lượn xuống chín lần trông hùng khí, ánh quang minh chói rực khắp trời, ao sen trước nhà bỗng dưng mọc lên rất nhiều đóa hoa sen trắng trong một giờ, thơm nức xa gần, ai nấy đều hay. Sau chín phen bay trên trời đảo võ, thì có tiếng sấm vang trời, rồng ấy đầu thai, hiện thành một viên long châu đỏ tía rất lớn, từ trên không trung từ từ hạ xuống, bay lại gần thai phụ, nhiễu quanh theo chiều bên phải ba vòng rồi biến mất sau lưng. Lúc này, mẹ Long là bà Nhan thị trong tâm ba phần sợ hãi, bảy phần vui mừng, chắc biết đứa trẻ này ngày sau sẽ là người hùng cứu dân độ thế, vạn kiếp trung thần, hiếu tử bia danh, nên không dám nói ra chuyện này cho một người nào được biết. Song, thế cục xoay vần, nhân tâm biến chuyển, triều đình từ lâu đã không còn kỷ cương phép tắc, ngoài lo chống Tây Tần, trong lo dẹp kẻ gian. Có rất nhiều vị thần tử lương đống đã than rằng: - Long triều đã không còn như xưa! Long nghe được những lời này, như uất nghẹn tận buồng tim, lặng lẽ chau mày, nhỏ đôi dòng lệ, xem hoa đăng rực rỡ quanh hồ, mà lòng nào có được an, buột miệng nói: - Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách! Từ nơi cuối con đường to thoai thoải hướng lên đỉnh Thiên sơn, có một trang liệt nữ hai má ửng hồng, hoa nhường nguyệt thẹn, cũng đang có chuyện đau lòng, nặng bước truân chuyên, chợt trở gót hài trong đêm tối, muốn thu mình trong ánh sáng trăng thanh, đứng ở gốc cây môt mình hồi lâu, rồi ngoảnh lại, ánh mắt diễm lệ nhưng u buồn, than lên tiếng tâm can: - Can qua khởi dậy, sinh linh lầm than! Nghe được tiếng của người lạ, Long quay đầu nhìn sang, thấy nàng thoát tục phi phàm, dung nghi tuyệt thế, xứng đáng để kết giao bằng hữu giang hồ, nên bước đến lân la: - Vị cô nương này, tại hạ thấy trong thiên hạ giờ đây, bốn phương đều có giặc giã, tuy cảnh trước mắt thanh bình, mà thực chất nguy nan. Nếu như đã là đôi bên có cùng chung chí hướng, lại gặp gỡ nhau ở tại nơi này, xem như là có nhân duyên, rất mong được kết giao bằng hữu. Vừa nói, Long vừa quan sát dung quang của người con gái đang đứng trước mặt mình, trong ánh sáng của đêm trăng tròn, gương mặt nàng lại càng thêm bội phần thanh tú, tiêu dao. Người đẹp không vội trả lời câu hỏi của khách tha phương, chỉ lấy từ trong tay áo của mình ra một vài cây kẹo hồ lô, rồi thong thả cúi đầu như hành lễ, sau đó bước xuống chân cầu, tiếp tục ngắm hoa đăng. Long đi theo phía sau, không dám thở dài, tỉ mỉ bước chân hơn, trong lòng đang nặng trĩu nỗi ưu phiền, nay gặp được má hồng, chưa dám tính chuyện thành gia. Chàng chưa chắc đã yêu, nhưng có một thứ cảm giác mơ hồ nơi tâm khảm, biết đâu chừng duyên kiếp định tiền sinh. Gió lay nhè nhẹ, đưa những ngọn đèn hình hoa sen trôi bồng bềnh trên mặt nước, biết bao đôi lứa trưởng thành cùng mơ ước chuyện ngày sau. Một khắc qua rồi, người con gái ấy nhanh chóng bỏ đi, tất cả nam thanh nữ tú khi vô tình chạm được mặt nàng, đều không tiếc lời khen ngợi cho một nhan sắc hơn người cùng cốt cách tiên thiên mười phần trác tuyệt. Trong thời buổi sắp có đao binh, có ai mà trong lòng không lo sợ, nhưng thấy trong đám người này đa số vẫn còn mê. Họ chưa biết chỉ nội trong vòng ba tháng nữa thôi, thì ba mươi sáu nước chư hầu sẽ đồng loạt khởi binh, đánh thẳng Long thành, san bằng kinh đô Hoa Trị, bắt sống Long thiên đế đem về Liên quốc để phân thây. Long thấy họ cười cười, nói nói, ăn ăn, lo đến nỗi không còn nghĩ tới chuyện giai nhân. Chàng ngồi trên tảng đá vàng trầm tư giây lát, rồi vội vã đi về trong tâm thái bất an. Ba ngày sau, có mục đồng đang đi lên núi dạo chơi cùng cha mẹ, thấy ở nơi con suối thanh long tuyền có một cục đá nhô lên, ngó kỹ xuống dưới, hình như có một vật thể gì đó dài dài giống thanh kiếm, phát ra tia sáng màu xanh, không ai dám bước tới gần, mọi người xa gần đều kéo đến để xem. Đó là một buổi sáng lạ kỳ, ai ai cũng đều thắc mắc, bàn tán cả nửa ngày mà thanh kiếm vẫn còn tỏa ánh hào quang. Chợt nghe có tiếng quân triều đình từ xa đang đi tới: - Mọi người tránh đường. Thì ra là Binh bộ thượng thư Hồ Thiên Khí trên đường đi ngang qua đây, nghe tiếng ồn náo từ bên ngoài đang chỉ trỏ về thanh thần kiếm ly kỳ, ít có ở trong đời, lại trong lúc rãnh rỗi thừa nhàn, nên ông xuống kiệu để xem, nói với thuộc hạ thân cận của mình rằng: - Ngươi đi theo ta. Hai chủ tớ cung kính đi dài theo con suối khoảng một hồi, trời nắng sạm làn da. Xung quanh cây cối um tùm, yên tĩnh phong lưu, có rất nhiều hoa thơm cỏ lạ. Kỳ lạ thay! Trong nước suối có chút vị gì rất ngọt mát thanh lương, mà không phải ở nhân gian tìm thấy được. Từng theo hầu Hoa Vũ tiên cô vào năm vừa tròn mười ba tuổi, đã đọc không ít kỳ thư ở trên cõi đời này, mà tâm trí vẫn mông lung, ông vừa sờ tai mình vừa nghĩ: - Chẳng lẽ trên thế gian này, còn có đạo thần tiên? Thuộc hạ đứng chờ lâu nên không còn kiên nhẫn, từ từ lay người ông, nhưng ông ngồi bất động, trong ánh mắt uy quyền chan chứa những hoài nghi. Hồ đại nhân là người trầm mặc, tuy là đại đệ tử chân truyền của phái Tiêu Dao, nhưng cả đời chuyên tu Nho giáo, không sợ chết, ghi thù, bụng dạ rất bao dung, chẳng giống với tông chỉ hành đạo của môn phái là giết hết kẻ gian tà, sau đó mới tiêu dao. Hơn nữa, mặc dù từng theo Hoa Vũ tiên cô làm công quả trong sáu năm, nhưng chẳng những ông không tin phật tin thần, mà còn cảm thấy hoang mang. Do sống ở đời quang minh lỗi lạc, chính trực vô tà, nên đắc tội với không ít người gian xảo hung tâm, bị bài xích trong triều, gặp tai kiếp chốn biên cương, đã không ít lần thoát khỏi cái chết cận kề chỉ trong gang tấc. Luôn tha thứ cho kẻ thù là ưu điểm lớn ngất của ông. Lần này, trong nhân gian cùng lúc xảy ra quá nhiều chuyện ly kỳ, nên ông đang bán tín bán nghi, cũng chưa biết cuộc đời mình rồi sẽ trôi về đâu. Tận trung là vậy, mà căn kiếp chưa sâu, nếu biết được tử sinh là việc lớn, đạo con người nhân quả khó dung tha, thì ông nhất định sẽ phò tá con trời lên ngôi thiên tử, nhược bằng không đúng thì thôi. Bóng áo cà sa vừa xuất hiện, trong lòng chợt thấy rất thiêng liêng. Từ trên khoang thuyền, Liễu Giới đại sư từ từ bước xuống, thong thả vuốt bộ râu dài, dáng vẻ khoan thai, ngài nói: - A Di Đà Phật! Hồ đại nhân cung kính đứng dậy từ chỗ ngồi, chỉnh trang lại y phục, chắp hai tay nghiêng mình hành lễ, trong linh tính biết có chuyện khai tâm. Vị đệ tử đi theo cùng hòa thượng sau khi đã niệm phật, xá chào ông xong rồi, liền lớn tiếng thưa: - Đại nhân, ông có biết vì sao trong nước của con suối này, có vị thơm ngọt lạ thường, hiếm gặp ở nhân gian không? Nghe vị tiểu tăng hỏi mình như vậy, trong vô hình trung, trí tuệ siêu phàm ở một con người như Hồ Thiên Khí chỉ chờ có dịp phát sinh. Ông ung dung xoay người ra sông lớn, nơi chiếc thuyền vẫn còn nằm chờ trong con nắng phi nhiên, buột miệng nói: - Hôm nay chỉ mới qua đêm rằm trung thu được có ba ngày, mùa thu vẫn còn đó, lại còn ở trong tháng tám, đúng lý ra khí trời mát mẻ hanh khô, nhưng không biết tại sao từ sáng đến giờ nắng như trời đổ lửa, duy chỉ có dòng nước ở nơi cin suối thanh long này là mát ngọt kỳ nhiên? Nói xong, đứng thở dài ở đó, chắc ông chưa đủ duyên lành để được độ hóa hay chăng? Không! Liễu Giới đại sư chỉ chờ nghe câu nói này để tiện dịp ra lòng điểm nhãn khai quang. Ngài ngồi kiết già phu tọa trên tảng đá xanh có hình thù như một đóa hoa sen ở cạnh bờ sông, mắt nhắm như vào thiền định, hai tay chắp lại, môi nở nụ cười trong khoảng giây lâu. Vị tiểu tăng là Ngộ Trực nhìn Hồ đại nhân mà khoan thai nói tiếp: - A Di Đà Phật Như Lai Thế Tôn! Trong mắt Phật ba đời không có sắc, ngoài tai chó chân gà cũng thật nghĩa thành chân. Như Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni Như Lai Thế Tôn của chúng ta ngày trước, chẳng phải đã nói trong khắp thế giới Sa Bà nghiệp cảm thảy viên thông. Đại nhân! Ở dưới con suối thanh long này, quả đúng như là cái tên gọi của nó bây giờ, thật có một rồng xanh. Hồ đại nhân trợn mắt nhìn Ngộ Trực, tỏ vẻ không tin. Rồi từ trong hốc đá, có người nghe trộm được chuyện này, vội chạy báo quan. Đứa trẻ mục đồng đã nhìn thấy một vật nghi là thanh kiếm đang bị đá đè chìm ở nơi này tên là Tiểu Ngọc, cũng nghe lén tự nãy giờ, do đã quá tò mò, bất giác la lên: - Cái gì! Nó tròn xoe đôi mắt, nuốt nước bọt ba lần, nắm chặt sợi dây vàng trong nước mới ngoi lên, tiến về phía của thiền sư Liễu Giới đang ngồi tĩnh tọa, nhíu nhíu đôi lông mày, thi lễ cũng đoan trang. Lúc này, hòa thượng mới từ từ mở đôi mắt của mình ra mà cười thật lớn, tay phải xoa đầu, tay trái đưa ra. Mọi người từ xa dần dần xúm lại, chăm chú nghe nhìn, cung kính trang nghiêm. Hòa thượng nói: - Này thanh long, con mau ra đây đi! Nói xong, ngài bắt ấn Chuẩn Đề và miệng đọc lầm rầm bài thần chú. Bài chú đọc vừa xong, thì nước suối phun trào, dâng cao chín thước, người người đều trông thấy có một con mãng xà tinh màu xanh rất lớn, nước mắt lưng tròng, tự ngóc đầu lên. Cái đầu của nó to bằng cả nóc nhà của một hộ gia đình thôn quê không khác, vùng vẫy bên này, tát nước bên kia. Một lúc sau thì thân hình dài hơn trăm thước dần dần thu nhỏ lại, trở thành một con rắn lục bình thường, le lưỡi phun châu. Bá tánh có người nhanh tay lấy được, nhưng không dám đem về, mà đứng đó xem thêm. Liễu Giới hòa thượng từ nơi tòa ngồi đứng dậy, đi đến chỗ con rắn đang bò, dùng tay trái của mình bắt nó lên xem. Xem một chút thì mang qua phía chỗ Hồ đại nhân đang quỳ, đưa con rắn cho ông. Thật ra, tự nãy đến giờ, không ít kẻ kinh hoàng vì cảnh tượng hãi hùng này, mà chết ngất hôn mê. Trong mười người, đã có tới sáu người ngất xỉu, hai người bò niểng bò càng, chỉ còn lại hai người sau cùng là không có âu lo. Vì từ trước đến nay, chưa có ai thấy được một con rắn nào mà to tướng dường ấy, nhưng do đã có hòa thượng ở đây rồi, nên dân chúng cũng yên tâm, bằng không, có lẽ tất cả mọi người đều bỏ chạy. Con suối này sở dĩ được đặt tên là thanh long, vì nó rất dài và rộng, lại uốn lượn cong mềm như hình dáng rồng xanh, hai bên bờ suối đều là thiên niên tùng bách mộc, phong cảnh đa tình, gió mát hoang sơ. Hồ đại nhân nhìn con rắn trong tay mình ngoe nguẫy chẳng chịu nằm im, lại nhìn qua con suối thiêng liêng, thông với sông Hoàng Hà chỉ nhờ một con sông nhỏ, cũng không kiềm nỗi sự vui mừng, cười phá hư không, nói: - Rồng hay rắn, do tâm làm chủ! Liễu Giới trụ trì ứng tiếng, đáp: - Chánh hay tà, phải tự hồi quang! Bất ngờ, có một bóng dáng yêu kiều thướt tha xuất hiện, Từ Phụng cúi đầu ra mắt đại sư, nói: - A Di Đà Phật! Đại sư, không biết người có thể cho con được biết cái gì gọi là chánh, cái gì gọi là tà được hay không? A Di Đà Phật! Mọi người đứng xung quanh bắt đầu xôn xao bàn tán, không biết vị thánh nữ này đến tự phương nào mà binh lính theo đông. Kiêu sa, thùy mị đều có đủ. Phong tình như ý, tụ thần quang. Mười ba tên tùy tùng đứng đằng sau nhanh miệng nói: - Tiểu thư! Lời thiên hạ trắng đen làm sao phân rõ. Nếu như chúng ta cứ mãi sống trong u buồn, thì khi chết sẽ ra sao? - Dạ phải! - Đúng đó tiểu thư. Thế cục trong thiên hạ, vốn dĩ từ xưa tới nay chia ra rồi hợp lại, hợp lại rồi chia ra. Từ Phụng nghe nói xị mặt, nhưng ánh mắt trong sáng, đơn thuần, vui vẻ lại ngay, nàng nói: - Các ngươi thật là nhiều chuyện. Chợt có tiếng đao kiếm đánh nhau từ nơi cuối con suối như đang gần lại, thấy có một toán thổ hào đã chém chết chín quan binh. Nguyên nhân rất có thể là do đám quan binh này đã không ít lần đàn áp, hạch sách, bóc lột dân nghèo, mất hết lương tri. Triều đình hủ bại, lương đống bỏ đi. Khắp trong bá tánh, có ai mà không biết, ở nơi vùng đất Đạo này, có một anh hùng đạo đức toàn chân, lòng mang thiên hạ, gác bút nghiên theo nghiệp kiếm đao, đem tài học cứu vì xã tắc, vị trượng phu này có ai khác ngoài Công Tôn Hành, chưởng môn phái Thùy Châu. Mười lăm năm về trước, cũng chính tại nơi này, khi Liên đế muốn thâu tóm binh quyền, gồm thâu thập quốc, cũng do nghe theo diệu kế của Hành mà đại thắng như mơ. Công Tôn đại nhân cũng là Tể Tướng đương triều, thanh cao quy ẩn, công thành người trí tự lui. Do khí số của Long quốc đã suy tàn, mà ngài chẳng giúp được phần chi, nản lòng nhìn biết bao thân phận con người khổ đau phiêu bạt qua đôi mắt mình, nên từ lâu đã không còn tha thiết với con đường văn võ xông pha. Hiện giờ, nhà nghèo tay trắng, bữa đói bữa no, sáng ăn khoai, chiều có khi nhịn đói. Nhưng trong tâm ý của ngài vẫn kiên cường muốn vị quốc vong thân. Trông thấy Liễu Giới thần tăng, ngài cúi xuống nhìn đôi chân mình đang lấm lem bùn đất, lại nghe Tiểu Ngọc nói là con suối ấy có chân long, trong lòng buồn vui lẫn lộn, không biết làm sao. Tiểu Ngọc vừa cười nũng nịu vừa đưa ra sợi dây vàng, vừa nói: - Cái này là của con rồi! Ngộ Trực tiểu tăng định lại gần để xem cho kỹ đó là vật gì, thì gió thổi một nhanh, gió càng thổi mạnh, thì đôi chân bé nhỏ của Tiểu Ngọc càng bay lên cao dần, tới mức ngang thắt lưng của người lớn rồi, thì mắt nhắm thiu thiu, giống như là buồn ngủ. Nghiêm Long cưỡi ngựa trắng đi chùa, nhân đấy ghé qua xem. Thấy bé gái này chắc chưa phải là người học qua võ nghệ, chưa biết khinh công, lại chỉ mới khoảng chừng chín mười tuổi, không có dây buộc mình, sao có thể bay lên, lại còn trụ ở đó? Chàng hỏi: - Các vị đang làm gì ở đây? Đám quan binh triều đình hủ bại cũng chạy ùa qua, hung hăng ngang ngược đòi châu báu, dọa giết hết dân chúng nơi này nếu không chịu nghe theo, chúng nói: - Nếu như ở dưới con suối đó thật sự có thần long, thì số châu báu này phải là của bọn ta, vì đây là địa bàn của bọn ta cai quản! Sao? Có phục không? Vừa nói, chúng vừa xông vào định bắt Tiểu Ngọc mang đi. Nhưng đột nhiên sợi dây vàng không ngừng phát sáng, làm chói mắt bọn chúng, động đất ba lần, ai nấy bò lăn. Từ Phụng nhanh tay hơn giặc, ôm lấy Tiểu Ngọc trên người, rồi độn thổ rời đi, mang theo cả sợi dây vàng có thêu nhiều hình thù, họa tiết kỳ lạ trong sự ngỡ ngàng, nôn nóng của thường dân. Hồ đại nhân không hiểu chuyện chi, lắc đầu liên tục. Biết rằng thời cơ đã chín muồi, Liễu Giới đại sư đi đến bên cạnh, nắm lấy tay của vị anh hùng trẻ tuổi Nghiêm Long này, rồi cười lớn một phen. Sau đó, ngài nói: - A Di Đà Phật! Liên đế sắp công thành, Long quốc có hiền nhân. Nghiêm Long trong lòng cả sợ, như nuốt kim châm, nhưng thấy trụ trì khoan hòa, nhã nhặn, như có tâm giao từ trước, nên đứng đó ngây người, chưa biết nói năng chi. Không còn kiên nhẫn thêm được nữa, Hồ đại nhân liền ra mật hiệu, lập tức có hơn hai mươi bốn đấng anh tài bay đến như chim, đứng hầu đợi lệnh. Liễu Giới hòa thượng không nói không rằng, kéo tay Nghiêm Long đi theo mình về hướng bờ suối. Công Tôn Hành cùng tất cả mọi người đều muốn đi theo, nhưng bị Ngộ Trực cản lại. Vừa phi thiên trong nháy mắt đã tới bờ suối, lấy tay chỉ vào thanh kiếm cổ hơn tám trăm năm tuổi đời, vị thần tăng mắt phụng, mày rồng nói với chính mình: - Ta sắp phải đi về Hoa quốc để khai duyên! Ứng Long, ta biết con vốn có túc duyên với phật môn từ nhiều kiếp, nay bảo kiếm anh hùng hội ngộ thật là hay. Nếu như con đã có lòng trung trinh báo quốc, sao không lấy viên châu con đang đeo trong người ra rửa nước xem sao. Nghiêm Long bất ngờ khi hòa thượng biết tên mình, lại còn biết đến viên minh châu, không thể không quỳ trước một vị thần tăng. Chàng từ từ quan sát dung nghi tướng mạo, tâm khí nguyên thần, cùng linh cảm nơi tim. Bất thức long thần quy y pháp Sát khí liên hoàn cấp từ cơ. Trên tảng đá thật to dài bị dây leo núi rừng che phủ, có khắc hai câu thơ này, ai đã biết xưa nay. Long nói: - Hai câu thơ này là có người nào ngụy tạo hay chăng? Hòa thượng từ bi nói: - Con không muốn hỏi ta về chuyện biết tên con sao? Long giật mình trở lại, hai chân quỳ xuống đất xong rồi, mới hỏi tiếp thiên cơ: - Sư phụ! Người là ai? Hòa thượng đáp: - Ta cũng quên mất ta là ai. Long lại hỏi: - Cái tên chỉ là để gọi. Chân tánh ở nơi đâu? Hồ đại nhân đã đến đó tự bao giờ, ăn trái cây tươi và bánh hình con thỏ, chen ngang cuộc trò chuyện giữa hai người họ, nói: - Đạo là chân, đức là tánh. Long quay đầu nhìn qua bên trái, thấy linh cảm không lầm, vui vẻ đứng lên ngay. Nhớ tới lời thân mẫu dặn mình từ ba hôm trước, tay phải lấy ra vài con dao ngắn trong thân, đi xuống dưới giữa dòng nơi nước chảy mạnh nhất của con suối thanh long tuyền, dùng thần lực của mình, một quyền đánh tan tảng đá lớn xong rồi, nắm chặt thanh kiếm định lôi lên, nhưng không được vì quá nặng. Liễu Giới đại sư ôn tồn nói: - Thanh thần khí hộ quốc này nặng ba trăm sáu mươi lăm cân, nếu không được viên dạ minh châu mà con đang cất giữ trong mình thức tỉnh, thì cho dù con có sức địch muôn người như Tây Sở Bá Vương ngày trước, cũng không làm gì được. Hốt nhiên, con rắn lục trên tay Hồ đại nhân tự nhiên lúc này cũng phát sáng giống như viên bảo châu trên người của Long, dùng sức bay vèo xuống nước, hóa thành một luồng khí xanh mát mẻ, quấn lấy thanh kiếm không buông. Sấm chớp vang trời, trong mây có chín con rồng bay lượn, muôn nhà xem cảnh linh thiêng. Từ Phụng sau khi chiếm lấy sợi dây vàng từ tay Tiểu Ngọc, đã sớm mang bé gái trả về cho cha mẹ yên tâm, một mình âm thầm đi theo Long, để ý từng nhất cử nhất động. Bấy giờ, trời đã về chiều, mưa sắp qua đây. Hồ đại nhân nói: - Vị thiếu hiệp này! Cậu hãy thử dùng viên minh châu! Liễu Giới đại sư cười nói: - A Di Đà Phật! Ngộ Trực đã đến, mang theo chín mảnh y vàng của chín đời tổ sư trụ trì chùa Long Thần, cùng với tích trượng bằng vàng và pháp khí thiền môn như chuông, mõ, khánh.. Lại có thêm mười tám vị cao tăng đi từ trên không trung xuống, lấp lánh y vàng, tướng hảo quang minh. Họ cùng lập ra Thiếu Lâm thập bát đồng nhân trận, sấm chớp mỗi lúc một vang rền, gió thổi đá bay cao. Thần trí Ứng Long lúc đó mơ hồ trong giây lát, tay chân bủn rủn một hồi, sau đó thấy thanh lương. Gió thổi quá mạnh hơn lúc bình thường, khiến cho hai cây cổ thụ ven rừng gốc rễ lung lay. Phụng nghe tiếng kêu lắc rắc của nhành cây khô sắp gãy trên đầu của mình, nhanh đứng dậy đi ra, lại có trực giác phi thường trước cảnh tượng muôn đời có một, nên tiến thẳng đến chỗ Long ngồi đưa nước quý ma ni. Long hồ nghi hỏi: - Đây là thứ nước gì? Phụng cười đáp: - Ta không biết! Ngươi có dám uống không? Long mở to mắt nhìn người đẹp, trong tâm hồn yêu ghét nào phân. Định dùng tay hất đi, nhưng lại dằn lòng không giận, hỏi lại lần nữa: - Cô nương từ đâu tới? Sao lại tự nhiên mời ta uống thứ nước này? Liễu Giới đại sư nói trong sự kinh ngạc của Phụng: - Ứng Long! Thứ nước đó là thánh thủy của Thần quốc, con cứ uống vào, sẽ không có hại. Long vẫn chưa tin. Phụng lại nói khích: - Nếu huynh sợ, vậy để ta uống thử cho huynh coi. Nói rồi, tự mình uống cạn một ngụm. Sau đó, dùng hai tay của mình thử mang thanh kiếm lên xem, nhưng vẫn không thành. Nghĩ rằng anh hùng trong thiên hạ bây giờ, chỉ có Long thôi, liền mỉm cười khó hiểu, để lại túi đựng nước thánh kia rồi nhanh chóng bay đi. Hồ đại nhân khuyến khích Long với giọng điệu chân thành hết mực: - Vị anh hùng này! Cậu hãy thử một lần xem sao! Ngộ Trực cũng ra chiều hối thúc: - Nếu huynh không uống thứ nước này, vậy ta sẽ mang đi. Hôm nay là ngày lành tháng tốt trong năm, ứng vận cơ trời, tướng tinh tọa vị, nếu lỡ mất cơ hội này rồi, phải đợi tám trăm năm. Nghe trong hư không có tiếng nói: - Nghiêm Hiếu! Trời đã chọn con! Mưa trút chĩnh đầy, thanh long hộ pháp, hồn thiêng nhập vào thanh kiếm, trên trời sấm nổ đinh tai. Viên bảo châu lúc này tự bay ra khỏi người Long, hóa thành một cục đá hình tròn, màu trắng, lớn bằng bàn tay người lớn xòe ra, chìm vào dòng nước. Chỉ nghe tiếng hét xa dần, trăm họ đều run. Nhưng thanh bảo kiếm này nếu như không có sợi dây vàng trong tay Phụng ngâm trong nước thánh ma ni suốt bảy lần bảy bốn mươi chín ngày, đem đốt trên lửa cam lồ thánh hỏa ra tro, vò cùng với xương đôi mắt của chín con rồng đã tán thành bột nhuyễn, cho thành viên, sau đó, đem rải xuống liên hoa trì ở liên quốc ba ngày, chờ có hoa sen đủ năm màu ngoi lên mặt nước, đem đóa hoa sen ấy chôn vào long mạch ba tháng, kiên nhẫn tu niệm trong suốt ba năm liền, mới có thể đào đất ở chỗ ấy lên mà giúp cho thanh thần kiếm khai quang theo nghi thức gia trì bí mật của nhà phật, thì mới có thể dùng thanh kiếm ấy được, chứ chẳng dễ như mơ. Dù biết là vậy, nhưng Liễu Giới đại từ đại xả bi tâm, không màng gian khổ, chẳng ngại vong thân, chỉ muốn giúp cho thanh tiên kiếm tâm truyền này được điểm nhãn sớm hơn, để một mai, khi Liên nhân đế có đánh tới Long thành, thì dân chúng vẫn bình yên. Vì với sức mạnh kinh thiên của thanh long tuyền kiếm, không có một ai ở trên thế gian này có thể chống lại. Người nâng lên nổi kiếm này phải là đại thánh nhân, đại anh hùng trong thiên hạ. Người đó chẳng ai khác ngoài Nghiêm Long. Tiếng nói trong hư không lúc nãy không phải của con người, mà là của thần tiên. Liễu Giới trụ trì đem tất cả nỗi lòng phân giải với Long, nói rất lâu, cho đến khi trăng đã lên rồi mà nỗi buồn chưa vơi cạn. Thập bát đồng nhân trận lúc này cũng đã làm xong. Dẫu biết, tạo hóa trêu đùa, sinh linh thống khổ. Nhưng công sức của nhân thần sẽ không dễ phôi phai. Long nghe nói đầu đuôi ngọn ngành sự việc, nước mắt chảy hai hàng, tiêu sái hét to lên: - Hoang dâm vô độ, là lỗi của một mình đương kim thánh thượng, đâu phải của muôn dân! Nếu như Long thiên đế không suốt ngày đam mê tửu sắc, giết hại trung thần, bất chấp thiên luân, thì thịnh thế trường tồn, thiên thu vạn đại. Chẳng ngờ, lịch qua bảy đời tiên đế, Long quốc suy tàn, gian nịnh lộng quyền, cung cấm đa đoan. Long rất buồn. Tự thấy mình tài thô học thiển, đức hạnh thiếu nhiều, không chỗ dựa nương. Mẹ chàng sanh được ba người con trai. Đại ca là Nghiêm Hổ. Nhị ca là Nghiêm Sư. Tam đệ, cũng chính chàng, gọi Nghiêm Long. Người huynh trưởng là Hổ thì yêu vì võ nghệ sa trường, mắt cọp, mình rồng, đi giống con thuyền, hiếu hạnh vang xa. Còn nhị ca là Sư thì cũng có thần lực hơn người, văn võ song toàn, mày dài rất đẹp, mắt sư tử, cao lớn như thần, nghĩa khí bạt sơn. Ứng Long tuy là tam đệ, không thích chém giết sa trường, do cha chàng muốn con trai mình sau này khi lớn lên thành người, phải xuất chúng siêu quần, nên van nài chỉ dạy võ công. Cha chàng tên là Nghiêm Phong, tự Triều Thanh, từ nhỏ đã lên núi Võ Đan chân thành tầm sư học đạo, tự biết mình là con nhà nghèo, nên không ngừng phấn đấu vươn lên. Kết duyên với mẹ Long là bà Nhan Nguyệt vào năm vừa tròn ba mươi tuổi, rồi phu thê ân ái tình nồng, bữa rau bữa cháo, trong cảnh thanh bần mà không sờn tâm đạo, luôn dốc dạ tu hành, yêu thích việc hiền lương. Hai vợ chồng thường hay đi chùa lễ phật, cầu an. Nhất là khi đang bụng chữa hoài thai, mẹ Long ngày nào cũng kiền thành tụng kinh Địa Tạng, nhờ phước đức sâu dầy mới sanh được ba trai. Hơn nữa, đứa nào cũng tướng mạo phi phàm, cốt cách thanh kỳ, trung hiếu lưỡng toàn, hiệp cốt đan tâm. Lại nói, có một chuyện mà song thân của Long luôn giấu ở trong lòng, ấp úng nghi ngờ, không dám nói ra. Đó là chuyện nếu như nói quá lên, cũng thật là việc động trời, hoặc sẽ huy hoàng, hoặc sẽ tru di. Cha Long cũng không biết là có nên tin vào cuốn gia phả nhà mình hay không. Vì trong quyển sách ấy nói, họ là con cháu ba đời của Long quang đế Long Thần, vị vua thứ năm của Long triều, lúc tiên đế băng hà, có nói với Từ Hoa, vị cực phẩm nhân thần, phong tới tước Vũ thành hầu, sau về sinh sống ở đất Kim Bình, dân chúng luôn tôn thờ, sử gọi Tiết ninh vương. Từ Hoa có tên tự là Tiết, chỉ một chữ. Ông có bốn người con gái. Đứa đầu lòng, gọi đại tỉ, tên Từ Kim. Nhị tỉ tên Từ Ngọc. Tam tỉ tên Từ Loan. Cuối cùng là Từ Phụng, là người con gái út mà ông cả đời luôn dành tâm huyết để dạy rành đạo nghĩa lẫn dung phong. Mà hai nhà Nghiêm, Từ vốn có mối quan hệ khăng khít nhiều đời, vĩnh thế có liên hôn. Cho nên, từ ánh nhìn đầu tiên, thì Nghiêm Long đã không bao giờ có thể quên đi Từ Phụng, trong tim đôi lứa xuân tình có lẽ đã đơm hoa. Nhưng đại sự nguy nàn đang trước mắt, ơn quốc thổ cao dầy, sao dám có mơ riêng. Long thẫn thờ ngồi nhìn trăng sáng, tư tưởng đa mang. Nếu như thanh kiếm đã đợi mình, hà tất phải lo chi. Hồ đại nhân nói vói Ngộ Trực tiểu tăng: - Ta nghe Ứng Long nói chuyện nãy giờ với sư phụ, không biết cậu ấy đã nghĩ thông chưa? Ngộ Trực trầm tư không đáp. Hồ Thiên Khí lại quay người sang phía của Liễu Giới đại sư, mắt nhìn chăm chú. Hòa thượng lúc này mới nói hết tâm tư của mình dành cho Thiên Khí: - Thiên Khí! Con và Ứng Long đều có duyên với ta. Những gì mà trước đây con đã từng trải qua, cũng như nửa đời sau này của Ứng Long, về cơ bản là khá giống nhau. Nhưng Thiên Khí con thì cuối cùng tự tại, còn Ứng Long thì.. có lẽ sẽ hi sinh! Con cứ chờ trong bảy ngày, khi đó, mọi thứ sẽ rõ ràng, không diệt cũng không sinh. Nghe rồi, họ Hồ như có chút đau thương. Còn Long thì không sợ. Dân chúng đều kéo nhau về, mưa đã tạnh từ lâu. Chín con rồng bay về đâu không rõ, có em bé chỉ tay lên trời, nói: - Con thấy có Quan Âm! Hang động mà bốn người họ đang ngồi, gọi là Thanh Lương động, ở ngay sát con suối thanh long, lại gần Quan Âm tự. Động này thuộc núi Huyền Long, được cho là có hình dáng y hệt như một con rồng đang nâng bút, thân của nó rất dài, đến tận Phụng Hoàng sơn. Do có hình thù dị thường cùng cấu tạo địa chất đặc biệt, nên tuy lúc nãy mưa nhiều, mà trăng sáng quang minh. Người ngồi trong hang động Thanh Lương này, luôn cảm thấy mát mẻ vô cùng, năm tháng cứ trôi hoài, vẫn tươi trẻ dung nhan. Và không phải người nào cũng được đặt chân đến đây. Do Liễu Giới thiền sư đã vận dụng phép thần thông, ra lệnh cho sơn thần, nên Long và mọi người mới đi vào bên trong được. Tự cổ chí kim, trong tam tào đâu thiếu những chuyện luân hồi nhân quả được ghi vào sách vở. Nay, thế đạo sắp suy tàn, Liên đế mới chiêu binh. Sắp phá Long triều, trừ dâm tận gốc. Tất nhiên, Long biết được điều này, như bao hảo hán anh hùng trong thiên hạ hôm nay. Một đồn mười, mười đồn trăm. Nơi Liên quốc, trong khói tía vây thành ba ngày trước, vua của nước này là Liên Trung nghe theo cao kiến của ái phi mình, tiên đoán thiên thời, địa lợi, biết sẽ có cơ duyên bình định Tây Tần, tiến công Long quốc, gồm thâu ba mươi sáu nước một lần, thống nhất san hà, quy về một nước sau này chỉ có thể là Liên, thì trong bụng mở cờ, vui như trẩy hội. Canh ba giờ Tý, Long nghe có tiếng dân làng la ó lẫn nhau. Có ba người thanh niên trai tráng vì theo đuổi giai tình, công kích bên kia. Mỹ nhân da trắng, tóc dài, môi son đỏ thắm, chạy về phía Long cầu cứu. Long điềm nhiên nói: - Tiểu cô nương, đừng sợ. Ba tên kia tức giận mặt đỏ phừng phừng, vung kiếm định chém Long. Long nhẹ nhàng tránh được. Tức chí, chúng cùng nhau dùng hết sức bình sinh của mình ôm lấy Long, định nhấn chìm chàng xuống dòng suối, nhưng không được. Long vung mình một cái, tất cả ngã lăn quay. Tên nào tên nấy kêu đau, tìm đường bỏ chạy. Long thấy chúng đã đi, từ từ xoay người lại nhìn cô gái trẻ, mỉm cười như đứa trẻ thơ ngây, sau đó định đi về nhà một mình. Dưới ánh trăng vàng, cô gái chợt mỉm cười, nhân đó đi theo Long về nhà. Chàng cũng không thắc mắc vì sao đã nửa đêm như vậy rồi, mà cô gái lại một mình quanh quẩn ở nơi đây. Đi được một đoạn, Long đứng lại, đưa mắt nhìn nơi phương bắc xa xôi, tự nói một mình: - Vị cô nương muổn cho mình uống thứ thánh thủy lạ kỳ, rốt cuộc là ai? Tại sao lại cướp mất sợi dây vàng đó mang đi? Khi đi đến nhà của bá phụ, thì tự nhiên vấp té, chân trái hơi đau. Đôi mắt chàng giật liên hồi, hơi nóng ở sau lưng. Cô gái trêu cười, lên tiếng hỏi: - Nè! Huynh tên gì? Long trợn mắt. Chàng qua tảng đá dưới gốc cây già ngồi nghỉ một hơi. Cô gái trẻ lúc này tự giới thiệu về mình, nói: - Tiểu nữ là Xa Tuyết Nhi, rất cảm ơn huynh đài đã ra tay cứu giúp. Năm nay, tôi mười tám tuổi. Tôi không còn phụ mẫu trên đời, tứ cố vô thân! Vừa nói, nàng vừa rưng rưng đôi dòng nước mắt, trông cũng rất thê lương. Long nghe rồi thì muôn phần đồng cảm, an ủi cô gái: - Thì ra là vậy! Vừa rồi ta có trợn mắt nhìn muội.. cho ta xin lỗi! Tuyết Nhi đáp: - Dạ không sao! Là huynh đã cứu mạng muội! Nói rồi, cười e thẹn, nhỏ nhẹ cúi đầu, định nói gì thêm, nhưng rồi lại nín bặt. Bá bá của Long là Nghiêm Thủy đã không ngủ được từ đầu hôm tới bây giờ, cứ trằn trọc trong lòng, lăn qua lộn lại, lại nghe thấy tiếng của người ngoài nói chuyện gì theo gió vọng vào trong, nên bước xuống giường, đi nhanh ra cửa, lén nhìn xem giọng nói chuông đồng có phải của cháu mình không. Khi ông vừa nhìn được một chút thì chân ngứa liên hồi, do giẫm phải tổ kiến trong đêm, nên giậm chân la làng phủi xuống. Long đang nói chuyện với Tuyết Nhi bên ngoài, nghe tiếng bá phụ mình thì đi đến để gõ cửa, thấy ông ấy đang co giò quéo cẳng đá lung tung, nên vội hỏi: - Bá bá, bị làm sao vậy? Ông ta vừa nhăn mặt, nhíu mày, tay phủi lấy phủi để lưng quần, vừa nói: - Trời ơi! Ta bị kiến lửa cắn! Mà con đang làm gì ở đây vào giờ này vậy hả? Long phủi giúp bá phụ mình một hồi thì hết đau và ngứa, bầy kiến từ từ bò đi nơi khác. Trong lúc dùng cây chổi cùn dựng sẵn ở bên cửa nhà để quét lũ kiến qua một bên, chàng vô tình nhìn thấy ở trên đỉnh núi Mã đằng sau ngôi nhà, tuy hơi xa, nhưng vẫn thấy có ánh đuốc mập mờ, nhấp nháy trong đêm. Nghi là có quân binh, nhưng không có chứng cứ, chàng chỉ lắc nhẹ đầu, quay gót rời đi. Nghiêm Thủy đứng nhìn theo bóng lưng của cháu trai mình, khen nó có dáng vẻ hơn người, nhất định giàu sang. Gia gia của Long sanh cũng đúng ba trai. Người con lớn, là Nghiêm Kiến, Long gọi đại bá. Người thứ hai, là Nghiêm Thủy, nhị bá của Long. Người con trai út, tất nhiên là cha Long, tên gọi Nghiêm Phong. Nhà ở của ba huynh đệ thì không mấy gần nhau. Người thì ở gần núi, người lại ở gần sông, người thì cất nhà lưng dựa vào núi, mặt hướng ra sông. Nhà quê thật thà chân chất, trọn đời không biết hơn thua. Tuy không có lắm bạc tiền, mà bụng dạ thường an. Nhị bá của Long tuy có dáng vẻ ngu đần nhưng lại rất thông minh. Vào năm lên mười hai tuổi, thuộc lòng Kinh Dịch. Lại biết xem tướng cho người, chưa trật mảy may. Ông cũng đã sớm tính tới chuyện dời nơi ở và cải táng mộ phần của tiên tổ trong ba đời, để con cháu phát vương. Biết rất nhiều cuộc đất quý, đắc cách về phong thủy, nhưng luôn giấu nhẹm trong lòng, tuyệt chẳng nói ra. Ông là người nhân hậu, ghét võ, yêu văn. Trong lúc ông đang đứng ngắm trăng, thì Từ Đạt không biết đã đến tự khi nào, ngồi trên phiến đá dài, thổi sáo ngâm thơ. Thơ rằng: Liên hôn bất dụng Đế vị mông lung Công tử phù dung Thành hoa huyết dũng.Long châu sấm tụng Phụng chỉ hồi cung Thành tuyết bao dung Thân bình phí dụng.Tiếng ngâm thơ của Từ Đạt làm cho Nghiêm Thủy giật mình, đưa mắt nhìn sang. Vì sao họ Từ lại biết được bài thơ ấy? Do nghi vấn trong đầu, không sao hiểu được, lại trông thấy Đạt chính khí quanh người, mắt sáng như sao, cử chỉ điềm nhiên, nho nhã, không giống với hạng người tầm thường múa mép khua môi. Thủy trợn mắt nhìn Đạt một hồi lâu, sau đó mới cất tiếng hỏi nhỏ: - Người là ai? Từ đây đến đây? Xin cho kẻ hèn này được biết! Đạt nghe xong thì đứng dậy, thong thả đi tới chỗ của Thủy, lấy trong tay áo của mình ra một chiếc hộp hình tròn, không nói không rằng, đưa cho Thủy, nhanh chóng dùng khinh công tuyệt thế bay lướt trên mặt hồ, lẳng lặng rời đi. Thủy ngờ vực bội phần. Chưa kịp nói lời nào thì chân hán đã đi xa. Ông vội vã đi vào trong nhà, đem chôn chiếc hộp dưới chân giường, đọc sách như thường, tỏ vẻ khoan thai, mặc cho người vợ tàn tật của mình nài nỉ muốn biết đó là thứ gì, ông vẫn chẳng hé môi. Xa Tuyết Nhi vì đã không còn nơi nương tựa, nên bất chấp ánh nhìn soi mói và thành kiến của mọi người, cứ đi theo Ứng Long. Long thì không biết phải làm gì, đọc sách cho qua ngày, qua chuyện. Nhưng Tuyết Nhi muốn gả chồng để có chỗ dựa nương, tự tay đan thành mấy cái túi hương, thêu lên hình chim én, trang điểm nét môi hồng, bẽn lẽn đứng nhìn Long. Đã trôi qua nửa canh giờ, mà Long vẫn ngồi như không có chuyện gì, chẳng đoái đến giai tình khóe mắt lệ sầu cay. Từ bên ngoài cửa, có tiếng nói vọng vào: - Ứng Long! Giọng nói này làm cho Long ngơ ngác, thì ra là Từ Phụng đi đến để thăm chàng, cũng muốn mộng thành thân. Tình yêu trong gang tấc như đùa, phải lòng nhau từ lần đầu gặp mặt. Có phải ý trời, hay chỉ chiêm bao? Chắc không phải là một giấc mơ. Sau ba đêm liền không ngủ được, cũng được sáu bảy ngày từ lần chạm mặt người con gái họ Từ trong dịp lễ trung thu, có chút gì như mong đợi, không phải sao? Long uống hết ly trà trước mặt, tay để quyển sách lên bàn, chỉnh y áo lại cho đường hoàng, đôi mắt sáng lên ngay. Dáng dấp kiêu hùng, chân đi bước hổ, không chút vội vàng, ứng khẩu đọc một bài thơ: Thế gian điên đảo suy đồi Thiên nhiên dẫu đẹp, đến hồi quy âm Hành nhân diệt dục trừ dâm Đạo cao đức lớn, quý tàm tu thân. Tuy là than thở cho đời, nhưng tỏ đạo thánh nhân. Từ Phụng nhìn Tuyết Nhi, thấy cô không có việc buồn chi mà tự nhiên òa khóc, có đôi chút hiếu kỳ, nên đến lại gần bên, vỗ nhẹ vai nàng rồi hỏi: - Cô nương có bị làm sao hay không vậy, có chuyện gì sao? Nói đi! Có gì thì ta sẽ giúp đỡ! Xa cô nương chỉ được nước, khóc lớn vang nhà, đòi tự tử từng cơn. Thật ra, hai người con gái này, họ đều rất thơ ngây, chưa biết tình đời dâu bể, thế sự khôn lường, cơm áo phiền hà, sinh tử đau thương. Ứng Long cũng chẳng nói gì, vì thấy nàng vẫn còn quá trẻ con. Thơ ngây là vậy, nhưng Tuyết Nhi học đạo tinh tường, biết gieo quẻ, chiêm tinh. Do biết mệnh của Ứng Long là phá quân tinh hạ thế, ứng vận cơ trời, sứ mạng thiêng liêng. Thật ra, hai chữ "phá quân" này không nghiêm trọng như là nhiều người thế gian vẫn nghĩ. Có câu rằng, nhân quả thông ba đời, chư phật khắp mười phương. Ứng Long sanh vào giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nên cha mẹ mới đặt cho chàng tên gọi Ứng Long. Long tức là một con rồng. Ứng ở đây nghĩa là ứng vận. Long cũng tự biết lá số của mình không tầm thường như bao con người trên đời, luôn tu đức sửa tài để hóa kiếp chân long, như cá chép nếu muốn hóa rồng thì cần vượt qua được ải vũ môn quan. Chân long không nhất định phải là thiên tử, chỉ cần một trái tim sáng ngời, cũng để để thành tiên. Ba ngàn điều thiện, âu cũng nhân duyên, một kiếp tôi trung, muôn đời tưởng niệm. Tận trung báo quốc không ưu phiền, chém sạch yêu tà, trùng hưng chánh khí, là thiên tính của Nghiêm Long. Lại nói, do quá nôn nóng muốn tổ chức lễ tịch điền vào đầu tháng giêng sắp tới, Long thiên đế mới sai người gấp rút đi tuần và hạch sách trăm quan. Thật ra, đó chỉ là cái cớ để vua vơ vét của cải dân thường nhằm xây dựng hoàng cung. Hoạn quan được thế chuyên quyền, nhân dân muôn phần đói khổ. Vì nơi quê nhà đất Đạo của Long tuy nói là sơn cùng thủy tận, nhưng sản vật lại nhiều, mỹ nữ rất đông, con người ăn hiền ở thẳng, không nói chuyện nhiều, rất có đạo căn. Ấy thế mà vị hôn quân của Long triều chẳng yêu kẻ sĩ, chẳng thích tu tâm, còn luôn muốn bắt bớ dân lành, ăn chơi hưởng lạc, thấy con gái nhà nào dễ nhìn liền đem nhốt trong cung. Đế vương muôn đời, có người nào mà không đủ giai lệ ba ngàn, lục viện tam cung. Thánh nhân dạy: - Muôn ác dâm đứng đầu. Trăm thiện hiếu đứng trước. Lên ngôi năm mười ba tuổi, có chí anh hùng, văn võ uyên thâm, lại có tướng mạo hơn người, khôi ngô tráng kiện, Long thiên đế buổi đầu hiếu thảo trăm nhà, ăn tuyết nằm sương, từng lên núi Phổ Đà cầu đạo. Nhưng do thích sủng hạnh yêu tần, tâm chí lung lay. Thoạt tiên, chỉ là tăng thuế hoang đường, phong quan bừa bãi, sau mới ôm ấp giai kiều, chính sự không lo. Hồ Thiên Khí nhiều lần khuyên can không được, tự tử ba lần, chán nản muổn từ quan. Nơi chốn triều đàng, vàng thau lẫn lộn, nếu như không có đạo đức vuông tròn, sao khuất phục tha nhân. Châu Thần, Long Khí với Thành Tinh ba tên này ngày đêm dỗ ngọt vua hiền, đưa đi ngắm cảnh, cho xem những thứ sách dâm loàn, nhằm lật đổ giang sơn. Chúng thật có mối thù oán sâu nặng từ trước với Long triều, đã xuyên suốt ba đời, nên thủ đoạn tinh khôn. Liên nhân đế tài hoa tuyệt thế, đạo đức chu toàn, tướng mạo như thần, ghét nịnh bài mê. Từ lâu, đã nghe nói Long triều mục nát suy đồi, binh yếu dân nghèo, phong hóa hao mòn, mất hết kỷ cương, trong lúc thiên hạ đang yên, nhưng do muốn thảo phạt vua tà, trấn an trăm họ, nên vạn bất đắc dĩ mới chiêu mời binh tướng năm phương. Trong ba mươi sáu nước chư hầu, chỉ duy mỗi Long quốc là bại hoại gian tà, thiên lý khó dung. Liên đế dùng kế liên hoàn, trước là nội gián, đả thảo kinh xà, điệu hổ ly sơn xong rồi, sau đó mới bao vây. Từ kinh thành Phi Tuyết của Liên quốc, đến kinh đô Hoa Trị của Long triều, mất khoảng bảy ngày đường cưỡi ngựa phi nhanh. Liên quốc vẫn là một nước chư hầu. Thiên hạ chia làm tam thập lục quốc, chỉ toàn là nước chư hầu, không có nước vua. Nhưng giữa các nước này đều chung sức liên minh, chống lại giặc Tây Tần, Bắc U, Đông Minh, Nam Phí, Trung Cao Chiết cùng Trung Hạ Cường, gọi chung là lục tặc. Như vậy, thì tính ra dưới gầm trời này, có bốn mươi hai nước. Vì sáu tên giặc này đều có địa bàn riêng, lại có tên nước rõ ràng, bá quan cũng đủ, xây kiên cố Lục Quốc Kỳ thành dài tam thiên lý. Thành này còn có tên gọi khác là Lang Phá Sát Ma thành, bên trong có núi vàng, châu báu số vô biên. Có lẽ đây là mối lo lớn nhất cho ba nước Long-Hoa-Liên quốc muôn đời, long hổ tranh hùng, thắng bại bất phân. Mùa đông tới rồi, Liễu Phi Thiên thân là minh củ võ lâm, lòng nào nguội lạnh, ông bưng tô canh nóng trên bàn, lặng lẽ khóc buồn than: - Can qua nếu như đã không thể nào tránh khỏi, thì.. Ông nói chưa dứt lời, thì Cái Bang chủ bên ngoài đã nhanh bước vô trong, rơi nước mắt nhìn ông, nói: - Minh chủ! Đại sự không hay rồi! Minh chủ, ngài mau đi theo ta! Vừa nói, Khuất Bang vừa lôi áo họ Liễu ra ngoài, hấp tấp đưa đi. Hai con ngựa đỏ cao gầy, phi nhanh như gió, thoáng chốc đã tới Long thành, huyết mạch của kinh đô. Khuất Bang lòng đầy lo sợ cho tính mạng của muôn dân, lắp ba lắp bắp nói: - Theo lời do thám từ đệ tử của ta, chỉ nội trong vòng nửa tháng, Liên đế là Liên Hoàn sẽ đem bách vạn binh cường để thảo phạt Long vương. Đương kim thánh thượng Long Trang này của ta trước đây là người tốt, vang danh hiếu tử xa gần, một lòng lo nước thương dân. Nay, hắn vì nghe theo lời nịnh hót của lũ gian thần nên mới suy vi, huynh niệm tình vào sinh ra tử của hai chúng ta từ nhỏ, cứu Long quốc một lần này có được hay không? Nói xong, Cái bang chủ liền quỳ xuống, nước mắt lại tuôn trào như dòng suối nóng hổi chốn thiên đường, lạy lục van xin. Đang lúc nửa đêm, chẳng có ai nhìn thấy được cảnh này, duy chỉ có một người, chính là Chu Nguyên Chương. Họ Chu theo dõi đã nửa ngày, nay nghe được chuyện này, cũng rất đổi bi thương, hai hàng nước mắt đã chảy tự khi nào. Có chưởng môn của phái Liên Hoa là Liên Tịnh, dắt theo đứa nhỏ tên Chu Đệ đi cùng, hẹn với Từ Đạt qua mười ngày sẽ bắt sống Liên Hoàn để báo đáp Long vương. Nhưng có đâu ngờ, chỉ qua bảy ngày, Liên hậu đã sai người ám sát Liễu Phi Thiên. Cũng may, minh chủ chu toàn, tính lo mọi chuyện, đã mặc áo giáp Kim Bình trong người từ trước, nhân đó mới không sao. Cảnh trí ở Long thành tuy không bằng kinh đô Hoa Trị, nhưng phảng phất nét tương đồng, dương liễu rất xanh tươi. Sáng nay, Nghiêm Long đi trước dẫn đường, dắt theo Từ Phụng, muốn dâng lên cho Long đế gương thần, tiên báo vận càn khôn. Chàng nhặt được nó ở Liên hoa thôn, trong một buổi tối trời, chim bay tứ tán. Nhưng do không quen biết trong triều, hơn nữa, ăn nói không rành, cũng chẳng có bạc tiền lo lót cho hai tên binh lính đứng gác cổng thành, nên chẳng được vào kinh. Long hơi buồn, ngước mắt nhìn trời xanh, nặng nề lê đôi chân rỉ máu, đi được vài ba con đường, đau đớn xé tâm can, nhìn qua bên chỗ cây thần, khóc lớn van xin: - Cây thần! Con biết người hơn ba trăm năm tuổi, có thuyết nói là ngàn năm, con chỉ xin ngài một điều, không biết có được không? Người khi sống tên là Dương Liệt, trung hiếu tiếng vang đồn, khi chết hóa thành cây. Người đã ở đây rất lâu, khói nhang bao đời thụ hưởng, sao không rũ lòng thương xót đến lê dân. Phụng nghe cũng u sầu, than thở với thanh đao đang cầm trên tay mình: - Cây đao này tuổi thọ ba trăm, trải qua không ít đời minh chủ, ta muốn chém cây dương này, để thử thách uy linh! Nói rồi, ngọc nữ xông tới định chém, nhưng uy thần của cây dương ba phần hiển hiện, làm cho thanh bạch tuyết thần đao giữa đường khựng lại, kêu tiếng đinh tai. Long cả kinh nói: - Dương tể tướng! Người đừng giận! Cây thần êm ả như thường, gió thổi nhẹ qua, tiếng phong linh từ xa đưa lại, hai người họ quay lưng lại nhìn, thì ra người đến là công chúa Tình Quang. Tình Quang công chúa nói: - Hai ngươi là ai? Làm gì ở đây? Nói mau. Phụng cúi đầu không đáp. Long ngẩng mặt lên nhìn, trong mắt sáng chân quang, môi đỏ sen hồng, long khí xung thiên. Công chúa ba phần hoảng sợ, giật lùi hai bước rồi tiếp: - Sao không trả lời ta! Bộ hai ngươi muốn chết rồi sao! Hả! Lại thấy chân bên trái của người đàn ông này đang chảy máu, nên ngất xỉu ra đường, cung nữ dìu lên. Phụng dùng khinh công đưa Long bay đi, dân chúng có kẻ chạy lại nhìn, công chúa vẫn ngồi ngây. - Keng! Keng! Keng! Tiếng binh khí vang rền, như lôi như sấm. Quân Liên triều đã tới ngoài cổng thành, cách nửa dặm đường chim. Ngự lâm quân của Long triều vô cùng hoảng sợ, phi ngựa mau về kinh thành, cấp báo với Long vương. Công chúa cũng có vài ba đường võ nghệ, sâu sắc hơn người, giả dạng thường dân, đứng lẫn lộn với đám ăn mày, chôn chân tại chỗ. Từ bên ngoài, Liên nhân đế hô hào, chuẩn bị tấn công. Tiếng đánh trống liên hồi trong nắng sáng, khiến cho người nghe thấy phải kinh tâm. Dân chúng khóa chặt cửa nhà, không đi đâu nữa. Ba phen lạy phật Di Đà, niệm chú Đại Bi. Nhanh như cắt, chỉ trong chưa đầy một khắc, binh lính dưới sự thống lĩnh của Liên nhân đế đã giết tám trăm người của Long quốc. Quân của Long thành khá mỏng, huống chi trong lúc bất ngờ, họ không kịp trở tay. Từ lâu, binh tướng cũng đã quá nửa quy hàng theo Liên quốc, trong mười người, nội gián do Liên đế cày vào đã tới ba. Khéo sao mua chuộc lòng người, trấn an bá tánh. Sau khi đã phá được Long thành, Liên đế đọc tam chương: - Không giết kẻ đầu hàng, dân thường, phụ nữ. - Không gây khó dễ về mọi mặt. - Không phân biệt đối xử với tất cả mọi người, cuộc sống vẫn tiếp diễn bình thường như trước đây. Nghe được lời này, dân chúng ai nấy reo hò, ngợi ca nghĩa cử nhân từ và cao đẹp của minh quân Liên quốc, cũng như thêm chán ghét chính sách bạo tàn và thâm ác của Long vương. Có người còn dám mạnh miệng nói rằng: - Long quốc sắp diệt rồi! Không lâu quá ba hôm. Lại con đem của cải, ngọc ngà, gái đẹp yêu kiều dâng lên để lấy lòng Liên nhân đế. Chắc từ lâu, gốc rễ long mạch của Long quốc đã không còn, nên mới thành ra nông nỗi dân chúng thấy vui mừng khi Liên quốc ra binh? Thật ra thì không phải. Đây chẳng qua chỉ là kế trá hàng của một vài bộ phận dân phòng do Long thiên đế nghĩ ra, chứ muốn công phá Long thành không dễ như vậy. Huống hồ, từ đây đánh thẳng kinh thành, cũng nhọc sức chẳng chơi. Long vương ngồi trên, dáng người rũ rượi, cứ liên tục chau mày hỏi vặn các quan: - Vương tể tướng! Khanh đã có kế sách lâu dài để hộ quốc hay chưa! Vương Châu cúi đầu hổ thẹn, không nói một câu. Vua lại xoay người sang phía chỗ ngồi của binh bộ thượng thư Hồ Thiên Khí, hỏi: - Hồ Duyệt! Vậy còn khanh? Họ Hồ nhăn mày ão não, cũng chỉ biết lắc đầu. Bên ngoài đại điện có tiếng truyền vào: - Tình Quang công chúa giá đáo! Vua nghe hoàng muội về tới rồi thì lòng đỡ lo âu, nhưng vẫn dồn dập hỏi: - Tình Quang! Muội không sao đó chứ? Có người nào dám làm hoàng muội của trẫm không vui không? Nghe nói, Liên đế công thành, muốn đòi thảo phạt trẫm, muội lúc đó cũng có mặt và đánh với chúng, thấy như thế nào? Hoàng muội, mau nói cho trẫm được biết! Tình Quang bình thản đáp: - Hồi bệ hạ, Liên đế muốn công thành, ắt phải có ba quân. Còn đằng này, muội thấy hắn chỉ mang theo mười ba tên hổ tướng và khoảng bảy vạn tinh binh, cũng không đáng kể vào đâu, chắc chỉ là muốn dọa cho Long triều chúng ta sợ một trận. Chỉ cần thánh thượng ở trên lấy nhân làm gốc, lấy hiếu làm đầu, trọng dụng người hiền, giết hết tham quan, an ủi lòng người, lo cho bá tánh, giảm đi tô thuế, thanh kiết như xưa, trở lại dáng vẻ phong thần, xa rời yêu phi Phí Nguyệt, thì cho dù không tốn một binh một tốt nào, Liên đế cũng tự lui binh. Long thiên đế nghe xong, đùng đùng nổi giận, hét lớn: - Người đâu! Lập tức bắt công chúa giam vào thiên lao cho trẫm. Bá quan đều cản lại, nhưng vua chẳng muốn nghe, còn nói: - Nếu như sau này còn có kẻ nào dám gọi ái phi của trẫm là yêu tà, nhất định giết không tha! Vừa nói vừa đạp đổ ngai vàng, hậm hực đi xuống chỗ Vương Châu, nói: - Ái khanh thân là tể tướng, mà cũng chỉ biết hưởng bổng lộc triều đình, đứng đó ngậm ngùi thôi hay sao? Bá quan đều rơi lệ, không biết nói năng chi. Công chúa tự biết mình phạm tội khi quân, sắp chết tới nơi, nhưng sự hồn nhiên, trong sáng, đơn thuần khiến cho nhiều người cảm động, nàng nói: - Phí Nguyệt là yêu phi! Hoàng huynh, nếu như không giết chết ả thì bách tính sẽ nguy nan, Long triều sẽ hủy diệt! Coi như là muội thay mặt cho dân chúng ở Long thành cầu xin huynh! Nếu như một mai ba mươi sáu nước chư hầu đồng loạt khởi binh, cho dù huynh.. Long đế giận dữ cắt ngang lời công chúa: - Cho dù ta thế nào? Lại trợn mắt như hùm, tay nắm chặt chùy, định đánh Tình Quang, nhưng lại niệm tình, cúi xuống ngồi than: - Trẫm cũng biết, Phí Nguyệt dâm tà, dáng đi như rắn, nhưng đã trót yêu nàng, hơn nữa có con trai, là nàng ấy đã sanh ra long tử. Tin rằng chỉ có chân tình, sáng soi kim cổ, nhân sinh bất thập toàn, dâm nữ cũng đồng nhân. Hãy cho ta thời gian, nếu như trong ba tháng sắp tới đây, mà chẳng giết chết nàng, băm thây muôn mảnh, thì trong dân chúng muôn nhà, người nào cũng có thể làm vua! Hoàng đế nói câu này, quả thật cũng hùng tâm. Nhưng, chiến sự gần kề, có đâu ba tháng. Chắc chỉ trong ba ngày, Long quốc sẽ diệt vong. Có quan đại thần là Lưu Cơ nói: - Muôn tâu hoàng thượng, lời công chúa nói vô cùng thấu tình đạt lý. Thật ra, Liên quốc cũng đang nghèo, không có đủ tinh binh. Bảy vạn binh lính đó, có tới một phần ba là những người già yếu, tay lấm chân bùn, mới được trưng dụng cũng chưa lâu. Nếu như hoàng thượng giữ đúng như lời, giết đi yêu nghiệt, không tới ba ngày, Liên nhân đế Liên Hoàn ắt phải tự lui binh. Giọng nói ôn hòa, không nhanh không chậm, khiến cho Long thiên đế vui lòng, mở bụng hiền minh, hồ hởi nói: - Xin nhận của quả nhân một lạy! Quân sư chắc chắc sẽ là Lưu Bá Ôn ngài, trẫm sẽ sắc phong. Nhưng trước hết, cây thần tự nhiên chuyển hướng, càn khôn bảo kính ra đời, không biết có điềm chi? Từ lâu ta đã nghe khanh bác học đa tài, đạo cao đức trọng, nay có thể phân bày cho rõ được hay không? Vì sao Liên quốc trong ba ngày phải tự lui binh? Ái khanh, nói lời từ tận đáy lòng của khanh ra đây, để cho thế gian này được biết. Lưu Bá Ôn mỉm cười, tay trái chỉ rồng, chân phải đưa ra. Vua nhìn không hiểu. Hồ Thiên Khí lúc này chợt nghĩ đến Nghiêm Long, nhưng chưa đủ để phô bày ra mọi việc. Biết Long là người mang thiên mệnh, trung hiếu vô cùng, có một không hai. Ông suy nghĩ một hồi lâu, đánh bạo một lần, bước lên tâu lớn: - Bệ hạ! Thần biết có một trang anh hùng, có thể cứu giang sơn. Tình Quang công chúa cũng linh cảm được vài ba phần, can đảm bước lên thưa: - Hoàng huynh, muội từng gặp qua một người hảo hán, có đôi mắt rồng sáng rực, tướng mạo phi phàm, ở tại gốc cây thần cách đây không lâu. Theo như trực giác nào giờ của muội, chắc là sẽ không sai, rất có thể là vị anh hùng này. Tuy lúc đó hắn đang bị thương, nhưng muội thấy có một nữ tử đi cùng hắn đang đeo trên người một chiếc gương. Nàng ấy rất xinh đẹp, hiền lành, khinh công lại giỏi, nghe nói là muốn thượng triều để diện kiến long nhan. Long vương nói: - Hoàng muội nói có thật không? Công chúa chưa kịp trả lời, thì Long Khí ngông cuồng xua tay bác bỏ, nói: - Hoàng thượng! Chuyện quốc gia đại sự, đàn bà con gái làm gì mà biết được! Khẩn xin hoàng thượng hãy cho mời Thành Tinh thượng triều để xem xét nhân do. Long vương nói: - Chuẩn tấu. Công chúa trợn mắt, cắn môi nhìn tên quan tam phẩm không biết trời cao đất dày, nuốt hận muốn phân thây. Có lạ chi, Long vương từ lâu đã yêu kẻ gian tà, quen dùng siểm nịnh, nên Long Khí mới lộng quyền, cáo mượn long uy. Thành Tinh là một tên yêu đạo, mượn ba tấc lưỡi gian hùng, mê hoặc hôn quân, hắn từng nói: - Hiện nay, trong thiên hạ này, chỉ có Long triều là thánh quốc thần bang. Văn võ anh tài, khắp nơi đều có đủ, trong tất cả các nước chư hầu, Long quốc chiếm ngôi tiên. Trong vòng mười năm, tứ hải tự nhiên đều quy phục. Đương kim thánh thượng vốn do trời sai xuống để chăn dân. Chẳng cần phải lo chi cả, có thể hưởng phước muôn đời, tạo hóa thuận theo. Muốn tăng thuế ba phần âu cũng dễ, xem giai tình ca múa để mua vui, trong khắp đất trời, tự nhiên như ý. Long vương thống khoái tột cùng, phong hắn tước Tinh Vương. Còn Châu Thần, cũng gian xảo lăn loàn, ăn ngủ với cung phi. Chẳng những Long thiên đế không nhìn ra được dã tâm hung ác của ba tên giặc này, lại tấn tước ban quyền, như mê lú vô tri. Lại nói, ở Long thành dân chúng đã lâu ngày trông chờ Long đế phát viện binh, có người hi sinh tính mạng cả nhà để hành thích Liên đế, lúc bị đem đi hành quyết chém đầu, vẫn không sợ mảy may. Liên đế tôn thờ họ, chẳng những tha cho về, còn có ý phong quan. Những người này về sau đều đi theo Nghiêm Long, tính sơ cũng hai mươi mấy người, võ nghệ khá cao siêu. Long từ khi bị thương ở nơi chân trong lúc cứu người trong hỏa hoạn, hay mơ thấy có con rồng mang thanh kiếm bay lên. Rồng xanh uốn lượn Bảo kiếm rung lên Tráng sĩ trung kiên Đẩy lùi quân địch. Trong lê thứ, cũng có kẻ vì một chút bạc tiền mà bán rẻ lương tâm, nhân lúc trời chạng vạng, băng sông qua đến Liên thành gặp Liên nhân đế dâng mưu. Kẻ ấy tâu rằng: - Hoàng thượng của Liên triều thật là thánh quân hiếm có. Nay, thảo dân có mưu này, muốn được vua nghe. Liên vương vẻ mặt ôn hòa, cung kính nói: - Bình thân! Chẳng hay khanh tên họ là chi? Kẻ ấy tự tin nói: - Hồi thánh quân! Thảo dân chỉ là một bá tánh ở Long thành, không có tên, chỉ biết mình họ Giang. Liên vương đặt tên cho hắn là Bình, rồi nói tiếp: - Giang Bình, chẳng lẽ kganh không yêu đất nước của mình hay sao? Cớ chi tự nói mình có mưu hay muốn dâng lên cho trẫm. Giang Bình nhỏ nhẹ như người trong nhà, nói với Liên vương: - Thánh thượng, xin người trả lời cho thần một chuyện, rồi sau đó mới tham mưu. Vua nghe có phần nghi vấn, uy vũ đứng lên nhìn, đi xuống để quan dung, nhìn mặt mũi người này một lát rồi hỏi: - Ngươi muốn biết chuyện gì? Bình nói: - Thưa minh đế, vì sao trong thiên hạ chỉ gồm bốn mươi hai nước. Hơn nữa, nếu như không nhắc đến lục tặc kia thì, ba mươi sáu nước chư hầu đều có vua riêng. Vì sao chỉ toàn là những nước chư hầu mà không ở ngôi vương, đã tự xưng mình là hoàng đế. Không có nước mẹ dẫn đầu, thì lấy gì bảo bọc cho các nước con. Một khi có tranh chấp về đất đai và quyền lợi, cũng như mỹ nữ, lụa là, binh hỏa sẽ nổ ra. Trước mắt, hoàng thượng nghĩ như thế nào về việc tự mình lên ngôi vua nước mẹ, cai quản dưới chân mình bốn mươi mốt nước kia. Liên đế trầm tư giây lát, biết thiên mệnh chẳng phải nơi mình, thiên hạ định tam phân, bỏ ngỏ câu hỏi này, nói đùa sang chuyện khác: - Họ Giang kia! Khanh có biết rằng, một khi can qua khởi dậy rồi, muôn loại sẽ sầu bi. Nếu khanh muốn, trẫm có thể phong khanh làm vua ở một nước nhỏ, khanh thấy sao? Người ấy đáp: - Thánh thượng! Từ nhỏ cho đến bây giờ, thần chưa bao giờ muốn làm vua, vì thần không ưa gì việc chém giết và quyền lực. Liên đế lại nói: - Vậy khanh có cao kế gì hay? Đâu, nói ra cho trẫm nghe. Giang Bình nói: - Thánh thượng, thần tuy là người Long quốc, nhưng đã sớm chán chường, căm ghét kẻ hôn quân. Từ ba trăm năm trước, khi Long quốc mới khai triều, trăm họ rất yên vui. Vậy mà trong vòng bảy tám năm trở lại đây, hạn hán hoành hành, lại thêm ôn dịch, vua ngồi trên một mình hưởng phước, không ngó ngàng cuộc sống lê dân. Ngoài phía tây có giặc Tây Tần, trên phương bắc Bắc U càng bạo, trong triều lại có gian thần, khuynh đảo hoang dâm. Nếu như thiên hạ chỉ toàn là nước chư hầu như Long quốc, không có nước mẹ buộc ràng, phê phán tội tà, thưởng khen công đức, không thống nhất quy hồi, sẽ mãi mãi đau thương! Liên đế nghe xong thì lệ rơi lã chã, thương xót muôn loài, vỗ ngực bi ai. Nhưng thế cục trong thiên hạ này, đâu dễ có yên vui, chia ra rồi lại hợp, hợp lâu quá thì phải chia. Nếu như có công ước liên minh, thiên điều nhu đạo, bắt các nước ký tên vào, phải mất cả trăm năm. Vì đã qua không biết bao nhiêu triều đại, hưng phát suy tàn, chính sử còn ghi. Chắc có lẽ đây là vận trời, như mơ như ảo. Thương xót cho kiếp con người, sanh tử điêu linh. Liên đế phong quan cho Giang Bình rồi giữ lại. Nghĩ đây là vị nho sĩ siêu quần, nắm rõ chuyện càn khôn. Ba ngày sau, bất chấp từng có hôn ước với công chúa của Long triều là Tình Hỉ, Liên đế vẫn công thành, bá tánh khóc như mưa. Đó là một ngày âm u ảm đạm, mây trắng trốn chân trời, nắng nhạt ánh quang minh, muôn thú kêu gào, cỏ cây cháy rụi. Liên hôn là việc lớn, nay Liên đế vì đại cục trong ta bà, muốn tiêu diệt nước Long. Vì nếu như Long quốc suy đồi, bại hoại kỷ cương, sẽ làm tấm gương xấu cho tất cả các nước chư hầu còn lại. Hơn nữa, trong vô hình, đao kiếm đã rung lên. Thanh long tuyền kiếm đã chọn Nghiêm Long làm chủ, trong đêm phát sáng ba lần, rực rỡ tựa vầng trăng. Long đang nằm thiu thiu vào giấc điệp, đã nghe tiếng reo hò rất lớn của ba quân. Tên lửa bắn lên đầy trời trong đêm khuya thanh vắng, kinh đô Hoa Trị muôn đời giây phút sẽ tiêu tan. Từ Long thành đánh vào kinh đô, chỉ mất nửa ngày, Long vương chuẩn bị sẵn sàng, giáp trụ hiên ngang. Sai các quan trấn giữ bốn cổng thành đông tây nam bắc, lại cho các tướng can trường đánh trả với Liên vương. Hảo hán giang hồ, trăm người hiệp lực, biết bao tuyệt kỹ đã dùng, mà nào có ăn thua. Binh linh chết rất nhiều, xác phơi đầy đất, máu tươi loang chảy thật dài, đỏ thẫm sắc can qua. Không biết tự khi nào, Nghiêm Long đã sử dụng thành thạo được thanh long tuyền kiếm, khinh công tiến bộ nhiều, bay đến giúp Long vương. Long nhan có phần tươi tỉnh, vua biết có nhân thần tương trợ, hoan hỉ nói vang lên: - Ngươi là ai? Vì sao đến đây cứu trẫm, tay không đánh chết trăm người, sức mạnh vô song? Long quỳ xuống hành lễ, hơi buồn nói: - Hoàng thượng, thần là một kiếm khách giang hồ, mới gia nhập võ lâm. Long thiên đế lại nói: - Trẫm thấy ngươi tuổi đời còn trẻ, mang đôi mắt của rồng, sáng rực ánh chân quang, chắc cũng là một trang hảo hán anh hùng đỉnh thiên lập địa phải không? Long thấy ông vua này không hề sợ hãi trước binh lính tinh nhuệ của Liên triều, cử chỉ cũng ôn hòa, nét miệng vẫn cười tươi, có được năm trên mười phần phong thái của một vị minh quân, nhưng không biết tại sao hơi có gì ác cảm, chắc do tâm khí hoang đường, khiến Long muốn quay lưng. Liên nhân đế từ bên ngoài, nói với dân chúng ở trong kinh thành: - Nếu như có người nào dám phản, chặt đầu Long thiên đế đem ra ngoài, dâng lên cho trẫm, chẳng những ta không giết vì tội này, còn phong thưởng vẻ vang. Quân vô hí ngôn. Liễu Phi Thiên lúc này đã tới, quan sát thấy dân tình kinh hãi, cũng lo âu, ông ngồi trên nhành cây liễu, đưa mắt lên nhìn Long đế đang tươi cười, khinh bỉ nói to lên: - Cẩu hoàng đế! Chu Nguyên Chương theo ông làm đệ tử đã gần tròn một năm, cũng thấy buồn cho trăm họ, lặng lẽ đứng cau mày, chu mỏ, nói phong long: - Tên này mà làm hoàng đế gì chứ? Nếu như để một đứa trẻ ăn mày, rồi chăn trâu như ta lên ngồi trên chiếc ngai vàng, không biết có vui không? Ha ha ha! Từ Đạt đứng lẫn lộn trong đàm dân thường, chua xót nói trong mưa: - Chiến tranh có gì tốt chứ? Ông trời ơi! Ứng Long nửa muốn đi về, nửa thì muốn đánh. Từ Phụng đang ở nhà, cảm thấy như có linh cảm mơ hồ về những chuyện không hay, mí mắt giật liên hồi, gió thổi rớt khăn tay, nàng nhanh chóng mang thanh bạch tuyết thần đao lên lưng ngựa kim hoàng, phi nước đại vào kinh. Xa Tuyết Nhi bấy giờ tự nhiên bị đau bụng, ói mửa đầy nhà, không thể đi cùng, khóc lóc uống huyền đan. Trời mưa như cầm chĩnh trút, Liên quân công phá thành trì, dũng mãnh tợ hùm beo. Nơi cổng thành phía nam, có người trông thấy sợi dây vàng lấp lánh bay giữa trời, định cướp lấy dâng vua. Sợi dây vàng này là pháp khí tâm truyền của vị vua khai quốc Long triều vào ba trăm năm trước, trước tự nổi lên ở con suối thanh long tuyền, nay bay tới chỗ Nghiêm Long. Liễu Giới thiền sư đi cùng Ngộ Trực, dùng khinh công phi tót lên cổng thành, bảo vệ đám thương binh. Trần Hữu Lượng là thương gia, tình cờ đi ngang qua đây, thấy cảnh chém giết rơi đầu, lòng hơi lo sợ, nhưng trong thiên cơ định sẵn uy quyền, bất giác muốn làm vua. Lập tức cướp lấy ngựa và binh khí của Long triều để phân cao thấp với Liên vương, xông đến như long xà, tung cước đá như trâu. Nghiêm Long cuối cùng quyết định ở lại kiên cường giúp Long đế đẩy lùi quân địch để an dân. Võ công của chàng thì chưa chắc đã cao, vì chưa có một người thầy nào chỉ dạy, nhưng chính khí ngất trời, nắm bảo kiếm trong tay, sức mạnh hơn người, uy phong có đủ, xem Liên quốc cũng tầm thường, không sợ chết sợ đau. Nói là dùng thành thạo thanh bảo kiếm vậy thôi, chứ nếu đối đầu với Liên Hoàn, nhất định sẽ vong thân. Nhưng chính cái tâm trung hiếu này, khiến cho công chúa của Hoa triều là Hoa Đán có mặt ở đó, trong trang phục của dân thường giả dạng để thăm dò, đã rung động tình yêu, nàng nói với những người xung quanh rằng: - Tiểu nữ thấy vị anh hùng kia phi phàm tướng mạo, trung dũng chân thành, nhất định dạy võ công! Vị tướng quân theo hầu là Hoa Vũ nói: - Tiểu thư! Xin đừng tạo thêm nhiều phiền phức cho lão gia! Công chúa le lưỡi thật dài, hất hàm nói lẫy: - Cha ta từ nhỏ đã không thương yêu gì ta! Ta chỉ mới đi chơi có nửa tháng, ăn uống chưa nhiều, y phục cũng chưa mua, càng không kết giao được với bất cứ người anh hùng quân tử nào ở trên giang hồ. Nay, ngươi cấm cản ta đủ điều. Được rồi, ta không muốn sống nữa đâu. Hứ! Còn đang tranh cãi thì có loạn tiễn bay vào đám người, ai nấy đều kêu gào bỏ chạy, không dám đứng quan sát tình hình nữa. Hoa Đán tiễn thuật siêu quần, dùng cây tên mình vừa nhặt được, phóng trả lại cho quân Liên triều, chết bốn năm tên. Liên đế quay sang nhìn đã thấy, muốn bắt cô gái này đi theo mình, liền sai người tập kích phía sau. Ứng Long đánh thắng không nhiều, trúng tên ba mũi, cũng may là Từ Phụng tới kịp lúc, lại gặp gỡ được hai người dọc đường, cùng đi đến nơi này, tung ra khói mù, mới cứu được Long ra, nếu không chắc chết dưới đao kiếm quân thù, phân thây trăm mảnh. Gió thổi không ngừng, mưa thêm trắng xóa, Phụng trông thấy sợi dây vàng đang bay tới nơi mình thì mừng rỡ reo lên: - Thập điện thiên tình tuyến, thì ra ngươi đã theo ta đến đây sao? Tốt quá rồi! Ứng Long, nghe lời muội nói, huynh đưa thanh long kiếm hướng thẳng lên bầu trời, cho tia sét đánh vào, sau đó dùng máu của mình để điểm nhãn thanh long. Vì thanh long đã nhập vào bảo kiếm lâu rồi mà chưa có máu rồng, nên không hiển uy linh. Được rồi, huynh mau làm đi! Long nghe có đôi chút nghi ngờ, nhưng cũng không biết linh hồn mình như có ai đó nương vào, trong vô thức bay lên. Tiên kiếm giữa trời, chân long xuất thế, máu tươi thấm đỏ sa trường, rồng xanh ba lần uốn lượn, cho nhân thế biết anh hùng muôn đức triệu thần minh. Long biết thanh long kiếm đã hiển uy thần, hợp với sợi dây vàng thập điện thiên tình, vết thương tuy đau đớn vô cùng, mà linh thức quang minh. Dây vàng quấn vào tiên kiếm, ba luồng ánh sáng xung thiên. Do biết được Nghiêm Long đã đi ngược lại số mạng mình, vì một niệm chân thành cứu đời, đem tiên kiếm sớm khai quang mà Sau này sẽ bị tổn thọ, cuộc đời từ đây thăng trầm, lao tam khổ tứ, cho đến chết cũng không yên ổn một ngày, không có con cháu nối dòng, một kiếp bi thương, Liễu Giới thiền sư từ bi rơi hai hàng lệ đỏ, cung kính trước một vị anh hùng cái thế mãi lưu danh. Đúng lý, phải mất ít nhất ba năm thì mới có thể khai quang cho thanh thần kiếm ấy được, còn đằng này.. Một khi thần kiếm đã triệu hồi được tinh linh ba cõi, thì chân hán kiêu hùng sẽ đánh bại muôn phương. Liễu Giới hòa thượng nói: - Liên đế! Ông hãy nên quay về liên quốc của ông, vì liên hoa trì đã có rồng xuất hiện, nhưng ông chớ xem thường và giết nó. Vì con rồng này gắn liền với tính mạng của Nghiêm Long, đồng thời cũng quyết định cả sinh mạng của Hoa Thần và Liên nhân đế ông vậy. Trong ba người, nếu như chết một người, thì hai người kia chắc cũng không thể nào sống nổi. A Di Đà Phật! Liên đế vẫn chưa tin, đốc thúc ba quân tiếp tục đánh dữ dội vào kinh thành, binh tướng đông nhiều, nhuệ khí một dâng cao. Long bất tỉnh nằm dài, Hoa Thần vua Hoa quốc, từ lâu ngưỡng mộ nhân tài, xông đến để giải vây. Vua vừa cưỡi ngựa vừa nói với binh lính Long triều: - Ta là Hoa địa đế của Hoa triều, đi đến để xem tuồng, chém giết thật đã tay! Ha ha ha! Long binh nghe thì hoảng sợ, nghe tiếng Hoa đế anh hùng, võ nghệ tuyệt luân, một thân một mình xông thẳng chốn ba quân, nhất định có kế khôn lường, mưu sâu đáng nể. Hoa đế dùng kích hơi dài, chém chết ba mươi người trong nháy mắt, hô to: - Để xem có người nào xứng đáng để được chết dưới tay ta! Giọng nói hổ gầm, dáng như voi chúa, phi thiên cùng độn thổ, như thiên tướng trong mơ, Liên đế nhìn Hoa đế lúc này cũng muốn lui binh, nhưng nghĩ ta cũng thiên tài trăm năm có một, văn võ đâu thua gì ai đó, quyết hơn thua, phi thẳng vào trong kinh thành, giương cung phóng tiễn về hướng Long vương, nhân từ hạ giọng nói: - Long thiên đế, ngươi ỷ có nhân tài trợ giúp cho ngươi, không biết lỗi mình, tâm dâm khó bỏ, nghe theo lời Phí Nguyệt, ruồng bỏ hết trung lương, trăm họ oán thù, có ai chẳng biết. Nhưng ta vốn đạo nhân từ, có ý tha ngươi, chỉ cần hứa với ta một chuyện. Long thiên đế mím môi cười, ra vẻ rất anh minh, nói: - Trẫm mang mệnh trời, chẳng qua sủng hạnh phi tần, sinh con nối dõi, đâu có giết dân thường bừa bãi giống Hoa vương. Hoa vương nghe được lời này, sôi gan nóng ruột nói: - Long Tình Diễn! Ta biết ơn ngươi đã từng cứu ta vào mười năm về trước, nhưng Hoa quốc đã làm gì có lỗi với ngươi, để ngươi buông lời nhục mạ ta như vậy? Thân là vua một nước, mà ngươi thấy bá tánh lâm vào đói kém, mất mùa, cũng không thèm thăm thú, quan tâm, lại càng không chịu mở kho lương của triều đình để cứu tế. Ta cũng không còn gì muốn nói với ngươi! Long thiên đế vẫn cố gượng cười, xoa tay tự đắc, nói: - Hoa Thần! Ta không biết ngươi có nhớ là ngươi đã từng giết một người con gái ở Long châu hay không? Nhưng chính cái chết của nàng đã khiến ta trở thành một con người suy đồi như hôm nay. Ta mặc kệ tình đời giả dối, chỉ muốn vui vẻ bên giai tình, không biết sớm hôm. Hoa Đán công chúa mượn những tên lính của Liên quốc đã đầu hàng dưới chân mình, trà trộn vào quân Long triều, nhân lúc gió táp mưa dầm, đánh úp Long vương. Long vương bị trúng tên từ phía sau, máu hồng nhỏ giọt, Nghiêm Long thấy vậy sợ rằng non nước sẽ tiêu tan, quay sang nhìn Từ Phụng, nói: - Ngọc Phụng! Ta muốn thiên hạ thái bình, dứt hết đao binh. Muội có cách nào hay không? Phụng đau đớn trong lòng, nước mắt nhỏ lê thê, xót thương dân chúng Long triều tội chi bạc phước, lấy trong người mình ra một lọ nước thon dài, đựng thánh thủy ma ni, uống cạn một lần, bay lên như gió, nói với Liên đế như là sắp phân thây: - Liên nhân đế! Nếu như ngài quyết làm cỏ dân Long triều, vậy ta sẽ chết chung! Nói rồi phi thân tới, uyển chuyển vô cùng, chẳng bị trúng tên, chém liên tiếp ba viên hổ tướng, động tác nhẹ nhàng, Liên đế cả kinh. Trấn nam tướng quân của Liên quốc là Trương Hà, lên tiếng nói: - Hoàng thượng! Xin để đó cho thần, móc mắt ả làm gương. Liên đế cau mày hỏi: - Vì sao không giết ả? Trương Hà nói: - Từ Trinh là thánh nữ đương thời, giữ lại có lợi hơn. Liên đế lại hỏi: - Tướng quân tại sao biết được tên của người này? Mau nói trẫm nghe. Trương Hà đáp: - Hồi hoàng thượng, trong cuốn Long Thư của Long triều đã từng nói đến việc này, nếu như giết Từ Trinh thì thiên giới sẽ giáng xuống tai ương, thế gian này sẽ đi đến hồi hủy diệt. Thần thấy dung mạo người nữ hiệp này y như trong kinh tả, mắt phụng đẹp dài, tú lệ vô song, lại có thanh bạch tuyết thần đao ở bên mình, lưng đeo càn khôn bảo kính, nhất định là thánh nữ muôn đời, nhưng phải móc mắt lập uy. Từ Phụng nghe xong thì bất giác trong người nóng hổi, khô khan, suýt chút nữa là đã bị bắt đem về để giam hãm, tra cung. Trong hư không, chợt có một người bay nhanh tới, dáng ngọc thân ngà, tuổi độ năm mươi, đánh cho binh tướng Liên triều ngã nghiêng chao đảo, dãy lụa tung hoành, thương pháp cao siêu. Chưa đầy một khắc, đội hình của Liên nhân đế bây giờ đã rối như tơ. Liên nhân đế khiêm nhường, nhỏ nhẹ, bước khỏi tòa ngồi, thong thả đi lên, nói: - Xin người cho kẻ hèn này được biết tôn tánh đại danh? Người nữ đứng giữa quân thù, uy phong hết vẻ, trong ánh mắt đen tuyền, để lộ chút đau thương, nói với Liên Hoàn: - Ta là Trần Thiên Tâm. Ngươi có từng nghe trên giang hồ, có một nơi này bí ẩn hay chưa? Liên đế nghi ngờ, cất tiếng hỏi: - Xin cho phép được hỏi, đó là nơi nào? Họ Trần cao giọng đáp: - Không xa Liên thành, không gần Liên quốc, nơi sông núi giao hòa, có thánh thể tiên vương.
Chương 002. Hoa quốc chiêu binh Bấm để xem Hoa địa đế nghe qua lời nói của Trần Thiên Tâm vô cùng xúc động, còn hơn cả Liên nhân đế trăm lần, không biết tại sao. Không đợi cho ba vị vua kịp nói thêm bất cứ lời nào, vị nữ hiệp vội dùng khinh công tuyệt thế đưa Từ Phụng bay về thẳng hướng Quy sơn. Nghiêm Long nhìn theo Từ Phụng, hết sức lo âu, sợ rằng nàng sẽ gặp phải tai ương, vô cùng nóng ruột, nhưng thân đang bị thương, không thể làm gì, đành nín lặng buông tay. Giữa lúc đó, Hồ Thiên Khí lại tới, nói qua loa vài ba câu với yêu phi Phí Nguyệt trên cổng thành là muốn cáo lão từ quan, nhờ các vị đồng liêu thay mình lo cho Long thiên đế và sự hưng vong của Long quốc sau này, tự cởi quan bào, dứt khoát ra đi. Nghĩa nữ của ông là Hồ Điệp, từ ánh nhìn đầu tiên thì đã đem lòng yêu Nghiêm Long, vận hết tuyệt kỹ giang hồ, nào là phi thiên ám khí, khói độc, dị dung thuật.. để che mắt tất cả quần hùng và đánh lui một vài cánh quân Liên quốc, trong thời khắc sau cùng, đã đưa Nghiêm Long lên xe ngựa, theo ánh nắng ban chiều, vội vã rời đi. Liên nhân đế chẳng còn lòng dạ nào để đánh trận nơi đây, chỉ muốn hồi triều, đi lên đỉnh núi Liên Trì, tìm lại di thể tiên vương. Vua cố gượng cười, nhìn về hướng của binh lính Long triều mà nói: - Ta không muốn chết tại nơi này, bất hiếu với tổ tiên. Nói rồi, cùng ba quân tướng sĩ khởi giá đi về hướng tây bắc. Hoa địa đế thấy mọi chuyện đã không còn gì căng thẳng, thủng thẳng bay lên đọt cây già, ngồi uống rượu ngâm thơ tình ở đó, khiến cho binh mã Long triều khó hiểu một phen. Long thiên đế đang đau đớn vô cùng, nằm rên rũ rượi, sai Phí Nguyệt mang cho mình nhiều viên thuốc bổ lạ kỳ do Thành Tinh luyện được, uống gấp để trị thương. Thật ra Long vương trúng tên không hề nặng, không phạm vào tử huyệt, nhưng do chính những viên trường sinh đan giả mạo này mới suýt lấy mạng vua. Thành Tinh có mối thù với đạo Lão, nên tuy rằng mặc đồ đạo sĩ, mà giả dạng chân nhân, chuyên dùng bùa ngải, làm hại người đời, ác niệm sâu dầy, tội lỗi khó dung. Ba ngày sau, nơi Liên quốc có phao tin đồn: - Long thiên đế băng hà, thiên hạ sắp điêu linh! Tất cả các nước chư hầu nghe qua thì nửa tin nửa ngờ, cho người thay phiên nhau dò thám cả ngày lẫn đêm. Lại nói về Nghiêm Long, trong tâm trí chàng không bao giờ thật sự muốn buông bỏ giang sơn. Nếu như quốc gia còn gặp nạn, thì hảo hán phải chung lo, gánh sầu thay cho thiên tử. Núi xanh là nơi chàng thích ở, tùng bách vui reo Gió lộng thổi mát mặt mày râu, non thiêng tình mỹ Sách Xuân Thu đêm ngày lo đọc, chân tính thêm cao Một tấc dạ son sắc trung trinh, muôn đời ngưỡng mộ. Kiêu kỳ là cốt cách tiên thiên của anh hùng cứu thế. Tuy trong cảnh nguy nàn, tâm khí vẫn hồn nhiên. Hồ Điệp trong một buổi sáng phong sương đang trèo lên núi cao hái thuốc, bắt một vài con gà rừng đem về để chăm sóc cho Nghiêm Long. Vừa đi vừa nói chuyện một mình, nụ cười trên môi phơi phới, cây trâm cài tóc màu đen tuyền điểm xuyết một hình tiên. Nàng là một cô gái giang hồ, không cha không mẹ, đi ăn xin từ năm lên bốn, may mắn gặp được người hiền, nhận làm nghĩa nữ rồi nuôi. Dạy văn rồi dạy võ, lĩnh hội rất nhanh, đọc hết sách binh thư, trong lòng thấu triệt, một trang tài nữ yêu kiều bao người mến mộ, không dễ gì rung động tim yêu. Nhưng cuộc đời nàng sẽ thay đổi vì đã trót yêu Nghiêm Long, một tráng sĩ kiêu hùng nơi đất Đạo. Vừa sắc thuốc, vừa nấu canh ở nhà sau, mặt mày giai nhân lem luốc, lọ dính trên mi, khiến cho Long cũng phải bật cười khi vừa tỉnh dậy lúc ban trưa. Long bị thương khá nặng, nhưng may là cả ba mũi tên đều không hề tẩm thuốc độc, nên mới qua hồi cửu tử nhất sinh. Hồ Điệp ánh mắt dịu dàng, bưng mâm cơm tới, nhìn Long như người cứu thế, lệ nhỏ rưng rưng, nói: - Long ca! Huynh uống thuốc này thấy trong người có dễ chịu không? Nếu không thì phải nói cho muội biết liền, vì cây cỏ thuốc nam khi uống vào cũng phải tùy theo cơ địa của từng người, huynh có nhớ chưa? Nghiêm Long cười nói: - Ta không sao, đa tạ muội. Hồ Điệp tiếp lời: - Nếu như không còn chuyện gì nữa, thì muội đi ra bên ngoài trước, cho huynh được dễ bề tịnh dưỡng. Khi nào huynh thấy đói thì cứ việc ăn cơm, rồi đợi một lúc sau thì uống thuốc, chén thuốc muội còn để ở dưới nhà bếp, không có mang lên. Huynh nhớ đó! Nghiêm Long nhìn Hồ Điệp đang đứng mân mê tay áo của mình, thi thoảng mỉm cười, lại cúi đầu, cảm động muôn phần, ấp úng bâng khuâng, muốn nói thêm điều gì nhưng lại thôi, chỉ vào mâm cơm trên bàn rồi tự chỉ bụng mình, làm trò con nít bâng quơ cho có lệ, nhưng Hồ Điệp không cười trước việc Long đang giả ngây để chọc mình, mà nàng lẳng lặng rời đi. Long nhìn theo, thở dài một chập. Dẫu biết xưa nay, bụng dạ đàn bà đôi khi đa tình trắc ẩn, mà trong linh cảm không lầm, ai đã tương tri. Vận mệnh của Long từ nay cũng muôn vàn sóng gió, kiếp nạn ba đào đeo bám mãi không buông. Còn Từ Phụng, hiện giờ đang thương nhớ Nghiêm lang, tủi phận khóc một mình, không ai bầu bạn. Trần Thiên Tâm muốn nhận nàng làm nghĩa nữ, do thấy ở cô nương này có linh khí quang minh, nhãn thần rực rỡ. Họ Trần mang cô về hang động trên đỉnh núi Thanh Phong, chỉ để lại vài ba mươi quan tiền rồi không đoái hoài gì tới nữa. Hoa vương nghe trong nhân thế có kẻ nói rằng nơi Liên quốc có một con chim phượng hoàng đang gáy ở Hồi san, lập tức cho mời quan tể tướng Kim Tùng đang trong lúc nửa đêm gấp rút thượng triều để bàn chiến lược chiêu binh. Vì hiện giờ trong thiên hạ chỉ có ba nước lớn nhất là Liên, Hoa và Long. Nên nếu như trong ba nước có xảy ra chuyện gì trọng đại thì tất cả các nước chư hầu sẽ tranh thủ mọi thiên thời, địa lợi để tranh ngôi. Chỉ có ngày đêm không ngừng chiêu binh mãi mã, tích trữ lương thực, rèn đúc vũ khí và tập luyện võ nghệ thì mới mong cơ nghiệp tiên đế của Hoa triều mới không bị uổng công. Có đủ sức mạnh trong ngoài rồi thì không lo bị đánh. Phụng hoàng là điềm báo trong đời xuất hiện thánh nhân, nhất là khi phụng hoàng cất tiếng gáy vang, ai mà chẳng sợ, sợ may này thiên hạ đổi chủ khôn lường, chiến loạn liên miên. Khi Kim Tùng vâng chỉ dụ của Hoa địa đế, trở lại thân phận giang hồ, gặp gỡ Liễu Phi Thiên, thì có một sự việc hết sức tình cờ xảy ra, đó là Nghiêm Long dẫn theo Chu Nguyên Chương, cùng Từ Đạt, Lưu Bá Ôn, Trần Hữu Lượng cùng qua Liên quốc tìm người, và hai danh môn chánh phái ra đời, danh tiếng vang xa. Một là Huyền Long giáo, hai là Bạch Phụng bang. Huyền Long giáo do một người chưa rõ mặt mày, hành tung bí ẩn lập ra. Bạch Phụng bang do Từ Phụng dựa trên bức sấm đồ hơn ba trăm năm tuổi đời lưu lại trên đỉnh núi Phụng Hoàng tự gầy dựng mà nên. Từ Phụng hiện giờ bị mất hết võ công, nhưng do là thánh nữ chân kỳ nên chuyện thu nhận môn đồ coi như không đáng ngại, hơn nữa, đang trong lúc nguy khốn tai nàn, thì giai tình càng phát lộ trí thông minh. Có một buổi sáng tinh sương, khi mới vừa ngủ dậy, Từ Phụng cảm thấy trong người như có hơi nóng râm ran, vô thức đi xuống chân núi ngâm mình trong con suối Thiên Nga, tự nhiên nhớ lại được rất nhiều chuyện từ nhỏ đến giờ, có cả những bài thơ lạ kỳ nghe như sấm Long Châu. Nghe qua liền lưỡng lự, nhưng suy nghĩ một hồi, tự biết trong thiên tánh có an bài sứ mệnh cứu lê dân. Thiên hạ thuộc về nước nào không quan trọng, chỉ nghe theo tiếng con tim mình, nữ hiệp rong ruổi giang hồ, số đã định đào hoa. Kim Tùng từ lâu đã nghe nói về Từ Phụng, một trang sắc nước hương trời, tuổi khoảng đôi mươi. Ngồi trên đại trà lầu Long Phụng, quan sát dân chúng đi đường, tính nhẩm trước mưu cao, trong ba mươi sáu kế vậy thì chọn con đường tiên lễ hậu binh. Kim tể tướng nói với các thuộc hạ tùy tùng: - Các ngươi có thấy vị cô nương đeo sợi thắt lưng màu vàng, đi đôi giày màu trắng kia không? Nàng ấy chính là nữ trung hào kiệt, rồi sau này sẽ thâu nhận rất nhiều môn đồ, ngay cả những môn phái lớn nhất đương thời như Thiếu Lâm, Võ Đan và Cái Bang cũng phải kính nể ba phần, chung sức chung lòng, diệt ác trừ gian. Những người ngồi ăn uống cạnh bàn của Kim đại nhân nghe xong liền phấn khởi, biết trong nhân thế tuy có lúc đạo đức suy đồi nhưng tạo hóa công bằng, sẽ sai thiên nữ hạ phàm để trăm họ được nương theo. Trong số những người có mặt tại trà lâu, cũng không thiếu kẻ hiểm ác tham tài, liền ghi nhớ rõ ràng về lai lịch của Từ Phụng trong lòng, trong đêm phi ngựa về hướng của Liên thành, buông lời sàm tấu với Liên hậu là Hoa Tình, xúi giục Liên nhân đế giết hết những người mang họ Từ trong nước để ngăn ngừa tai họa về sau. Nhưng mưu tà nào đâu dễ đạt, Hồ Thiên Khí từ lâu đã ôm trong lòng hoài bão cao siêu, muốn nhận Nghiêm Long làm đệ tử, dạy cho pháp thuật du hồn, cải tử hoàn sinh. Đi cùng ông để gặp Kim Tùng có Hoa Đán công chúa, Tình Hỉ công chúa của Long triều, hơn năm trăm binh lính yếu già, võ nghệ chưa tinh. Ngắm cảnh vật và con người nơi Bao thành, sông núi giao hòa, ước lệ tình thơ, Tình Hỉ trong dạ bâng khuâng những mối đau tình, ray rứt không ngồi, thơ thẩn bước đi mà chẳng một người nào để ý. Trôi qua ba khắc mà tim nàng xao xuyến vẫn chưa thôi, ngóng đợi một người, Hoa vương trong mộng. Ngộ kỳ duyên, Hoa Thần điểm đạo Trực kỳ thời, Tình Hỉ tu tiên. Hoa vương tướng mạo đường hoàng, khôi ngô trác lệ, dùng ba con bồ câu trắng mang thư tình để thử vận càn khôn, giả vờ như đã say men tình với Tình Hỉ trong lần giải cứu Long quốc vừa rồi, bước đến bờ hồ, mang theo rượu nóng nữ nhi hồng, dùng vài ba câu nói đa sầu để lung lạc giai nhân. Thấy người mình yêu đang đứng dưới cội hoa đào, Tình Hỉ vui sướng vô ngần, chạy tới sát bên Hoa Thần, run rẩy nói: - Thần Thần! Muội nghe nói Hoa quốc của huynh đang tính chuyện xưng hùng, rộng rãi chiêu binh, có đúng không? Lỡ như đánh trận không thành, chết khi trẻ tuổi, sao có thể ăn nói với tiên hoàng nơi chín suối U Minh? Anh hùng trong thiên hạ muôn người như một, khi đứng trước chuyện phong tình thì ai cũng như ai. Hoa vương trong lòng muôn phần cảm động, trong giây phút mơ hồ, nước mắt cũng nhẹ rơi. Tình Hỉ biết mình nói sai, ba phần lo lắng, giang sơn đâu dễ thấy anh hùng, nay nếu như đã hội ngộ nơi này, sao không cùng nâng chén tri âm? Hoàng hôn buông xuống, Hoa vương sợ trễ hành trình, đôi mắt đỏ gay. Trong lòng của một vị quân vương có khi nào rời thiên hạ, nhưng do gia đạo không vuông tròn, chưa biết phải làm sao. Thật ra, tuổi trẻ của Hoa vương có phần bồng bột, tính ưa hiếu võ cương cường, xem sách qua loa. Mười ba tuổi đã xông pha giang hồ, vào sinh ra tử, khí thế ngất trời, binh pháp làu thông, đã không ít lần đắc tội với biết bao anh hùng bản xứ, cũng như gieo rắc kinh hoàng nơi Hoa quốc đẹp xinh. Thậm chí, có lần còn bị suýt chết khi cởi trần mà nhảy xuống hồ băng trong đêm đông giá rét để nguyện cầu cho võ nghệ siêu nhiên. Hồ băng đó có tên là thiên dịch hỏa kính băng hồ, rộng lớn vô cùng, dưới đáy có thiên thư. Hoa vương từng nghe trong nhân gian có kẻ giang hồ thuật sĩ rao vui: - Thiên thư này đợi đến ngày phụng hoàng gáy ở Hồi sơn thì tự nhiên xuất thế, chỉ lối cho Hoa Thần bình định tứ phương! Cho nên, không phải khi không mà Hoa Thần vội vã chiêu binh, luyện mài võ nghệ, lo trăm phương ngàn kế trong đầu, áp lực khó cam. Tình Hỉ thấy trời đã dần tối, muốn biết liệu trong lòng Hoa vương có thật đã yêu mình, nếu như không nói rõ bây giờ, sau này không biết sẽ ra sao? Nàng đứng lặng nhìn vị vua phong thần trong khoảng giây lâu, mà nỗi sầu dường như thêm cao vợi. Chân bước tới rồi, mà lòng lưỡng lự lại thôi, má hồng khi không trang điểm nhưng nóng hổi men tình, ước lệ thành duyên, lấy hết dũng khí trong người ra để nói với ý trung nhân một lần, cảm động biết dường bao: - Hoa vương! Nếu ngài không có một chút tình cảm gì với ta, xin ngài cứ nói thẳng. Chớ nên ấp úng, e dè, ta không biết làm sao?Hỡi thế gian, tình yêu là vui sướng hay buồn khổ? Cho ta được sống một lần trong giây phút thiêng liêng! Thiên hạ bây giờ chia năm xẻ bảy, mong manh khó giữ thân người, tuổi xuân này chưa ai nói vì ai! Hoa vương mím chặt môi rồng, hai tay đưa tới, hoa xuân rơi xuống nhẹ nhàng, cho mơ màng trong đôi mắt uyên ương. Nghĩ mình từ lúc cha sinh mẹ đẻ tới nay, chưa thấy người con gái nào nặng tình như mắc nợ nhau từ muôn đời, tim đỏ như son, tiếng yêu thương ngại gì không nói ra cho rồi, để giọt lệ hồng quần thôi rớt trên môi, ung dung như người vừa sau đêm đen tỉnh dậy, Hoa vương cài hoa đào lên mái tóc của Tình Hỉ trong xúc động bồi hồi, bất giác nói vu vơ: - Muội ba lần âm thầm cứu mạng ta từ hồ băng năm đó, phong thư nhỏ máu ghi sâu mối tình son sắc đến thiên thu. Ta không biết tương lai sau này của đôi lứa ra sao? Nhưng trước mắt, việc nước còn nặng gánh trên đôi vai này, ta cũng cam đành nhẫn chịu mà thôi! Vừa nói, chàng vừa hôn nhẹ lên tóc của giai tình, ôm lấy dáng tiên nga. Tình Hỉ nghẹn ngào không lên tiếng được, sao trong tâm tư có linh cảm không lành, tha thiết chuyện thành đôi. Biết đâu thời thế tạo anh hùng, nhân trung long phụng, đợi nhau cho hết kiếp con người, tim yêu này cháy bỏng giữa hồ băng. Hoa vương lại nói trong tâm thái mơ màng, như quay về những ký ức tuổi thơ: - Tình Hỉ, huynh biết muội không muốn gả mình sang Liên quốc, làm vợ của Liên Hoàn, nhưng Long vương tính khí khó dò, chưa chắc gì đã niệm tình máu mủ ruột rà mà không giết muội để làm gương cho những người muốn kháng chỉ xưa nay. Tình Hỉ cũng hơi sợ chết, nữ nhi đâu thể kiên cường như nam tử tu mi, dựa vào lòng tình lang, hơi thở cứ dập dồn, hai má đỏ gay, nói: - Muội tuy là tam công chúa của Long triều, vinh hoa phú quý hưởng mãi không hết, nhưng không muốn cả đời bị sai khiến như bù nhìn, không có chủ kiến riêng. Hoa vương nhớ lại chuyện trước đây đi thuyền thả ngọc, từng gặp qua một người có tướng mạo giống Tình Hỉ tám phần, vui sướng reo lên: - Huynh tự nhiên lại nhớ đến người con gái đó! Phải, chính là vị cô nương đó! Ha ha ha! Tình Hỉ không hiểu chuyện gì, liền hỏi: - Huynh đang nói tới người nào? Hoa vương đáp: - Là một người sẽ làm việc gả chồng thay cho muội! Thôi, đừng hỏi! Đợi khi nào thời cơ chín muồi, ta quan sát tinh tượng thấy có thể dàn xếp chuyện này, sẽ đem cô gái họ Phòng đến trước mặt muội, chịu không? Hai người đưa mắt nhìn nhau, tràn đầy hạnh phúc, Hoa vương tự biết tim mình không thể thiếu giai nhân. Liên hoa chưởng môn là Liên Tịnh từ lâu đã nghi ngờ thân phận của Từ Phụng, lại được Liên nhân đế giao phó cho mình trọng trách cứu khốn phò nguy, luôn âm thầm đi theo họ Từ không rời nửa bước, hễ có động tĩnh gì khác thường đều phải báo về cho Liên hậu cùng văn võ bá quan. Có một ngày, khi đang một mình đi hái thuốc trên đỉnh núi Cửu Hoa sơn, nàng vô tình phát hiện dưới tảng đá lớn đặt tôn tượng của ngài Địa Tạng Vương bồ tát có hơi nóng dị thường, cỏ cây xung quanh tươi tốt hơn những nơi khác, một vài chư tăng trong lúc niệm phật nơi này đã sơ ý bỏ quên lại chiếc y vàng khi vội vã ra đi vì một nhân duyên kỳ lạ. Trên mảnh y vàng có đính rất nhiều kim cương vàng bạc, ngày đêm lấp lánh sáng ngời, tỏa nhẹ một mùi hương. Biết đâu đây chính là chiếc y trong truyền thuyết, Bá Trượng kim bình, Tam Thánh hoàng y. Năm xưa, cũng bởi Liên trung đế là Liên Vũ, cha của Liên nhân đế bây giờ trong một lúc điên cuồng lạm sát lương dân, để lại nỗi oan thấu trời cho ba họ Châu-Long-Khúc nơi đất Kim Bình, tuy về sau đã hối hận vô cùng, nhưng trong dân chúng có kẻ lợi dụng chuyện này để mưu sát Liên Hoàn, nên xứ ấy quốc pháp khá nghiêng về cực hình, khiến cho bá tánh thêm lo buồn, việc nước có đôi ba phần lung lạc suy hao. Cũng từ đây mà sinh nhiều phản loạn, sơn tặc rất nhiều, thủy khấu cũng đông. Liên Tịnh có lần chết hụt với bọn chúng. Liên hoa phái lấy Thiếu lâm làm gốc, chỉ thu nhận và nuôi nấng, dạy dỗ kinh phật và thương pháp cho các nữ tử lưu lạc giang hồ, cha mẹ người thân đều đã không còn, trọn đời giữ thân ngọc nữ trinh khiết, không chịu gả chồng, ăn chay kỳ, mặc y phục màu trắng, lưng đeo kiếm, hành hiệp trượng nghĩa một lòng, trị bệnh nan y, rất được lòng dân chúng. Liên Tịnh gần đây đang dạy cho các đồng nữ ngồi thiền trong Liên hoa động cả ngày, thức ăn không có sẵn nơi này, nên phải đi xin. Nàng dạo bước xuống thôn làng gần đó, chân mang giày trắng, không nhiễm bụi trần, mắt xanh trong vắt thiên tình, môi sen đỏ thắm nụ cười, như tiên nữ hạ phàm, ai thấy cũng đi theo. Đứng trước cửa một ngôi nhà họ Đỗ, giai nhân hành lễ khiêm nhường, tỏ phân duyên cớ túng nghèo, xin ít gạo thô: - Chào lão bá! Con là nữ hiệp giang hồ, đang trong lúc đói, cũng không chút bạc tiền, không biết lão bá có thể giúp cho con một lần, cho xin chút gạo nấu cơm? Họ Đỗ kia nhìn trinh nữ ăn mặc như trong nhà đang có tang, nhưng mặt mũi hiền lành, giọng nói dễ nghe, nên cũng có lòng muốn giúp đỡ, đi vào trong đong chừng ba cân gạo, tươi tỉnh như được đi chùa cúng phật, cúng tăng, vừa cười vừa nói: - Con gái! Sao con thích màu trắng vậy? Trong nhà của ta cha mẹ vừa mới qua đời! Thôi đi! Cho con số gạo này để chống đói vài hôm. Nhà ta chỉ còn bao nhiêu đó. Nếu con thấy chưa đủ thì đi lên mấy căn nhà xa trong núi, tuy nghèo khó nhưng đều là cư sĩ tại gia tu hành, sẽ mở dạ bao dung. Chứ không nên xin ở mấy ngôi nhà gần đây, chúng có tiền mà hay lên mặt! Con nhớ chưa? Trùng hợp là Nghiêm Long và Từ Phụng lúc này đều xuất hiện, hai người cưỡi trên cùng một con ngựa trắng, lất phất mưa phùn, hoa nở đầu non. Liên Tịnh bất ngờ khi thấy Nghiêm Long, mỉm cười như đôi bạn tri âm lâu ngày gặp lại, nói: - Ứng Long, huynh đến đây chắc phải là vì chuyện Hoa quốc đang ngày đêm không ngừng chiêu binh mãi mã đó chứ? Đỗ Thanh nghe hai chữ chiêu binh thì nhớ liền ra một chuyện, vẻ mặt lúc này hơi nghiêm trọng, nói: - Chiêu binh! Nè con gái à! Lão bá vừa rồi nhớ ra một người bên Long quốc, hắn nói là trước đây từng bị tên yêu đạo Thành Tinh gì đó giết hết cả nhà vì viên ngọc, nên sẽ cấu kết với Hoa quốc để trả thù, đem tinh binh mãnh tướng đánh bại Long triều, giết chết Long Trang! Từ Phụng hỏi: - Long Trang là người nào vậy? Liên Tịnh nói: - Long Trang chính là Long Tình Diễn, cũng là Long thiên đế, vua của Long quốc hiện giờ. Nghiêm Long hỏi ngược lại họ Đỗ: - Tại sao bá phụ lại biết được chuyện này vậy? Mà người muốn trả thù kia là ai? Bá phụ có biết tên họ của người này không? Họ Đỗ do dự trong lòng, nửa không muốn nói, Liên Tịnh lo lắng muôn phần, làm nũng cầu xin, hôn lên má của ông như cha mình, còn giật giật tóc của ông. Trước cử chỉ hồn nhiên này, ông không biết phải làm như thế nào, giờ đây, đã xem Liên Tịnh như con gái của mình thật rồi, bấm bụng ba lần, tạch lưỡi nói luôn: - Nghiêm thiếu hiệp, dù biết là hai vợ chồng tôi sẽ gặp nhiều phiền phức không đáng có sau này, nhưng không thể trơ mắt đứng nhìn sinh linh lầm than. Thôi, để tôi nói! Người mà thiếu hiệp đang muốn biết tên là Công Thận, không biết họ của hắn là gì, hắn độ chừng ba mươi sáu tuổi, mặt mũi hiền hòa, rất giỏi vẽ tranh. Hắn còn là đệ đệ kết nghĩa của con trai lão phu. Vậy được chưa? Vừa dứt lời xong, đột nhiên có một mũi tên từ đâu bay thẳng tới, chỉ cách yết hầu họ Đỗ có vài phân, cũng may là người này không muốn lấy mạng ông, nếu không thì chết thảm. Nghiêm Long không muốn tiếp tục dông dài, hết sức khẩn trương, hỏi dồn họ Đỗ: - Nếu là như vậy, bá phụ có biết hiện giờ người này đang ở đâu không, tướng mạo cụ thể ra làm sao, rất mong được gặp mặt! Đỗ Thanh bẽn lẽn trả lời: - Tôi chỉ có thể nói bao nhiêu đó mà thôi! Xin lỗi! Từ Phụng biết chuyện này không đơn giản, lấy ra từ trong người ba nén bạc, đưa cho ông với ánh mắt chân thành, năn nỉ hết lời, nhưng ông vẫn im ru. Bất đắc dĩ Từ Phụng phải kề dao lên cổ ông, giả vờ hăm dọa là sẽ giết ông nếu không chịu nói. Liên Tịnh ôm Từ Phụng cản lại. Đằng xa có một người điềm nhiên đi lại, mái tóc đỏ bừng như ngọn lửa trong đêm, cầm trên tay cuốn thiên thư, lưng dài mắt sáng, dùng phi tiêu làm gãy đôi con dao trên cổ của Đỗ Thanh rất nhẹ nhàng, hất mặt tự kiêu. Từ Phụng quay lại hỏi: - Ngài là ai? Người đó nói trong tức giận: - Lũ người cặn bã! Ta là người đã đánh bại Long Châu vào ba mươi năm trước, sánh ngang với minh chủ võ lâm hiện giờ là Liễu Phi Thiên. Còn tên tuổi của ta thì các người không xứng đáng để biết. Từ Phụng lại hỏi tiếp: - Tại sao ngài lại cản tôi, không cho tôi cứu bá tánh Long triều qua cơn binh hỏa, phải chăng có mối hận gì với Long quốc xưa nay? Người bí ẩn vẫn không thèm nói với Từ Phụng, mà quay người sang nhìn Nghiêm Long, cười tươi rồi nhỏ giọng nói: - Họ Nghiêm kia, đây chính là thiên thư, ta đã lấy nó lên từ đáy sâu ba ngàn trượng của hồ băng ngàn năm nơi Hoa quốc, ngươi hãy học hết tất cả bí kíp ở trong này để cứu độ lê dân. Ba năm sau thì gặp lại. Bảo trọng! Kỳ nhân nói xong thì dùng khinh công mà biến mất. Đám người còn lại không hiểu chuyện gì, đưa mắt nhìn nhau. Hoa địa đế từ khi đăng cơ đến nay, văn võ ngày một siêu quần, lại được nhân tài phò tá, trong tâm cũng có lúc vui mừng, thường hay giả dạng dân thường, thử bụng bá gia, sẵn tiện đi tìm hán kiệt trung nghĩa trong đời, củng cố vị ngôi. Đi thuyền trên sông Dương Tử, thổi sáo nhịp nhàng, ngâm vịnh thi thư. Quan ngự sử đi theo là Chương Quản, nhân thấy phong cảnh đẹp như tranh vẽ từ ngàn xưa, sông núi hữu tình, mới hỏi vua một lời gan ruột: - Hoàng thượng, con người ở trên đời, sanh ra rồi chết đi, không biết ta phải làm gì để cho muôn đời sau này ca tụng mãi bia danh? Hoa địa đế trầm ngâm giây lát, tay buông cây sáo hững hờ, tay ngâm trong nước, chỉ thở ra ba bốn hơi liền, đôi mắt ưu tư, nhưng vẫn miễn cưỡng nói với tùy tùng đại ý thanh lương: - Ta cũng là một con người bình thường, không hơn không kém. Muốn cho nhân thế tôn thờ, phải giữ tròn đạo đức lễ nghi. Người vừa có đức vừa có tài thì đi thi đỗ đạt, làm quan trong triều, thương dân như con đỏ trong nhà, trung hiếu cho xong. Trọn đời thanh cao, thuần khiết, tế thế an dân, sau khi chết đi rồi ắt hóa thần trang nghiêm tướng, hoặc xuất gia xuống tóc trong chùa, liễu đạt nguồn tâm. Người bơi thuyền nghe qua thì rơi lệ, mái tóc đen che phủ mặt mày, bạo dạn hỏi to: - Trong thiên hạ, thứ gì lớn nhất? Hoa địa đế mỉm cười, tay chắp hoa sen. Chương đại nhân hồn nhiên trả lời: - Ông trời có đức hiếu sinh, nên trong thiên hạ này, mạng người là lớn nhất! Người bơi thuyền lại nói tiếp: - Vậy tại sao không cùng chung sống trong cảnh đời thịnh trị, tranh nhau để làm gì, đánh trận có vui không? Cung nữ ngồi cạnh vua là Ngọc Hoa sau khi thăm dò ánh mắt của những người xung quanh một lượt, lấy chân dọc nước một hồi, sau đó nói nghiêm trang: - Muốn thái bình có hai cách. Một là dùng tâm nhân từ để hóa giải chiến tranh. Hai là phải dùng chiến tranh để dẹp bỏ chiến tranh. Tùy duyên mà liệu sự, chẳng thể nói suông. Trên bờ sông có một vị tiều phu đang ngồi câu cá, cũng không ngại chen lời: - Vẫn còn có cách thứ ba. Giọng nói ôn hòa, phong dung đĩnh đạc, khiến cho Hoa vương tôn kính ở trong lòng, muốn được nói nhiều hơn. Nhưng lão tiều phu đã ung dung đứng dậy, dắt theo đứa nhỏ mục đồng đi thẳng về tây. Hoa vương thật chẳng biết cả ông lão chèo thuyền và lão tiều phu đây đều là danh sĩ đương thời, đức độ uyên thâm. Chỉ ghi nhớ mơ hồ trong tâm trí, mãi cho đến sau này, khi Long thiên đế bắt sống được Hoa vương, muốn giết hết chín họ để trả thù, thì Hoa vương mới trực nhận ra được nghĩa lý thâm huyền trong câu nói của cao nhân. Một mạch bơi thuyền đi thẳng đến Quy châu, lên bờ rửa sạch đôi chân, thêm phần mát mẻ, đi bộ thêm một quãng đường dài, đói lã bụng không, thấy một quán trọ bên đường thơm mùi hương hoa quế, Hoa vương vào đó ngồi nhìn khắp những người hảo hán võ lâm, đợi lúc tương phùng ba chàng tuấn kiệt. Trong quán có đãi đồ ăn, rượu, trà và hoa quả. Hoa vương ăn uống no lòng, định đi ra phía đông, hóng mát gió trong lành, thì Hoa Đán công chúa đã tới nơi, từ đằng sau vỗ mạnh vào vai của hoàng huynh mình mà nói: - Ca ca, sao chưa lo xong việc lớn nhà mình, còn thơ thẩn đứng ở đây? Hoa Thần vẫn đứng yên như không nghe thấy. Tiểu nhị do phải chạy tới chạy lui cả ngày, tình cờ vấp ngã, hất văng chén nước vào người vị hảo hán mặt xanh. Vị kia mặt nóng phừng phừng như lửa đốt, muốn cho chủ quán một bài học nhớ đời, nên rút kiếm ra uy, trợn mắt lên trời, nói: - Các ngươi có mắt không? Bộ đui mù hết rồi hay sao? Không thấy ta đang ngồi ăn cơm cùng nương tử! Ai cũng quay người sang nhìn. Hoa Đán thấy tức cười, dùng nội công búng hai hột đậu phộng bay thẳng vào mũi của thiếu hiệp bồng bột, khiến cho y thêm tức tối khôn kiềm, định chém giết lung tung. Hoa Đán nói nửa đùa nửa thật: - Nếu huynh đài dám giết người, ta sẽ đứng yên cho giết. Còn nếu như không dám, thì tức là rùa rụt đầu! Sao hả? Chủ quán vội vàng chạy ra cản lại, đưa cho chàng trai trẻ tuổi kia một ít thịt gà, xin hãy bỏ qua. Lại có vị đạo sĩ râu dài tên Cam Lộ, từ nãy giờ đã thấy khó nhẫn, vờ đập bàn, hơi to tiếng nói: - Ngươi là người học võ, sao không có đức nhẫn? Còn hung hăng, ngang ngược như vầy, ta muốn dạy dỗ ngươi! Người mặt xanh đùng đùng nổi giận, lao vào muốn đánh chân nhân, nhưng võ nghệ quá tầm thường, tiếp không nổi ba chiêu, bị té lăn nhào ra mặt đất, xấu hổ vô cùng, liều chết ăn thua. Hoa Thần nói lời hòa giải, đỡ người kia đứng dậy, an ủi ba lần, cho thêm chút tiền, bảo hãy rời đi. Cúi người ra mắt Cam chân nhân, hỏi thêm về thế đạo luân thường, ai ai cũng kính. Cam chân nhân hài hước nói: - Nếu như giữ lòng mình ngây thơ như đứa trẻ, thì cho dù là kết quả thắng hay thua gì cũng đều là một muỗng mật ong.
Chương 003. Long tử hồi sinh Bấm để xem Long thiên đế kể từ lần bị thương do ám tiễn, đã không còn uy vũ kiêu hùng như tuổi đôi mươi. Trái lại, còn hay nổi giận thất thường, đập phá lung tung, làm cho ba ngàn giai lệ hậu cung người người lo sợ. Lại nghe tin đồn Hoa quốc rầm rộ chiêu binh để trừ loạn tứ phương, lòng càng sầu muộn. Vua cho mời các quan vào triều, tính chuyện quốc gia, nhưng các quan đa phần đều thoái thác. Người thì nói mình bị bệnh, người thì nói trong nhà đang có tang, thậm chí có tới ba mươi người đã cáo lão hồi hương, sống đời ẩn dật. Trong lê thứ, nổi lên rất nhiều danh môn chánh phái, đi kèm theo đó cũng là vô số những bàng môn tả đạo khác nhau. Từ năm 1068 sau công nguyên, thế đạo suy tàn, nho phong đổ nát, con người ngày một đê hèn, tham dục, xấu xa, làm việc chó heo mà không bao giờ biết ngượng. Đàn ông thì tìm đến chốn thanh lâu để mua vui cùng kỷ nữ. Đàn bà thì hay đa tình, đi đứng buông lơi, nói lời mật ngọt. Con thì bất hiếu với cha mẹ, chẳng có tôn ti. Người làm quan đục khoét của lương dân, ruộng đồng ưa cưỡng đoạt. Bạc giả rất nhiều, đói khổ khắp nơi. Các anh hùng trong thiên hạ diện kiến thiên nhan, bày tỏ nỗi lòng trung can tiết liệt, mà ngôi vua cửu ngũ chỉ biết say mê hưởng lạc cho riêng mình, bỏ mặc hết con dân. Có quan tri huyện là Chân Hoài Phúc, vì thương xót cho bá tánh nơi mình cai trị không có cơm ăn, đã viết sớ dâng vua, khuyên chém đầu ba tên giặc ác trong triều là Châu Thần, Long Khí, Thành Tinh. Long vương xem qua đùng đùng nổi giận, cho bắt giết viên quan này ngay giữa chợ đông, nhưng có người con trai của người này đã chạy thoát được, đi theo Liễu Giới đại sư để tu hành, để tóc ăn chay. Người ở huyện Hoài mất đi quan phụ mẫu nổi tiếng thanh liêm, bảy phần bất mãn, góp gom chút ít của cải sau cùng để khởi nghĩa xung phong. Phái Thiếu Lâm nhờ có Ngộ Trực tiểu tăng đi thuyết pháp khắp nơi mà hưng long một cõi. Phái Võ Đan có tất cả là tám mươi mốt người chân nhân đắc đạo, thu nhận vô số môn đồ, diệt ác trừ gian. Cái Bang hội thì quá nửa số người là ăn xin thực sự, không biết võ công gì, già cả chiếm phần đông. Cả ba môn phái thuộc về bạch bang lớn nhất ở trên giang hồ giờ đây đang cùng chung tay hiệp sức, thay vua cứu giúp dân nghèo, vất vả ngày đêm. Có người cùng nông dân đi cày ruộng, có người bốc thuốc trị bệnh, có người đi xây nhà ở cho những cặp phu thê già bị con cháu bỏ rơi, cho đến lên núi đốn củi rồi mang xuống chợ bán, kiếm được bao nhiêu tiền đều phân phát lại cho những cảnh đời khốn khổ không may. Tất cả những việc thiện lành là do tự nguyện, thương nhau như máu mủ ruột rà, trông thấy cũng vui sao! Liên Tịnh một mình đi xuống núi dạy chữ cho các em nhỏ lang thang không còn cha mẹ, tình cờ gặp được một vài người của phái Trầm ngư, kết giao bằng hữu, ở chung trong một ngôi nhà trống trong rừng bỏ phế đã lâu năm. Liên Tịnh là truyền nhân đời thứ chín của phái Liên hoa. Người sáng lập ra phái này là Liên Hoa tổ sư bà bà, sống cùng thời với Võ Tắc Thiên triều đại nhà Đường. Tương truyền, bà là nghĩa muội của Lục Tổ Huệ Năng, người đã mang y bát của nhà phật xuôi về phương nam. Mà Lục tổ cũng thật là người An Nam. Lục tổ dạy cho bà mật pháp ẩn thân, phi thiên độn thổ, phép bay cao vút lên trời, cùng ba mươi sáu tuyệt kỹ xưng bá trên giang hồ, đều được ghi vào một cuốn gọi là Liên hoa phổ. Cảnh giới tối cao của người học đạo theo phái Liên hoa là không già, không bệnh, dung nhan tươi trẻ hoài hoài như thiếu nữ mười tám, nhưng tuổi đời thật sự thì có thể đã quá ba trăm năm. Liên Tịnh đang ngồi nhìn các cháu nhỏ trong sáng hồn nhiên, vừa nghĩ về liên hoa trận pháp. Mưa cứ rơi nhẹ bên thềm, cầu vồng rực rỡ phương xa. Ai chẳng buồn cho nhân thế khi không thể nào tránh được kiếp can qua. Trong đám trẻ đang nô đùa bên khóm trúc, có một đứa lớn nhất nói: - Cô cô, sao mọi người ở trong thôn ai cũng đều bỏ đi hết vậy? Liên Tịnh bĩu môi nói: - Cô cô cũng không biết nữa! Chắc là họ đi làm ăn xa rồi. Từ từ thì họ cũng sẽ quay về, như cha mẹ của các con. Lũ trẻ lại bất mãn nói: - Trong mười đứa tụi con, đã có năm đứa là không còn cha mẹ! Đứa nào lạc quan thì nghĩ là song thân chỉ đi xa để mà làm ăn thôi, còn như con đây thì bi quan hơn nhiều, chắc là phụ mẫu không cần con nữa rồi, cho nên mới đi mà không thấy họ về? Có đứa buồn quá khóc rống lên. Liên Tịnh cũng thừa biết người trong Mai hoa thôn bỏ đi hết tám trên mười nhà, đa phần là vì sợ chết, do họ đã nghe phong phanh tin đồn trong chốn võ lâm là sắp có chiến loạn liên hồi, yêu nhân tác quái. Trong số những người làm cha làm mẹ của những đứa trẻ chừng năm đến mười hai tuổi, mà vội vã ra đi, có người vì bất đắc dĩ, trong nhà sinh nhiều con, nên chị đem theo được một vài đứa, thường thì là những đứa nhỏ hơn, có người vì nghi ngờ đó không thật sự là giọt máu của mình sinh ra... Phong khí tà dâm nơi Long quốc tuy đã giảm nhiều so với mười năm trước đây, nhưng hiện tại vẫn còn một số nơi nam nữ chung giường chẳng theo lễ nghĩa, có rất nhiều cô gái khi chưa được gả về nhà chồng mà đã có chữa hoang, không biết đứa nhỏ ở trong bụng mình là con ai nữa. Gái trai chung sống với nhau tùy tiện, không muốn thành thân, chỉ cần thấy đối phương là người có chút sắc đẹp, liền dọn về ở chung một nhà, lộn xộn tiếng phu thê. Có câu thượng bất chính, hạ tất loạn. Vì Long Tình Diễn làm vua mà còn ham mê nữ sắc như vậy, suốt ngày ôm Phí Nguyệt vào lòng, xem múa hát nhiều hơn thượng triều, uống rượu chơi bời, xa lánh bá quan... thì biểu sao trong lê dân không học theo cái thói dâm tà này cho được? Nghiêm Long một lòng trung trinh báo quốc, tuy rất yêu thương Từ Phụng, mà nào dám sớm bàn luận gì đến chuyện thành gia. Trong một đêm mưa gió ầm ầm, cỏ cây nghiêng đổ, Long đang luyện kiếm một mình, lại nhớ đến chuyện xưa. Vào năm mười hai tuổi, chàng đi miếu sơn thần, gặp được một con rắn hai đầu, trên lưng có bảy sắc lạ thường, mắt sáng lại hiền, uốn cột nhả minh châu. Long nhặt nó lên rồi đem chôn ở gần gốc cây lý bên hông trái nhà mình, cũng không bao giờ dám nói với song thân. Chàng ngồi trên tảng đá lớn, hít thở mạnh liên hồi, nghe tiếng sấm sét liên hồi, trong bụng thấy nôn nao. Thiết nghĩ, nếu như một người chỉ chuyên tâm vào một việc, lâu ngày linh tính sinh thành, mách bảo ý thiêng liêng. Tiếng bước chân từ xa dồn dập lại, mưa gió cũng dừng, có bóng một giai tình mang theo trên mình một thanh đao lớn về đây. Long ngước nhìn lên, gót sen như mềm mại, con đường dốc chai lì, thiếu nữ đứng khoanh tay. Nàng ấy là Bao Tình, vốn là con cháu của Bao Công ở triều đại nhà Tống, người cũng được hứa hôn từ nhỏ với Long, giống như là Từ Phụng, nhưng tuổi tác thì nhỏ hơn họ Từ vài ba năm. Bao Tình tính khí trẻ con, vui buồn bất chợt, phảng phất vài nét tương đồng như mẹ của Long thời còn son trẻ. Nàng võ nghệ chưa cao, hay đi kiếm chuyện trêu đùa, khiêu khích với các vị anh hùng hảo hán trên võ lâm. Lần này về đây nếu như không phải là để dựa dẫm Ứng Long, thì cũng là muốn có thêm người cùng đi với mình xuống chốn hoàng tuyền xa xôi tăm tối. Ứng Long không nói một lời, chỉ liếc mắt cho qua. Bao Tình đi lại gần phu quân tương lai, mỉm cười như đứa trẻ, nói: - Nè, sao huynh không nhìn muội? Bộ muội già, rồi xấu lắm hay sao? Đừng nói là không còn nhận ra nương tử nhà mình nữa đó! Ứng Long giả vờ làm ra bộ mặt lạnh lùng, tay đấm không trung. Bao Tình chạy đến trước mặt, nắm lấy tay chàng, xoa lên má của mình, rồi cắn nhẹ một cái. Long gõ trán của nàng thật mạnh, cũng tiện tay lấy thanh đao lớn trên người bạn nhỏ năm nào, xem xét một hồi, rồi nói: - Thanh đao này muội lấy ở đâu ra? Có phải muội lại cướp được từ người nào nữa hay không? Đã nói qua bồ câu đưa thư là ba năm sau mới gặp mặt huynh, sao bây giờ muội tới? Bao Tình chu mỏ xong rồi nói: - Thanh đao này là của muội! Hơn nữa, còn có cả khẩu quyết nữa đó! Nhưng mà không nói cho ai kia biết được đâu. Long rờ đầu họ Bao, vặn hỏi tới cùng vì sợ họa lây, nhưng mà vô ích. Họ Bao than là đói bụng, trời cũng đã gần sáng, muốn theo Long về nhà để coi cho biết bây giờ cây cối có xum suê hơn ba ba năm về trước hay không. Long miễn cưỡng đưa người đẹp lên lưng ngựa rồi chạy thẳng về, dọc đường phải kiềm lòng hơn kẻ khác để không tức giận khi phải nghe giai tình nói đủ chuyện linh tinh. Mẫu thân của Bao Tình là quận chúa ở Long châu, tất nhiên cũng đã sai gia tướng của mình đi theo con gái để bảo vệ tính mạng luôn an toàn và làm một vài việc cá nhân, là ba người Bao Thần, Bao Phúc, Bao Ngôn. Khi Long cưỡi ngựa đi xa rồi, chỉ còn lại mỗi Bao Thần là đi xung quanh nơi đó để thăm thú dân tình, tính chuyện dài lâu. Từ Phụng không ngày nào là không chăm chỉ luyện thương, ở một mình trong hang đá trên lưng núi Phụng Hoàng, võ nghệ thêm tinh thuần, da trắng trẻo hơn xưa, càng trở nên xinh đẹp tuyệt trần, không ai sánh kịp. Người luyện võ nhiều năm thì thịt da rắn rỏi, xương cốt chắc khỏe hơn người thường, da trắng tóc dài là lẽ tự nhiên. Họ vừa khỏe mạnh về thể chất, lại đẹp đẽ dung nhan, tâm hồn thanh cao thoát tục, đi đứng nhẹ nhàng, ngôn ngữ khoan thai. Nữ nhi như Từ Phụng muốn hành tẩu giang hồ, cũng nên học chút chiêu trò để đối trị với lũ người gian xảo tham lam. Trên người nàng có mang theo độc dược, ám khí, hổ phù, thánh thủy ma ni... Nàng từ lâu đã không còn muốn sống cho riêng mình, thấy quá nhiều người chết đói giữa đường, lập chí an bang. Nhưng trong thiên hạ có bao nhiêu người không sợ chết xông pha, dãi dầu mưa nắng? Trần Thiên Tâm vẫn chưa thể khuyên nàng chịu cúi đầu quỳ gối, cam lòng làm đệ tử. Có chút không an lòng, nên lúc nào cũng nhẹ bước theo sau. Từ Phụng là thánh nữ, người mà sau này xoay chuyển cả cục diện càn khôn, phải trải qua trăm ngàn tai ương gian khổ mới thật sự trưởng thành, cứu độ muôn dân. Chịu đói đã ba ngày, bụng không ngừng đánh trống, nhưng nàng vẫn kiên trì tập luyện võ công, nếu không như vậy thì sao xứng danh là hổ nữ đáng tự hào của cha nàng là Tiết ninh vương. Phụ thân cũng cho ba người tỉ tỉ đi theo tứ muội Từ Phụng lâu ngày, để xảy ra chuyện gì thì tương hỗ cho nhau. Đại tỉ Từ Kim cải trang làm nam tử, đi lại những chốn đông người để nghe ngóng tình hình của võ lâm, nhất là ở Long triều. Từ Kim được giao sứ mệnh đi tìm đứa con bị thất lạc từ lúc mới chào đời của Long thiên đế, giao cho Hoa địa đế, mục đích để làm gì thì không ai biết. Đứa trẻ này tên là Long Nghiêm, tự Cảnh Võ, được một cao nhân bắt cóc đem đi vì trên người có long khí ngập tràn, có tướng mệnh làm vua. Nếu như để cho long tử này sinh trưởng trong hoàng cung thì không hề có lợi gì cho nó, vì mẹ của đứa trẻ chỉ là dân nữ bán rau đậu ở bên đường, không biết chữ, do dung nhan quá đỗi xinh đẹp, mặn mà, nên mới bị Long thiên đế ép buộc ngủ chung giường, rồi sanh ra long nhi. Xuất thân thấp kém của người mẹ khiến cho hoàng tử từ khi còn là bào thai trong bụng đã không ít lần gặp phải họa sát thân. Một lần suýt chết vì thức ăn có độc, một lần suýt chết cháy... Mẹ của long tử là người đàn bà họ Liên, tên Huyền Nữ, sau khi hạ sinh đứa con trai này thì được phong làm Trinh phi, thưởng cho gấm vóc lụa là số lượng không biết bao nhiêu, bạc vàng chất đầy mấy chiếc rương lớn. Hiển nhiên là hoàng hậu của Long triều không hề ganh ghét vì là người có bụng dạ nhân từ, tứ đức khiêm cung. Nhưng làm sao Trinh phi có thể thoát được bàn tay ma quái của đa số những phi tần còn lại trong cung, nhất là những người không sanh được đứa con nào cho Long vương. Bất đắc dĩ, Trinh phi mới liều mình trốn khỏi hoàng cung nhân một lần rối ren vì hỏa hoạn, chạy đi với hai bàn tay trắng về hướng núi Phổ Đà, xuống tóc làm ni cô. Long tử chắc cùng một tuổi với Nghiêm Long, nhưng tên thì phải đọc ngược lại là Long Nghiêm. Cũng không biết Long Nghiêm hiện giờ đang phiêu bạt nơi đâu, còn sống hay đã chết. Vì sao gọi là đứa trẻ? Vì long tử này là người nắm giữ cơ trời, quyết định vận càn khôn. Với lại, gọi là đứa trẻ là để cho người trong giang hồ cứ nghĩ Long Nghiêm còn nhỏ tuổi, chưa hiểu chuyện đời, sẽ tránh được nhiều việc tai nàn, giết chóc máu me. Trong giang hồ đâu phải chỉ có hảo hán bao dung, mà cũng có lắm tên giết người vì lợi ích, sắc đẹp phụ nữ, bạc tiền, quyền lực... Chỉ cần là nhận được tiền, thì cho dù là đứa trẻ mới lên mười, bọn chúng cũng không tha. Quân tử ngày một ít Tiểu nhân đếm càng đông Dân lo tìm đường sống Đại hiền chưa thong dong. Trôi qua mười lăm năm, chắc chỉ có Hồ Thiên Khí là người duy nhất còn nhớ được mặt mũi của Liên Huyền Nữ và đặc điểm trên người để nhìn nhận vị hoàng tử lưu lạc là Long Nghiêm. Ở phương đông của Long quốc có một băng động do Bạch Tuyết phu nhân làm ra từ mấy trăm năm trước, người thường không biết nếu đi lạc vào, sẽ chết cóng bên trong, còn có rất nhiều cơ quan trấn giữ, ám khí khôn lường, chỉ có quyển thiên thư ở trong tay Nghiêm Long mới chỉ rõ từng nước đi, vào sâu bên trong hang động này, sẽ thấy được thần châu. Thần châu còn có tên là long huyết bảo châu, được đặt cạnh thi hài của một người nam trẻ tuổi, xung quanh có vô số thiên thần hộ pháp trông coi, đề phòng lũ yêu tà lăm le xâm phạm, thậm chí là những người có pháp thuật cao siêu. Thần thú ba ngàn tuổi Lôi quy nằm ngủ ở giữa hang động đã ba trăm năm để chờ tiên nhân điểm hóa. Con rùa khổng lồ này do khí thiên địa sinh ra, lúc đầu chỉ là một chú rùa con bé tí teo ở bờ nam hải, gặp được thánh tiên khai nhãn, khai tâm cho rồi sau đó tuyệt thực tu hành, sắp đắc quả thiên tiên. Nhưng vì nghiệp chướng trong những đời quá khứ, nên còn phải trông coi bảo châu long huyết nơi này, chờ đến ngày công quả viên thành, mới thoát được thân rùa, hóa kiếp thành tiên. Nghiêm Long xem trong thiên thư, thấy có trang vẽ hình một con rùa rất lớn, trên lưng có bản đồ, trong miệng ngậm thanh tiên kiếm có tên là thuận thiên. Từ Phụng từng học chữ phiên, đã giải nghĩa được một vài trang sau cuối, nhưng có chỗ ố vàng, chữ cổ bị lem. Trong sách trời còn có rất nhiều bài thơ tiên đoán vận mệnh của nhân loài cho đến mãi mãi về sau, không bao giờ cùng tận. Có ghi rõ họ tên của những người quan trọng trong lịch sử, như vua, hoàng hậu, đại tướng quân, quan tể tướng, minh chủ võ lâm, thần y, chưởng môn nhân... nhưng đều là thiên cơ, chỉ nói ngắn gọn vài ba từ, hoặc vài ba câu, khó mà dò biết được, chỉ đợi đến khi nào sự việc đã xảy ra rồi, thì nhân thế mới ngỡ ngàng do vô tình nghe được một người nào chú giải mà thôi. Việc thiên cơ nếu như mà nói trắng ra cho đến lòi xương cháy thịt, thì tuổi thọ của người này nhất định sẽ tiêu hao, hoặc mười năm, hoặc ba mươi năm... Liên Tịnh liên kết những gì mà mình đã học được với một vài hình vẽ cũng như mật ngữ trong thiên thư, phát hiện có vài ba chỗ đáng ngờ, tiết lộ ba phần về thân phận thật sự của Nghiêm Long. Nàng chưa dám nói với sư phụ mình, chỉ đánh dấu dọc đường, để lại ký hiệu trên những tảng đá có hình tròn, để chỉ đường cho các đệ tử mình đang theo dõi phía sau. Hoa vương trong vòng nửa năm đã chiêu mộ được khá nhiều anh hùng võ tướng đi theo, muốn đánh bại Long triều, giam cầm Long thiên đế, tuy từng chịu ơn của nước này nhưng bất chấp miệng đời, quyết thảo phạt hôn quân. Trước tiên, cho người ám sát Nghiêm Long và Từ Phụng, rồi vu cáo cho Liên nhân đế đã làm chuyện này, san bằng cả hai nước Long - Liên. Hoa vương sai thích khách Chung Thường đi theo Hoa Đán công chúa bằng đường thủy trên sông Hoàng Hà, xuôi xuống phía nam, dùng thật nhiều vàng bạc châu báu mua chuộc tên quan thái sư gian ác Châu Thần, dùng chất nhuyễn cốt tán pha vào trà của Long thiên đế, hòng bắt sống. Sau đó mới hư trương thanh thế, nói quá lên là trong tay mình đang có trăm vạn hùng binh, năm trăm mãnh tướng, để cho ba mươi mấy nước chư hầu phải đầu hàng, danh chính ngôn thuận mà ngồi lên ngôi thiên tử duy nhất, cai quản tất cả bốn mươi hai nước hiện giờ, thống nhất một tên gọi là Hương Quang. Tên các quốc gia trước đây vẫn để nguyên, nhưng hạ xuống thành châu quận. Vì Hoa vương từ khi đi xem tướng trở về, biết được trong năm 1357 này, có ba đế tinh cùng lúc xuất hiện trên bầu trời, ắt có ba người mang lá số quân vương, sợ rằng nếu như còn dây dưa lưỡng lự, một mai chia ba thiên hạ xong rồi, giấc mộng vương quyền không thể thực thi, nên nóng vội trong lòng, gấp rút ra quân. Tình Hỉ công chúa lo cho an nguy thiên hạ, đang trong đêm cướp ngựa của dân thường, phi thẳng đến quân doanh của Hoa vương, dùng lời nhỏ nhẹ để khuyên nhủ, còn dọa là sẽ tự tử nếu như Hoa Thần không thương xót sinh linh mà đánh đông dẹp bắc. Sự việc không thành, Hoa Thần vẫn làm theo ý kiến của riêng mình, mặc dù cũng có rất nhiều bá quan ngăn cản. Liên Huyền Nữ hiện vẫn còn sống, tuổi độ ngũ tuần, đang bốc thuốc cứu người ở gần chân núi Long Phi. Băng động nằm trên đỉnh của quả núi này. Gió lùa qua mái tóc đen huyền của người đàn bà môi thắm như sen, tuổi tác không làm cho Huyền Nữ già đi, mà dung mạo vẫn tươi trẻ như thời con gái vậy. Bà không quản chuyện đời nay vinh mai nhục, sống một mình trong căn nhà lá đơn sơ, đói thì ăn khoai lang nấu chín, khát thì uống nước sông Tương. Trải qua gần ba mươi năm, tấm lòng thêm rộng mở, đi xa tuy nhớ quê nhà, nhưng luôn mang tâm nguyện cứu đời, tha thiết bao dung. Bà không lúc nào quên được Long Tình Diễn, kẻ đã khiến cho mình phiêu bạt khắp nơi, phải thay tên đổi họ thành Quan Phụng Vũ, luôn đeo khăn che mặt khi đi xuống núi, bán củi lấy tiền, mua lấy gạo ăn. Cũng như không ngừng lo lắng cho long nhi mà mình đã rứt ruột sanh ra, nguyện cầu Quan Âm phổ độ. Mùa đông đang tới, tuyết rơi trên đôi tay đang may vá áo quần cho trẻ sơ sinh, phần nóc của căn nhà bị thủng một lỗ từ lâu, Phụng Vũ cũng không thèm sửa lại, trong đêm trăng, tinh tú chầu về, xem long mẫu ngủ hay chưa. Sáng ra, bà đi thất thần lên đỉnh núi, như có ai đó xui khiến tâm tư mình, khó cưỡng bước chân. Chẳng lẽ trên đỉnh non thiêng có gì thân thuộc, ở cạnh nhau gần ba thập kỷ mà mẹ con chưa từng gặp gỡ hay sao? Liên Tịnh thi hành nhiệm vụ, cần phải lên núi Long Phi để tìm một vài loài dị thảo, đang ăn khoai nướng một mình, ngồi nghỉ dưới gốc cây, hai mắt đang nhắm thiu thiu vì cả đêm đi đường không ngủ. Định ngã lưng ra nằm xuống, thì nghe tiếng bước chân. Thấy có một đám người ba nam bốn nữ, ăn mặc khác thường, đem theo rất nhiều vật cúng tế đi qua. Nàng nhanh nhẹn đi theo, nghi rằng quân gian tặc. Trong ba tên đàn ông này, có một người là Thân Hầu, cực kỳ háo sắc, thấy Phụng Vũ đang ngồi rửa chân gần bờ hồ, khởi dậy tâm tà, chạy tới ôm eo. Phụng Vũ la thất thanh: - Cứu! Có ai không? Cứu ta với! Thân Hầu là sơn tặc, có võ trong người, cho nên ỷ mạnh làm càn, bế Phụng Vũ đi thẳng vào trong bụi rậm gần đó, tự cởi áo mình, cười rú như điên. Liên Tịnh vô cùng kích động, dùng khinh công bay tới để cứu người hiền lành, dạy dỗ cho tên súc sanh này một bài học. Không quá mười chiêu, Thân Hầu bị đánh gãy một tay, co giò bỏ chạy, gọi thêm đồng đảng tới để thị uy. Liên Tịnh hỏi bọn chúng: - Các ngươi có được cha mẹ dạy dỗ đàng hoàng hay không? Nếu như là bào muội của mình bị người ta làm nhục, liệu rằng các ngươi có chịu đựng nổi hay không? Sao không nghĩ đến cảm nhận của người khác? Hoặc là ngay trên chính bản thân của mình, có ai mà muốn bị người đời cưỡng bức? Có nghe thấy không? Đám người này nghe xong thì xấu hổ, tên Thân Hầu bỏ chạy xuống núi theo con đường mòn, chưa rõ dụng tâm. Còn lại sáu người đều xin lỗi Phụng Vũ, sau đó lao đầu chạy lên ngay giữa đỉnh núi, mò mẫm thứ gì đó xung quanh, lại rút dao ra để làm dấu ở dưới đất, bắn pháo hoa lên trời làm tín hiệu, triển khai trận pháp gì đó, nhưng do thiếu mất một người, nên không thể thành công. Một người nữ tên Tập Hạ, là nghĩa muội của Thân Hầu, nói với Liên Tịnh: - Vẫn còn thiếu một đồng nam, nhưng mà đồng nữ cũng được, cô nương mau giúp chúng tôi! Làm ơn! Tôi cầu xin cô nương! Liên Tịnh không hiểu chuyện gì, trợn mắt hỏi vặn lại: - Nam thì là nam, còn nữ thì là nữ, sao có thể lẫn lộn được? Ta không biết là các người đang muốn làm cái gì! Nói mau, bằng không đừng trách ta không nương tay! Nói! Tập Hạ khóc lớn, những người kia cũng khóc, họ đồng thanh lên tiếng: - Thời khắc đã sắp tới rồi! Xin cô nương cứ yên tâm, chúng tôi không phải là người xấu, việc này vô cùng trọng đại, nếu như mở phong ấn không thành, đám người như chúng tôi đây chắc là không sống nổi! Xin hãy mở lượng hải hà mà trợ sức cho chúng tôi, ân tình này của cô nương chúng tôi sẽ báo đáp thật hậu hĩnh. Nghiêm Long đến đã lâu rồi, đứng ở sau vách đá để nghe những người không rõ lai lịch này nói chuyện. Phụng Vũ thì lại nấp sau lưng Nghiêm Long, nhìn từ đầu tới chân của vị thiếu hiệp này mà lòng bất giác vui lên, khó mà giải thích. Hồ Thiên Khí dẫn theo Hồ Điệp đến bằng con đường hầm thông từ chân núi lên tới đỉnh. Hồ Điệp chạy tới, định tóm cổ nhóm người của Tập Hạ để trừng trị vì tội bất kính với long mẫu là Phụng Vũ. Hồ Thiên Khí nói là nàng không được làm như vậy, còn mắng thẳng vào mặt nàng. Long mẫu thấy có nhiều người, mà mình chỉ có một thân đơn lẻ, xung quanh đều là kẻ lạ, nên định trốn đi, may mà Liên Tịnh đã kịp ôm bà giữ lại. Lúc này thì Nghiêm Long mới lên tiếng: - Sao mọi người lại xuất hiện ở nơi này? Còn sáu người ăn mặc không giống ai đó nữa, họ đang muốn làm gì? Hồ Thiên Khí cười lớn ba tiếng rồi nói: - Ứng Long, hôm nay là sinh thần của cậu phải không? Cũng là ngày trọng đại của Long Cảnh Võ! Phụng Vũ nghe nhắc đến tên con trai mình thì nghi vấn nổi lên, tiến tới hỏi: - Ngoại trừ Liên Tịnh cô nương ra, thì tôi không biết những người còn lại là người tốt hay kẻ xấu? Xin cho hỏi cao danh quý tánh của các vị, có được không? Rồi họ tự mình giới thiệu với nhau, qua loa đại khái, nhìn nhau miễn cưỡng nở nụ cười, dò xét đối phương. Tập Hạ thấy thời gian trôi qua đã lâu, sắp hết giờ lành để mở con đường đi xuống băng động, khóc lóc cầu xin Nghiêm Long thay thế cho Thân Hầu để kết trận phù vân. Nghiêm Long thắc mắc hỏi lớn: - Phù vân trận? Đây là trận pháp gì, mà các người muốn làm gì? Tự nhiên sấm chớp giữa trời quang, mây mù kéo tới, lúc này đã sắp qua khỏi giờ thìn, đất đá xung quanh bắt đầu sụp đổ, để lộ ra bên ngoài một chiếc cung lớn màu đen, bên cạnh là mười hai mũi tên bằng vàng tinh luyện, ánh sáng chói lòa, tự động rung lên. Hồ Thiên Khí vừa mừng vừa lo, vẻ mặt nghiêm trang thành khẩn, nói: - Mọi người đừng lo nhiều chuyện lặt vặt nữa, đã đến lúc rồi, long tử chỉ đợi đến ngày này để được hồi sinh! Tập Hạ vỗ tay liên tục, vừa cười vừa hỏi trời xanh: - Hóa công, vẫn còn thiếu một người nam, trận pháp vẫn chưa hoàn chỉnh, sao băng động lại tự mở ra con đường sáng này để cho chúng tôi đi vào, tôi không hiểu tại sao? Từ Phụng tằn hắng từ xa, ung dung bước tới, nhìn Nghiêm Long đang chau mày thắc mắc, rồi giải thích tỏ tường: - Thật ra phù vân trận chỉ là thứ yếu! Quan trọng là phải có mặt Ứng Long. Với lại, khi lập ra thế phong ấn này, Bạch Tuyết phu nhân đã điểm nhãn cho mười ba con thần thú thượng cổ, cùng nhau trấn giữ lối đi bí ẩn này, chúng nó sẽ biết được là người nào mang trên mình số mệnh đế vương, mới chịu mở cửa động, còn bằng không thì cho dù là chúng ta có dùng cách gì, cũng vô ích mà thôi. Hồ Thiên Khí dắt tay Phụng Vũ đi nhanh xuống băng động, mọi người nối gót theo sau. Vừa đi, ông vừa nói: - Con trai của bà đang ở trong đây, nó đã chờ mẫu phi của mình ba mươi năm nay, bây giờ thì hai mẹ con đã sắp đoàn tụ. Một lát nữa, bà đừng nói gì cả, mọi việc cứ để cho ta. Phụng Vũ không tin vào tai mình, hồn phách như lạc hẳn đi. Những người còn lại ngơ ngác nhìn nhau, ai cũng có suy nghĩ riêng ở trong lòng, có trời mới biết. Khung cảnh đầu tiên đập vào mắt họ khi lọt thỏm vào sâu bên trong băng động là cả một rừng kỳ hoa dị thảo, binh khí dị thường, tuyệt thế võ công được khắc đầy trên các bức tường bằng đá, chín mươi lăm bộ xương người trắng hếu nằm nghiêng. Nghiêm Long là người duy nhất dám lại gần chiếc quan tài làm từ băng gần ba trăm tuổi, bên trong là một người đang nằm ngủ yên lành có dung mạo y hệt chàng. Long thấy người kia giống mình như đúc, trong lòng ba phần sợ hãi, chậm rãi bước lùi, không nói năng chi. Chàng lại đi vòng quanh toàn bộ hang động lạnh lẽo, uống nước ở dưới ao dài không thấy đầu đuôi, ăn một vài loại quả có mùi vị thơm ngọt khác xa chốn hồng trần, sức mạnh tăng lên. Từ Phụng thử luyện theo các chiêu thức võ công bằng hình vẽ, chỉ thành vài ba chiêu, còn lại mấy trăm chiêu không tài nào học nổi. Liên Tịnh cầm lên thanh kiếm thiên tử, múa được chín đường, bị con lôi quy phun nước vào mặt mày, kinh hãi la lên: - Trời ơi! Con rùa này sao lớn như quả núi vậy? Hình như nó đang nổi giận! Mọi người phải hết sức cẩn thận mới được! Nghiêm Long chạy lại nhìn, con rùa cũng nhìn chàng, gật đầu ba cái, bò lại gần hơn, ánh mắt đong đầy cảm xúc như loài người không khác, ra dấu cho mọi người đi theo mình tới chỗ chiếc quan tài để cùng đào viên long huyết bảo châu từ lớp đất dày phía dưới, mang lên cho vào miệng của nam tử đang nằm yên giấc như người đã chết đi, để cho long mạch trường sinh, giải trừ tai nạn, cứu khổ muôn loài, định quốc an bang. Phụng Vũ đã không còn dằn lòng nổi nữa, hỏi tất cả mọi người xung quanh: - Rốt cuộc người nằm trong quan tài đó là ai, có liên hệ gì với ta và Long Tình Diễn? Có ai giải thích chuyện này thật rõ ràng cho ta biết được không? Ta có linh cảm nó là con trai ta! Nói xong thì long mẫu gào thét, như người bị mất đi người thân, đôi mắt tuôn trào huyết lệ, âm thanh của tiếng khóc làm thức tỉnh một phần linh thức của người nam nhi đó, hai tay chàng khẽ cử động, trên đỉnh đầu phóng ra luồng khí nóng màu đỏ, nước mắt tự nhiên chảy dài, ai cũng bâng khuâng. Hồ Thiên Khí không còn gì để im lặng lâu hơn, bình thản nói: - Hồi trinh phi nương nương, người đang nằm trong quan tài là Long Nghiêm, con của bà và đương kim thánh thượng. Phụng Vũ xúc động nghẹn ngào, chân run rẩy, toàn thân nặng trịch, hai mắt đỏ ngầu, không nói gì, quỵ xuống hôn mê. Từ Phụng cho bà uống thánh thủy ma ni, dần dà tỉnh lại, khuyên bà đừng nên quá vui mừng mà hại đến quả tim. Thử hỏi trong nhân gian có người làm mẹ nào mà không yêu thương con mình. Từ khi sinh ra long tử, bồng hài nhi trên tay chưa ấm hơi người, đã không còn thấy mặt, mấy mươi năm trời cách biệt, sớm đã bị bệnh tim. Phụng Vũ muốn nhỏ máu nhận thân, lấy từ trong áo của mình ra một cây kim nhỏ, tự đâm vào đầu ngón tay, nhỏ máu xuống chén nước để trên chiếc bàn gần đó, rồi nhờ Hồ Thiên Khí mở nắp quan tài, chạm mặt của hài nhi. Nhưng đâu dễ dàng như vậy. Hồ Điệp lặng lẽ đứng nhìn long tử đang ngủ say, cảm thấy phải làm gì đó, bèn vận nội công mà tung chưởng xuống lòng đất, chỉ thấy khói bay mịt mù, con rùa thần nghễnh cổ trêu ngươi. Liên Tịnh nói: - Long ca, trong thiên thư có đoạn nói là phải dùng máu của người sở hữu thanh long tuyền kiếm để khai quang, thì mới có thể lấy viên long huyết bảo châu ra khỏi lòng đất, mở nắp quan tài, giúp long tử hồi sinh. Nghiêm Long nghe xong, đưa ngón tay vào miệng, cắn một cái, máu đào nhỏ rơi xuống đất, một khung cảnh thiên thần bỗng chốc hiện ra. Tất cả như trở về ba mươi năm trước, thấy có một đứa bé mới ra đời còn đỏ hỏn, được một người đàn ông trẻ tuổi trông giống Hồ Thiên Khí mang vào băng động, đặt nằm ngay ngắn ở trong chiếc quan tài làm từ băng, xung quanh có vô số loài hoa đang đưa hương thơm ngào ngạt, ánh sáng lấp lánh như cầu vồng rực rỡ trong đêm, lại có một vầng trăng ở ngay trên đầu quan tài, tròn như giọt nước, các tinh linh đỏ xanh vàng trắng bay chầu về long tử để hộ thân. Cảnh tượng này diễn ra không đầy nửa khắc, sau đó khung cảnh trở lại bình thường. Chín giọt máu rồng của Nghiêm Long làm mặt đất ửng hồng, khói bay thấp thoáng, thanh long tuyền kiếm trong tay chàng rung mạnh bay lên hư không, trụ ở đó một hồi, phóng quang chói mắt, bay thẳng xuống lòng đất, tiếng nổ vang trời, để lộ ra bên ngoài viên long huyết thần châu. Từ Phụng nhanh tay lấy viên châu lên, đứng ngắm nhìn thật kỹ, như ngộ ra được điều gì, muốn cướp mang đi. Hồ Điệp đứng cản đường, rút kiếm ra khỏi vỏ, nói: - Tỉ muốn làm gì? Còn không đưa viên long châu cho Ứng Long để huynh ấy cứu người quan trọng! Từ Phụng nước mắt lưng tròng nói: - Người quan trọng không nhất định là con trai của Long thiên đế! Cái nào có ý nghĩa hơn thì ta sẽ chọn! Xin lỗi! Phụng Vũ kích động hét lớn: - Không! Ta muốn con ta sống lại, cả nhà đoàn viên! Ngọc Phụng cô nương, coi như ta cầu xin cô, hãy trả lại viên long châu cho ta, có được không? Ta xin cô! Ta xin cô mà! Hồ Thiên Khí đành nói hết tầm quan trọng của sự việc lần này cho tất cả mọi người cùng nghe: - Long Cảnh Võ chính là một nửa linh hồn của Nghiêm Long, nếu như không thể hồi sinh trong ngày hôm nay, ắt sau này long quốc sẽ bị hủy diệt, không tồn tại quá mười năm. Hai người này tuy hai mà một, tuy một mà hai. Nếu như không tin, thì hãy nhìn đi, vì đã cảm nhận được một nửa linh thức của mình đang ở gần đây, nên long tử mới từ từ mở mắt. Liên Tịnh quay người lại nhìn, thấy quả đúng như vậy. Từ Phụng không phải là người đơn giản, tuy có tình cảm trai gái sâu sắc với Nghiêm Long, nhưng đang phải chịu quá nhiều sự ràng buộc cả trong lẫn ngoài, nên cũng rất đau lòng, không ai hiểu cho cô. Phụng Vũ chạy tới giật lấy viên long châu trong tay Từ Phụng, bị đẩy ngã ra xa. Nghiêm Long hỏi Hồ Thiên Khí và Từ Phụng: - Hồ tiên sinh, tại sao người lại nói như vậy? Con không hiểu gì hết? Từ nãy đến giờ, hình như con đã bị điều khiển bởi một thứ năng lượng nào đó rất lạ kỳ từ sâu trong tâm thức. Cũng không biết vì sao hôm nay mình lại muốn đến đây, và còn tất cả mọi người, tại sao vậy? Ngọc Phụng, muội đã giấu ta những chuyện gì, chẳng lẽ chúng ta là hai người xa lạ, chưa từng quen biết hay sao? Muội nói đi, Ngọc Phụng! Hồ Thiên Khí nhìn thần sắc của Nghiêm Long năm phần suy sụp, lại nghĩ đến cơ trời ảo diệu xưa nay, nếu nói hết ra thì băng động này sẽ bị thiên hỏa rơi xuống đè bẹp, cả ngọn núi Long Phi này cũng sụp đổ thành sông, không còn dấu vết. Nhưng lẽ nào, cứ ngậm miệng cố gượng cười như yêu ma trá mị, làm cho ai nấy kinh hoàng, sợ hãi, lung lay. Ông nghiến răng kèn kẹt, hít thở thật mạnh, như để lấy hết dũng khí của một con người quân tử kiên trung, không màng sinh tử, nói: - Thật ra, từ đầu ta đã biết sẽ không thể nào yên vui như mong đợi. Cũng do số mạng an bày mà vận khí cũng đổi thay. Nay ta muốn cho thiên hạ tỏ tường câu nhân quả, nên đành tiết lộ thiên cơ. Nghiêm Long là thiên tử hạ phàm, số định làm vua một nước, nhưng nếu như không chia đôi thiên hạ cùng Long Cảnh Võ, thì sẽ phải chết trong lao tù khi tuổi mới ba mươi, cho nên phải hồi sinh cho long tử, hôm nay là ngày lành đại phúc, nhị thập bát tú ở trên trời sẽ giúp đỡ cả hai. Nếu như để vuột mất cơ hội này, e rằng phải đợi tới sáu trăm ba mươi sáu năm sau mới có thêm một ngày như vậy. Nghiêm Long tràn đầy tinh lực trở lại khi biết được chuyện này, nhưng chàng nào có muốn làm vua. Từ nhỏ đã yêu thiên nhiên, thích làm bạn cùng non xanh nước biếc, chỉ mong thế đạo quy hồi nơi tam giáo yên vui. Là thường dân cũng không có gì là không tốt, muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì cũng được, muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ. Phú quý vinh hoa là mộng ảo Vô thường nhanh đến cũng nhanh đi Nhân nghĩa cho tròn, vui tâm trí Tính toán, mong cầu, khổ mê ly. Từ Phụng cũng không muốn mình mãi mãi xa cách Nghiêm Long, nhẹ nhàng đặt viên long châu vào tay chàng, hai mắt long lanh dòng lệ chảy, môi thắm sắc hoa đào tươi rói mộng thành gia. Long đem viên long huyết bảo châu tới chỗ chiếc quan tài, đặt lên nắp đậy, nơi có đục sẵn một lỗ hình tròn, vừa khít với long châu. Không ngoài mong đợi, chỉ thấy ánh sáng ngập trời, bốn phương chấn động, trăm hoa đua nở dị thường, các loại quả chín nhanh, con rùa thần lôi quy vô cùng mừng rỡ, bò nhanh đến chỗ quan tài, nước mắt chảy như mưa. Ai ai cũng thành khẩn nguyyện cầu cho long tử tỉnh trọn cơn mê. Hai khắc sau, có rất nhiều người lạ mặt từ ngoài đi vào, trong đó có cả quan binh của long triều, do Thành Tinh dẫn đầu, Mã Trường Vọng, Trịnh Thu Thủy... tất cả mang binh khí trên người, đao kiếm nghinh ngang. Mã Trường Vọng là chưởng môn Khuynh dục phái, dùng chân đá bay một tảng đá lớn về phía chiếc quan tài, cố tình mạo phạm thiên uy, nói: - Có ta ở đây, các ngươi đừng hòng được toại nguyện! Trịnh Thu Thủy xông tới bóp lấy yết hầu của long mẫu Phụng Vũ, điên cuồng nói: - Người của phái Tình hoan bọn ta đã bao vây toàn bộ núi này, hôm nay cho dù đám người ô hợp các ngươi có mọc cánh cũng khó thoát! Đám người này hung hăng bá đạo, mặt mày tuy xinh đẹp, mà nghe qua lời nói chẳng khác yêu tà, rõ thật là tả đạo bàng môn. Nghiêm Long nhìn kỹ bọn chúng, tay nắm chặt thanh kiếm, định đánh dẹp lũ giặc này, nhưng Từ Phụng cản lại, lên tiếng hỏi: - Lũ súc sinh kia, nhìn dáng vẻ của các ngươi, chắc không phải là muốn tới đây để giết người lương thiện đó chứ? Thành Tinh cười giọng khô khàn, mắt to mắt nhỏ, nói: - Nói nhiều với những người sắp chết này để làm gì vô ích, giết hết cho ta! Rồi chúng cùng xông lên chém giết, dường như có ai đó đã dùng rất nhiều tiền để mua mạng của Nghiêm Long. Long là bậc cái thế anh hùng, nào sợ nào run, chỉ dùng năm phần nội lực, tung mấy chưởng thông thường, đánh một hai đường quyền, ra vài ba cước là đã dễ dàng đánh bại được bọn chúng. Có tên cung tiễn thủ từ xa bắn lén, trúng vào lưng của Hồ Điệp, máu chảy đỏ ao. Liên Tịnh lấy thân mình che cho long mẫu, dùng tầng thứ ba của liên hoa chưởng làm đá nổ tứ tung, khói bay mù mịt, che mắt đám người Thành Tinh, đem hoàng tử Long Cảnh Võ chạy trước. Tuy lúc ấy, ba hồn chín vía của hoàng tử vẫn chưa về hết, nhưng cũng đã mơ hồ nhận thức được năm phần những việc đang xảy ra xung quanh mình, tai nghe được một số âm thanh. Từ Phụng điểm huyệt để cầm máu cho Hồ Điệp, nhanh chóng đưa nàng rời khỏi băng động, ra bên ngoài tìm thảo dược trị thương. Long mẫu không muốn trở thành gánh nặng cho mọi người, tình nguyện ở lại, chết chung với đám người Thành Tinh, nói: - Ta là mẫu phi của long nhi, sẽ không vì ham sống mà chạy trốn. Trên người của ta có thuốc nổ, chỉ cần gặp lửa, là sẽ khiến cho nơi này trở thành bình địa ngay. Lũ người xấu xa kia, để ta đi xuống suối vàng cùng với các ngươi! Qua đây! Qua đây đi! Thành Tinh cả sợ nói: - Vi thần biết người là trinh phi nương nương, tuy dung mạo hiện giờ như thiếu nữ đôi mươi, mà tuổi thật đã nửa đời người, năm mươi năm chẵn, có phải đã ăn nhằm một vài loại quả kỳ lạ nào đó trên đỉnh núi Lang sơn hay không? Long mẫu khẽ gật đầu. Trịnh Thu Thủy nghe qua thì thích thú, dùng tay vuốt tóc, nở nụ cười ma mị, nói: - Trên đời này còn có loại quả này nữa hay sao, có thể giữ cho một bà lão vẫn trẻ đẹp dung nhan như vầy suốt ba mươi năm, ta cũng muốn ăn thử! Long mẫu giận dữ mắng: - Yêu nữ, ngươi sẽ không bao giờ có được phúc phận đó đâu!
Chương 004. Giang hồ hữu đạo Bấm để xem Nghiêm Long không muốn giết quá nhiều người, cũng như trong lòng chàng vẫn còn quá nhiều mối hồ nghi, vị long tử kia sao giống mình như khuôn đúc, số mệnh an bày, ý tại trời cao... nên nói với long mẫu: - Long mẫu! Chúng ta không cần phải nói nhiều với đám người mất đi nhân tính này! Rồi ông trời cũng sẽ trừng phạt bọn chúng mà thôi. Nói vừa xong, chàng bay lên hư không, dùng nội lực phi thường chưởng như trời gầm xuống mặt đất, làm cho đám người Thành Tinh say sẫm mặt mày, đưa long mẫu cùng Hồ Thiên Khí, Tập Hạ... tất cả mọi người nhanh chóng rời đi. Trịnh Thu Thủy vẫn không từ bỏ tham vọng trẻ mãi không già, định đuổi theo nhưng Mã Trường Vọng ra tay cản lại, nói: - Nếu như đã biết Nghiêm Long không phải người thường, muội đừng có khinh khi! Thành Tinh cười gượng với đám thuộc hạ công phu mèo quào đang lăn lộn dưới đất, than trời vì bị té quá đau, nói: - Các ngươi thật đúng là một lũ ăn hại mà!!! Con rùa thần Lôi quy mắt đỏ phừng phừng như lửa đốt, phun khói đen hôi thối bay bịt bùng, khiến cho lũ gian tà bỏ chạy hụt hơi. Một khi long mạch của ngọn núi đã bị chấn động đến sâu sắc như vậy rồi, thì ắt có chuyện không hay sau này theo đó sinh ra. Người dân và binh lính triều đình một phen nhìn thấy có vô số linh hồn ma quỷ hình dáng lạ thường từ nơi đỉnh núi Long Phi này bay tứ tán ra. Cả nhà của Tiểu Ngọc, cũng tức là bé gái trước đây đã lấy được sợi dây vàng thập điện thiên tình tuyến khi Nghiêm Long rút kiếm thần lên ở ngọn suối thanh long tuyền, cũng nhìn thấy cảnh tượng quái dị này, nên viết thư gửi cho Liễu Giới đại sư qua đường thủy. Tiểu Ngọc chẳng qua chỉ đi theo cha mẹ mình đến núi này chơi, gặp gỡ một vài người thân ruột thịt, cơ may tự có không ngờ, mới nói to lên: - Cha mẹ à! Đúng là trong cái rủi lại có cái may, con mới vừa nhặt được một món bảo bối. À, để coi, cái gì vậy nè... Phụ thân của bé gái có số phận kỳ lạ này tên là Phùng Quốc Văn, còn mẫu thân tên là Địch Lệ Triều Vũ, cả hai người đều là cao thủ từng có tiếng tăm lừng lẫy ở trên giang hồ, gác kiếm rửa tay. Phùng Quốc Văn nhìn con gái nói: - Tiểu Ngọc! Con nên nhớ Phùng gia chúng ta ba đời đều là võ lâm hảo hán, do gặp phải họa tày trời, mới phải trốn đi xa. Sau này con phải như ca ca của con, chăm mài luyện tập võ nghệ, ra sức bảo vệ cho dân lành, có biết hay chưa! Nói rồi, người cha hôn lên má của đứa con gái bé bỏng yêu kiều, trông thấy thật thương. Trong đám đông, có kẻ là gián điệp của Hoa triều, nghe xong chuyện này thì ngày đêm đi theo cả nhà của họ Phùng, ý niệm đa đoan, nhưng trước mắt còn giả bộ lạc đường, nhát gừng hỏi chuyện: - Vị đại ca này, cho ta hỏi trong tay của con gái huynh đang cầm thứ gì vậy, sao ta thấy nó giống như là ngọc tỉ truyền quốc vậy đó, có đúng không? À... mà ca ca chỉ đường giùm ta đi về Hoa quốc được không, ta bị lạc đã ba ngày rồi, bữa đói bữa no, thiệt là khổ quá! Làm ơn đi! Địch Lệ Triều Vũ nhìn ánh mắt của con người này không chân không thật, khóe miệng có nốt ruồi, cố ý hỏi to: - Xin cho hỏi huynh đài tên họ là gì, sống ở nơi nào của Hoa quốc? Người này mỉm cười, không muốn hở môi, lại giã lã: - Tại hạ chỉ là một bá tánh bình dân, làm ruộng ở quê nhà, không có thê nhi. Nói xong, liền làm mặt lạnh bỏ đi. Tiểu Ngọc hỏi phụ thân của mình: - Cha ơi! Con thấy thúc ấy chân bước nhẹ nhàng, lưng nhiều sức mạnh, hai tay rắn chắc hơn người bình thường, nhất định võ nghệ có thừa, sao phải giả dạng làm người làm ruộng vậy cha? Phùng Quốc Văn nói: - Con mới chừng này tuổi! Biết cái gì mà hỏi! Thứ mà con đang cầm trong tay chính là ngọc tỉ truyền quốc của Long triều. Khi nào chúng ta gặp lại Ứng Long thúc thúc của con thì tất nhiên phải đem thứ họa vật này trả lại cho người ta. Mẫu thân của Tiểu Ngọc nổi dậy tâm tà, nên nói với tướng công mình: - Tướng công, thiếp thấy đây chỉ là một món đồ chơi bình thường, nhìn kỹ thì cũng đâu có chỗ nào là đặc biệt, bất quá đem bán cho đại thẩm ở gần nhà mình, cũng đổi được vài ba cân gạo xấu mà thôi. Thẩm ấy có đứa con vô cùng nghịch ngợm, thích tò mò những thứ kỳ lạ như vầy, chàng nói có phải không? Phùng Quốc Văn biết nương tử mình vẫn mang dòng máu giang hồ nửa thánh nửa yêu, ba đời đã vậy, không cản không xong, cho nên mới nghiêm sắc mặt mà nói ngắn gọn: - Nương tử, nàng đừng tưởng khối hình vuông này chỉ nhẹ có bấy nhiêu thì sinh lòng khinh mạn, không nên đâu. Một khi thời cơ chín muồi thì Long quốc sẽ độc tôn, không còn đối thủ. Nói nhiều e rằng gặp họa diệt môn. Mau đi thôi! Mặt trời lên cao sáng chói, gió nhẹ mây hồng, cây cỏ thanh thanh. Phong cảnh khác thường xưa nay hiếm. Người ta còn nghe được rất nhiều thứ âm thanh ma quái lạ lùng, gào khóc ủ ê. Liên Tịnh đã qua bảy ngày truyền nội công cho Long Cảnh Võ, sức kiệt hơi tàn, bất giác hôn mê. Sở dĩ nàng phải làm vậy, là để đả thông hai mạch nhâm đốc ở trên người của hoàng tử, cũng như giúp cho sức khoẻ của mình mau nghịch hành, dễ luyện thuật phòng tinh. Như vậy là đôi bên cùng có lợi, âm chất dương phần đều mạnh mẽ siêu nhiên. Ngoài Liên Tịnh ra, vẫn còn có Liên Thanh, Liên Nghiêm và Liên Trang, bốn vị mỹ nhân này đều có tuyệt học trên người, khả đạt thiên thư. Nhưng ba người sư muội kia của Liên Tịnh hiện giờ vẫn còn trên núi tu hành, chưa muốn xuất quan. Cũng may là trong số những người hảo hán trên giang hồ, có kẻ thích lo chuyện bao đồng, cứu được nàng trong lúc đói khát ngây người, coi như là một sự vô tâm, mà chính do sự vô tâm này, ba năm sau trong võ lâm mới có một trận chiến không ngờ, kết cục cũng vô tâm. Hảo hán ấy tên là Vi Tình, cho Liên Tịnh ăn một viên thuốc hình tròn, vị chát, to bằng đầu đũa. Đợi chừng nửa khắc, khi thấy người nữ kia hai mắt đã đảo lộn trong tròng, môi tươi trở lại, chàng mới cưỡi ngựa đi về Liên quốc xa xôi. Liên Tịnh cũng không thể ngờ là mình suýt chết đi rồi vì quá chủ quan. Nàng cứ lẩm bẩm trong đầu có một điều: - Rõ ràng là mình đã nghe theo lời của sư phụ, không làm thiếu một việc nào, sao lại như vậy được? Và cũng không một người nào lý giải được nguyên nhân của chuyện này, cho đến ba năm sau. Cũng từ đó trở đi, dung nhan của Liên Hoa chưởng môn nhân ngày càng xinh đẹp như thiên thần, nội lực siêu quần, võ nghệ tuyệt luân. Buổi tối, long tử đã ngồi dậy, ăn uống như thường, nói chuyện vui tươi. Chỉ có một điều đáng lo là trí nhớ có chút chi đó mơ hồ, hay nghe thấy những tiếng động xa tận chân trời, hai mắt có lôi quang. Long Cảnh Võ ngồi nhìn ân nhân đã giúp mình sống lại sau hơn hai mươi năm dài ngủ như chết trong quan tài mà khóc lớn như đứa trẻ lên mười, cảm động ngâm thơ: - Long tử khai thiên nhãn Phi tình hóa tiên đan Cảnh thiên nhiên thường quán Võ thần tiết đinh san. Liên Tịnh nghe thơ thì không hiểu ý của long tử muốn nói gì, chỉ làm bộ gật đầu, cười nụ mà thôi. Long Cảnh Võ quỳ xuống lạy liền ba lạy, nước mắt đầm đìa, nói: - Đồ nhi đa tạ sư phụ!!! Xin người nhận con làm đệ tử, có được không? Là người đã truyền nội lực tu hành sang người con, ân tình này mãi xin ghi tạc! Hai người nhìn nhau không rời mắt, trong tâm thức đơn thuần, hàm chứa ý thiêng liêng. Liên Hoa phái chỉ thu nhận nữ môn đồ, làm gì có chuyện nhận nam. Nhưng trước sự chân thành đến lạ lùng của long tử, khiến cho trời đất như quay cuồng, non nước cũng đảo điên. Liên Tịnh dù gì thì cũng chỉ là thân nhi nữ, chân yếu tay mềm, cảm nhận đơn sơ, đành gật đầu chấp nhận yêu cầu này của Long Cảnh Võ, nhưng không nói một câu, chỉ chắp hai tay lại xá chào nam đồ đệ đầu tiên này của mình, lấy từ trong tay áo ra một cuốn thương phổ tâm truyền, chỉ dạy võ công. Vì sao gọi là thương phổ tâm truyền? Do trong quyển bí kíp này, không có một chữ nào rõ ràng, hình vẽ cũng như vậy, chỉ có những người nào thiên tính thanh thuần, ngộ tính cực cao, không ngại chết vì chúng sinh thiên hạ thì mới có thể luyện thành công phu tuyệt đỉnh. Còn bằng không, tẩu hỏa nhập ma cũng là chuyện bình thường, thậm chí đứt hết kinh mạch trong người, chết rất khó coi. Nữ sư phụ đưa cho đồ nhi của mình một cây rìu, bảo rằng hãy tập cầm cây rìu này liên tục ba đêm, không ngồi không ngủ, mà phải đi liên tục hoặc đứng dưới gốc cây bồ đề được trồng ở bên trái lối ra vào Liên hoa động. Dưới ánh trăng đêm rằm, sáng lạn như trái tim người quân tử kiên cường, gió mát điểm tô, dường như tất cả thế gian đang chìm vào mộng ảo, không có lo buồn, ra khỏi khen chê. Mặc cho miệng lưỡi người đời ưa thay đổi, chỉ cần trong trái tim mình chân chất hiền hòa, sẽ ngộ được kỳ duyên. Vào năm Liên Tịnh mười tuổi, hay bị người đời nhục mạ khinh khi, có lần còn bị đuổi đánh đến suýt chết, vì lỡ ăn cắp hai cái màn thầu cứu đói trẻ ăn xin. Phụ mẫu không còn, con thơ tủi phận, lang thang đầu đường xó chợ, đâu biết ngày mai. Cũng chính vì như vậy, mà nàng mới phát thệ tu hành, cứu thế độ nhân. Nay, nếu như không vì xót thương cho Long Cảnh Võ trong hoàn cảnh lang thang phiêu bạt không nhà, nàng chắc đã đi du hóa ngũ hồ tứ hải cho xong. Cũng là làm lợi ích cho người đời, nhưng phương tiện thì có thể thay đổi tùy thời, theo tâm người ứng hiện hành vi. Nàng khắc lên tảng đá hình chữ nhật dài trong hang động một bài thơ: - Liên hoa thanh tịnh pháp Tịnh thần, thủ chân nguyên Hoa khai, hiền thánh nguyện Hương hàm, nội tình duyên. Long Cảnh Võ cũng không hiểu được ngụ ý trong những câu thơ này, hoàn toàn ngơ ngác, nhìn theo từng cánh quạ đen bay trên bầu trời, suy nghĩ miên man. Nửa tháng trôi qua, mà Nghiêm Long vẫn chưa có một chút tin tức gì của Từ Phụng, không biết nàng hiện đang sống ở nơi đâu, và Hồ Điệp có qua khỏi lằn ranh sinh tử hay không? Hồ Thiên Khí chỉ để lại ba túi cẩm nang cho chàng, một mình đưa long mẫu Quan Phụng Vũ trở về kinh thành, diện kiến Long thiên đế, đòi lại công bằng cho hai mẫu tử phân ly. Ông cũng không biết hoàng tử Long Cảnh Võ bây giờ đói khổ ra sao, càng ngậm ngùi than thân trách phận. Nhưng long mẫu từ lâu đã nguội lạnh tấm chân tình với Long thiên đế dâm loàn, không biết thương dân, nên nói với chính mình ở trong gương: - Liên Huyền Nữ ơi Liên Huyền Nữ! Ta không biết ngươi là ai? Vì sao ngươi lại được sanh ra trên cõi đời này vậy? Có chăng là một giấc mộng hoang đường của lứa tuổi đôi mươi. Hoa xuân nở có muộn màng nơi triền núi, và trong trăng khuyết tìm người, ánh mắt đã phôi phai? Ngồi cả nửa canh giờ hụt hẫn trước gương, có gì đang mong đợi? Không phải chút phong tình, không phải tiếng phu thê! Long thiên đế không nhớ bà là ai, nghe qua tên họ cũng làm ngơ như kẻ lạ, cũng không muốn thượng triều, phê duyệt tấu chương. Suốt ngày chỉ biết quây quần với Phí Nguyệt, sủng hạnh người tà, rời xa trung thần nghĩa sĩ, xuống chỉ cho Hồ Thiên Khí khôi phục lại chức quan, nhưng tuyệt nhiên không cho long mẫu vào triều, chỉ cho phép bà sinh sống một mình trong căn nhà nhỏ ở không xa kinh thành Hoa Trị, mất khoảng nửa ngày đi đường, cơm nước tự lo. Có một buổi chiều long mẫu ra ngồi cạnh bờ sông, hai hàng nước mắt cứ chảy dài như con nít té đau, hận mình bạc phận, sống qua nửa đời người, cũng chẳng mấy ngày vui vẻ như ai. Bà bắt cá ở con suối gần đó, định nướng lên ăn, chợt nghe phía sau lưng có giọng cười quen thuộc, câu nói chân tình, như đã tương tri: - Huyền Nữ! Muội còn nhớ ta là người nào không? Quay lưng lại mà nhìn thẳng mặt của ta, xem ai vừa mới đến! Long mẫu quay người lại nhìn, rõ thật là con người phi thường họ Lý tên Long. Nhưng do vẫn ôm khối hận tình ba mươi năm dai dẳng, không muốn nghe người này gọi tên thật của mình, nên đứng dậy bỏ đi. Lý Long đi theo, môi cười như thấy ngọc, mây trắng ở trên trời bay lãng đãng về tây. Cho dù Lý Long có gọi long mẫu bao nhiêu lần, bà vẫn im thinh, cứ cúi đầu mà đi thẳng, vô tình vấp chân vào tảng đá lớn ở bên đường, té ngã kêu đau. Lý Long nhanh chân chạy lại gần, đỡ lấy cố nhân, ánh mắt hai người nhìn nhau có khác chi là trăng thanh chờ gió mát, xúc động mười phần, nhớ lại chuyện xưa. Long mẫu cũng không tự dằn nổi lòng mình, nói một lời như muôn ngàn mũi nhọn kim châm: - Ta là Quan Phụng Vũ, cho dù chàng là ai, thì bây giờ điều đó đối với ta đã không còn quan trọng nữa rồi, vì ta đã có con! Xin chàng hãy xem ta như là người xa lạ, có được không? Lý Long tuổi ngoại ngũ tuần, dung nhan chẳng đổi, cũng trẻ mãi không già như lứa tuổi đôi mươi. Nhưng không phải do ăn nhầm thánh quả dị thường trên núi Lang sơn, mà là do luyện thành bí pháp hồi dương, trong muôn người chỉ được một mà thôi. Ông nhìn người đàn bà mà mình ngày đêm mong nhớ, trải qua gian khổ nhọc nhằn, cảm động khóc than: - Huynh biết muội không bao giờ tha thứ cho huynh! Nhưng số phận đã an bài, tương lai còn gì đáng nói, chỉ mong kiếp sống trọn lành, có đạo là xong! Lúc đó, có tiếng binh khí đánh nhau ở xa đang tiến lại gần, cả hai người đưa mắt cùng nhìn, thấy có một người trông giống với Nghiêm Long, nhưng binh khí ở trong tay là chùy, không phải thanh long tuyền kiếm mà Nghiêm Long thường hay dùng, nên long mẫu đoán chắc rằng người ấy là Long Cảnh Võ, con trai mình, liền chạy tới để nhìn nhau. Cũng may là Từ Phụng và Nghiêm Long đã bảo vệ họ bình an, tránh khỏi từng đường tên có độc, ám khí phi tiêu. Từ Phụng lấy thân mình che cho long mẫu, ôm lấy đứa trẻ vừa mới ra đời, còn đỏ hỏn trên tay, nói: - Trinh phi nương nương, người mau chạy trước đi, bằng không thì khó giữ mạng của mình mà nhìn nhận long tử! Mau lên! Người đừng nghĩ ngợi nhiều nữa. Sau này, khi có thời gian rồi thì ta sẽ nói rõ chuyện này cho người nghe! Lý Long tuy là cao thủ trên giang hồ, nhưng vì muốn bảo vệ cho người mình yêu, nên không thèm so tài cao thấp với bọn người thích khách đằng xa, dùng khinh công siêu xuất như thần, cõng theo Liên Huyền Nữ trên lưng của mình, thong thả bay đi về phía Long thành, ở ẩn tu tiên. Kẻ cầm đầu của bọn người xấu kia chính là Mã Trường Vọng, làm theo ý của Châu Thần, Long Khí, Thành Tinh. Vì yêu phi Phí Nguyệt không muốn mình bị thất sủng, nên mới sai ba tên gian thần này ám sát Trinh phi, máu ghen đã sai sử dâm nữ làm việc tày trời, thật khó dung tha. Mã Trường Vọng lần trước không bị Nghiêm Long giết trong băng động ở núi Long Phi, vẫn ngông cuồng tự đắc, muốn có được thật nhiều tiền để mưu tính chuyện võ lâm, xưng bá xưng hùng, si tâm vọng tưởng, hắn điên cuồng la hét: - Nghiêm Long! Hôm nay là ngày chết của ngươi! Ta quyết không tha cho ngươi vì nỗi nhục ba đời của hai nhà Mã - Trịnh bọn ta! Trịnh Thu Thủy cũng chém giết điên cuồng binh lính của hoàng tử Long triều Long Cảnh Võ chẳng ngưng, mặt dính đầy máu tươi, sát khí đằng đằng, nói: - Nghiêm Long, Từ Phụng, tổ tiên hai họ Nghiêm - Từ của các ngươi đã hại chết không ít người thân thuộc của ta! Ta chịu khổ sống đến ngày hôm nay cũng chỉ là đợi cơ hội này mà thôi! Giết cho ta! Giết chết bọn chúng! Giết!!! Nghiêm Long và Từ Phụng đều không hiểu là bọn chúng đang nói chuyện gì, bốn mắt nhìn nhau, trong lòng tự nhiên dâng lên vô số nỗi nghi ngờ về thân phận thật sự của mình. Nghiêm Long mặt đỏ như người say rượu suốt ba ngày, hỏi vặn lại đám người xấu xa kia: - Phụ mẫu ta đều là người hiền lành, cả đời chưa từng làm ra bất cứ chuyện gì có lỗi với ai, sao các ngươi lại nói như vậy? Như ta thấy các ngươi chém giết điên cuồng, thật không phải lẽ! Tại sao chỉ vì lợi ích mà giết người, có biết tội gì không? Trịnh Thu Thủy càng sôi máu căm thù, xông lên chém giết. Mã Trường Vọng phi thân tới, muốn bắt lấy đứa nhỏ trên người của Từ Phụng, lần này không như lần trước, hắn đã mặc áo giáp thiên tằm băng hộ thể, không sợ đao kiếm chém qua người, thủy hỏa cũng không ăn nhập được gì, quyết liều chết trả thù, đáng sợ lắm thay! Long Cảnh Võ được lòng dân chúng, biết trước được chuyện hành thích sẽ xảy ra nơi này, nhưng đến muộn một canh giờ, nên chưa kịp gặp mặt mẹ mình, lại phải chia xa, trong lòng lại thêm căm phẫn trước hành vi lạm sát nhiều người vô tội của Mã Trường Vọng, muốn phân thây chặt đầu những kẻ tâm tà, trừ hại cho dân, hướng về phía Nghiêm Long mà nói lớn: - Ứng Long! Hãy đưa Ngọc Phụng đi trước! Ta đủ sức để đánh bại đám người này. Huynh không cần phải lo cho ta. Để ta tự tay mình băm chặt lũ súc sinh này ra làm muôn mảnh! Nói xong, liền vận dụng thần công và thuật độn thổ, biến hóa khôn lường, chỉ trong nháy mắt mà kẻ địch đã chết năm mươi người, dân chúng hò reo. Không ngờ lúc này người của hai tà phái Tích Độc và Bào Yên từ xa chạy tới, trợ sức cho Mã Trường Vọng cướp của, giết người... tàn hại sinh linh. Chúng nói: - Nghiêm Long, khôn hồn thì khoanh tay chịu trói, thì bọn ta sẽ tha cho các người, còn bằng không, giết sạch sẽ không còn một người nào! Giết! Tình Hỉ công chúa cũng sớm tiên đoán được chuyện này, tự ý xuất cung, dẫn theo rất nhiều thuộc hạ tùy tùng, võ lâm hào kiệt, ung dung bước ra từ trong ngôi miếu thần cũ kỹ gần đó, tay trái nắm kim bài, tay phải giữ thiên thư, nói: - Ta là tam công chúa của Long triều. Bọn ác nhân này, các ngươi không được làm bậy! Thiên thư đã nói rõ cách trừ khử những công phu bàng môn tà đạo của các ngươi, không tin thì cứ qua đây! Long Cảnh Võ biết đây là hoàng cô của mình, cúi đầu thi lễ rồi nói: - Hoàng cô! Đa tạ người đã ra tay tương trợ, con thấy yên tâm hơn nhiều rồi! Để đánh xong bọn ác tặc này, chúng ta sẽ nói chuyện cùng nhau. Nghiêm Long và Từ Phụng không muốn rời đi, vì sợ rằng Long Cảnh Võ sẽ không phải là đối thủ của bọn người Mã Trường Vọng, nhưng khổ nỗi bé gái sơ sinh ở trên người Từ Phụng cứ đòi bú sữa mẹ, khóc to, họ đành cắn răng nghiến lợi mà chưa biết phải làm gì tiếp theo. Long Cảnh Võ dằn lòng hiếu kỳ không được, hỏi: - Ngọc Phụng! Bé gái vừa chào đời kia là con cái nhà nào, mà sao từ nãy tới giờ ta thấy tỉ cứ ôm nó trên ngực của mình hoài, nó có đói thì nên nhanh chóng cho uống sữa, không thì mất mạng cho xem! Từ Phụng không muốn giải thích nhiều vào lúc này, ánh mắt như cười, huýt sáo thật to. Nghe tiếng huýt sáo thì có một con ngựa cao lớn phi thường từ đâu phi tới, toàn thân trắng muốt như mây trời, hai mắt tinh anh, đứng dưới gốc cây, từ từ nhai cỏ. Tình Hỉ lên tiếng hỏi: - Đây là giống ngựa gì? Không đợi cho ai kịp trả lời, đám người của Mã Trường Vọng cùng nhau xông lên, chỉ đòi chặt đầu của Nghiêm Long và Từ Phụng cho bằng được, khí hận ngập trời, không thèm nói rõ nguyên nhân. Tình Hỉ xót thương cho bé gái mới vừa ra đời, mà đã phải đối mặt với hiểm nguy trùng trùng, nhỏ lệ sụt sùi, nâng kiếm trên tay, nói: - Đứa trẻ này thật là số khổ, thôi thì để ta đặt cho nó một cái tên là Tình Xuân, để sau này khi nó lớn lên, luôn được vui vẻ yêu đời, không khổ không lo! Trong số các vị hảo hán anh hùng đi cùng Tình Hỉ, có một người tên là Phí Nhật, vốn là ca ca ruột của yêu phi Phí Nguyệt, vì muốn bù đắp phần nào tội lỗi cho bào muội của mình, nên khẳng khái tạ tội với ông trời, nâng kiếm ngang mi, nói với giọng thâm trầm: - Ông trời ơi! Muội muội ta là đệ nhất yêu cơ đương thời, chỉ vì tham muốn vinh hoa mà đã trót gây ra biết bao điều tội ác! Được, vậy thì để ta dùng thanh quang minh thần kiếm này để khai sáng điểm linh căn, cho đời theo mối đạo lâu bền, vĩnh kiếp thường an! Nói rồi, nước mắt tuôn trào như dòng suối nóng thiên nhiên, tự mình bay vào giữa đám quân thù, thi triển ba mươi sáu đường phép thần biến, chiêu thức siêu cường, nhân ảnh như phong, chỉ trong vòng ba mươi chiêu là đã giết gần hết đám người mất đi nhân tính, ai nấy ngây người chiêm ngưỡng hào quang. Mã Trường Vọng không muốn cũng phải tin, thốt lên rằng: - Từ lâu đã nghe đại danh của quang minh thần kiếm này rồi, quả thực không thể coi thường, kẻ hèn này xin cam bái hạ phong! Bọn giặc chỉ còn le que vài va mươi người, nhanh chân bỏ chạy, để quên cả vòng vàng, trang sức, kim ngân... Nghiêm Long cùng tất cả mọi người vô cùng chấn động tâm tư, sắc mặt vui tươi phấn khởi như cỏ cây trong mùa nắng hạn gặp được cơn mưa rào, thưa hỏi chuyện thành tâm: - Tiên sinh! Người là bậc cái thế anh hùng, tuyệt đỉnh võ công. Đám người vừa rồi võ nghệ cũng không phải là tầm thường, tất cả chúng tôi cùng nhau liên thủ lại cũng chưa chắc gì đánh bại được bọn chúng. So với trước đây thì Mã Trường Vọng đã lợi hại và tàn độc hơn rất nhiều, chiêu thức yêu tà, hành động quỷ ma. Sao người có thể đánh cho bọn chúng không còn manh giáp, chạy như chó mất chủ không nhà, thật đúng là hiếm có xưa nay. Xin cho hỏi sư phụ của người là ai? Phí Nhật chỉ nở nhẹ nụ cười lâng lâng thoát tục, hai tay nâng kiếm ngang mày, thi lễ với thanh thiên, không muốn nói thêm một lời nào, lặng lẽ rời đi. Bầu trời thêm cao thêm mới, cũng như trong linh tánh của mỗi con người, tha thiết niệm hoàn chân. Từng ngọn cỏ nhành cây đung đưa trong gió la đà, tiếng của đất trời ai nghe thấy xưa nay? Đứa trẻ òa lên khóc, các vị anh hùng ai nấy mỉm cười, nghe như nỗi niềm mong mỏi muôn đời của chúng sinh thiên hạ dưới mặt đất này, muôn kiếp vẫn không phai. Long Cảnh Võ đi về phương nam, ngồi trên con ngựa trắng cao lớn dị phàm, quay lưng lại nhìn Từ Phụng một hồi, hai mắt đỏ châu sa. Tình Hỉ không về hoàng cung, đi ra bờ sông, bước lên con thuyền nho nhỏ xinh xinh, hướng về Hoa quốc, thong thả tay chèo trong con nắng hoàng hôn dần tắt lịm. Nghiêm Long nhìn Từ Phụng và đứa trẻ sơ sinh, trong lòng bất giác dâng lên một ước nguyện phi thường, không theo lối vinh hoa, chỉ cần ta có đạo, cho non nước muôn đời mãi đẹp như tranh. Trông thấy xác người nằm ngổn ngang trên mặt đất, ai nấy rất đau lòng, nhỏ lệ xót thương. Có vị tiền bối tên là Âm Dương Kính, thấy thế đạo ngày một gian tà, những người đang nằm dưới đất kia chẳng qua chỉ vì tiền, vì lợi, vì danh... mà chết đi vô cùng nhục nhã, việc thiện không làm, việc ác lại theo, kiếp người coi như trôi qua vô ích, chẳng biết tu thân thì bị muôn đời phỉ nhổ, trong lòng buồn rười rượi mà nói với Nghiêm Long: - Nghiêm thiếu hiệp, ta sống ở đời trên năm muơi năm, có hạng người nào mà ta chưa từng gặp qua, có khó khăn nào mà ta chưa từng nếm trải. Ai cũng nói thiếu hiệp mang thiên mệnh trên người, kiếp số đa đoan, nên phải ráng giữ mình, đừng đi vào tà đạo, bằng không thì ... Lại có người nữ đứng cạnh tên là Lưu Lệ, tuổi trẻ khôi hài, muốn thay đổi bấu không khí tang thương này, nên nói: - Tiểu nữ thấy thiên hạ hiện giờ chia nhau ra đánh như thời Tam Quốc, như vậy cũng vui. Sớm muộn gì thì ba nước Long-Hoa-Liên cũng tạo thành thế chân vạc như thời Gia Cát Lượng, rồi còn có cả Lưu Bị, Tôn Quyền và Tào Tháo. Nghiêm Long ca ca anh minh thần võ như vậy, lại tuấn tú phi phàm, có hiếu có trung, nhất định phải là kiếp sau của Lưu hoàng thúc, sau này sẽ làm chủ Long triều, tạo phúc muôn dân, mọi người thấy có phải không? Người ca ca của thiếu nữ là Lưu Thanh, tự Hán Kiệt nghe xong, liền lấy tay gõ đầu muội muội của mình, nhưng do đang gấp rút chuẩn bị làm gì, nên không muốn đứng lâu thêm, kéo tay bào muội rời đi và nói vọng lại: - Tại hạ là chưởng môn của phái Thanh Lưu, nghe nói gần đây ở trên giang hồ đang có một trận mưa máu gió tanh, xin mọi người bảo trọng. Nếu như có duyên, sau này nhất định gặp lại nhau. Những người còn lại cũng đều không giấu được nét mặt lo buồn cho thế cục võ lâm, nói với Từ Phụng: - Từ Trinh, nàng là thánh nữ hạ phàm cứu đời, thuộc dòng dõi thiêng liêng, rất gần với Quan Vân Trường thời Tam Quốc, vì trong thiên thư đã có nói như vậy. Mong nàng từ nay phải lo tu dưỡng tâm lành, dốc sức trừ gian, thì hậu thế muôn đời sẽ không bao giờ quên được ân đức sâu dầy của một giai nhân, có được không!!! Nói xong, hai mươi sáu vị nam nữ anh hùng cảm động rời đi. Nhìn theo bóng lưng của họ, Từ Phụng tin rằng mình được sinh ra trên cõi đời này, nhất định có nhân duyên muôn người khó gặp. Nghiêm Long và Từ Phụng nhẹ bước lên đường trong tiếng khóc như cười của hài nữ Tình Xuân, nhưng mới đi được chừng hơn trăm bước thì lại nghe thấy tiếng của mấy trăm người hỗn chiến với nhau, không gian như càng quánh đặc, màn đêm u tối đã buông xuống tự khi nào, chẳng lẽ lại phải giết kẻ xấu xa hung tàn, máu nhuộm đỏ hai tay. Phí Nguyệt từ trên cây cao bay xuống, mang theo oán khí ngập tràn trong đôi mắt long lanh, nói: - Các ngươi nghĩ là mình có thể bình an mà sống tới sáng ngày mai sao? Đừng vọng tưởng nữa! Chịu chết đi! Ả không ngừng tung ra những chiêu thức tàn độc muốn lấy mạng người, võ nghệ cũng không phải hạng tầm thường, đánh vào bé gái Tình Xuân. Sau lưng Phí Nguyệt còn có rất nhiều quan binh, cao thủ giang hồ, thậm chí là lục lâm thảo khấu... số đông hơn năm trăm người, binh khí lăm le, chuẩn bị lấy đông hiếp yếu, chặt đầu của Nghiêm Long. Phí Nguyệt không muốn nói rõ lý do tại sao mà mình ôm lòng thù hận cho Nghiêm Long nghe, chỉ muốn giết chết chàng, hô lớn: - Tất cả thuộc hạ thân tín, mau lấy đầu của cặp đôi Long-Phụng này ngay cho bổn cung! Hai bên đánh nhau như mãnh hổ địch quần hồ, không phân thắng bại, đã qua gần ba khắc, bé gái khóc đòi bú sữa oa oa, Từ Phụng không mệt, nhưng chẳng biết đi nơi nào để tìm ra dòng sữa nóng cho đứa trẻ sơ sinh này nữa. Nhất định là bé gái cũng là người phi thường mới còn đủ sức khóc lớn, vì đã nhịn đói suốt mấy ngày rồi mà chưa chết, da dẻ lại hồng hào, xương thịt thơm tho, hai mắt to tròn, môi hồng như sen nở. Từ Phụng đang bị cuốn trôi theo dòng suy nghĩ khi ngắm nhìn tiểu hài nữ dễ thương, không né kịp trăm luồng tên bắn từ xa, rách đi một phần tay áo. Nghiêm Long không muốn đứa trẻ chưa rõ lai lịch và người con gái mình yêu phải chết thảm nơi này, muốn vận dụng hết nội lực trong người tung chưởng quang minh, nhưng chưa kịp làm gì thì quý nhân xuất hiện. Liễu Giới đại sư đã tới cùng Ngộ Trực tiểu tăng, còn có cả Võ Trường Đạo là chưởng môn phái Võ Đan, Khuất Bang tiền bối và hơn một trăm người anh hùng võ nghệ tuyệt luân, mang trong lòng hoài bão trị thế cứu đời, xứng gọi chân nhân. Liễu Giới đại sư nhìn Nghiêm Long hồi lâu, nói: - Ứng Long, đã có ta ở đây, con cùng Ngọc Phụng hãy mau đi trước. Tuyệt đối không được để cho đứa trẻ kia gặp phải bất kỳ sự nguy hiểm nào, hứa với ta! Ngài lại quay sang nhìn Phí Nguyệt với ánh mắt nhân từ, tha thứ, cảm thông, nói: - Nguyệt phi nương nương! Người nên buông bỏ hận thù, tu đạo là hơn, vì người vốn có duyên với Phật! Phí Nguyệt cả giận, hai mắt đỏ ngầu, tay nắm chặt trường thương, nói: - Liễu Giới! Ông không cần lo cho bổn cung! Người nào ngăn cản ta trả thù, thì đều ngũ mã phân thây, không cần phải hỏi! Võ Trường Đạo được người đời xưng tụng là tuyệt hiếu chân nhân, đứng trước cảnh ngộ này, trong lòng xót xa biết mấy, thương cho Phí Nguyệt từng đi theo mình từ nhỏ, học nghệ tinh thường, tuyệt sắc giai nhân, nay chỉ vì bị kẻ gian lợi dụng, không phân rõ chánh tà, muốn giết hại sinh linh, lẽ nào chỉ trơ mắt đứng nhìn, khoanh tay bó gối, như vậy tức là dung túng cho phản đồ của Đạo gia, đất trời không tha thứ nổi, nên dùng lời lẽ ngọt ngào an ủi, khuyên can: - Nguyệt nhi! Con đã quên sư phụ rồi hay sao? Ta không khi nào không nhớ tới con! Là năm đó sư phụ trong lúc vô tình, đã gián tiếp hại chết cha mẹ con, vi sư là người có lỗi. Bây giờ, để ta làm tất cả những gì trong khả năng, để bù đắp nỗi lòng đau đớn khi mất đi người thân của con, con có đồng ý không? Chỉ cần con chịu dừng tay, quay về nẻo thiện, vi sư chấp nhận để cho con chặt lấy thủ cấp của mình để rửa sạch mối oan khiên, có được không? Phí Nguyệt nghe xong, cười lớn ba lần, ngọn lửa căm thù càng cháy rực trong tim, có chút xoa dịu phần nào, nhưng ý định giết hết tất cả loài người thì không bao giờ có thể lung lay, nói: - Sư phụ? Ông không phải!!! Ta không còn tin tưởng vào bất cứ một điều gì trên thế gian. Khôn hồn thì lão đạo sĩ quèn như ông mau tránh ra cho xa một chút, bằng không tai bay vạ gió, ta không cứu được ông đâu! Ha ... ha ... ha! Biết là không gì lớn hơn nỗi đau bị mất đi người thân, nhất là cha mẹ. Nhưng chỉ vì cái chết của hai người, mà muốn giết hết tất cả người trong thiên hạ, nhân quả gánh sao đây? Suy nghĩ này của Phí Nguyệt khiến cho trong đám tùy tùng đi theo, cũng có kẻ nổi hết da gà, sợ hãi khuyên lơn: - Nguyệt phi nương nương! Ai làm thì người đó chịu! Sao có thể đồ sát một cách vô tình, không xứng mặt anh hùng, ta không muốn tham gia! Trương Sĩ Thành và Từ Thọ Uy cũng đồng thanh nói: - Việc năm xưa đến giờ vẫn chưa tìm ra được tên hung thủ thật sự. Biết đâu chúng ta giết nhằm người, thiên lý khó dung! Nương nương à, hay là tha cho Nghiêm Long và Từ Phụng, chúng tôi nghĩ là họ không biết gì đâu. Thật mà! Bên phía Liễu Giới đại sư, Hàn Lâm Nhi và Quách Tử Hưng cũng biết được một nửa sự thật trong câu chuyện cả nhà Phí Nguyệt bị giết oan vào mười ba năm trước, không muốn Nghiêm Long và Từ Phụng bị giết một cách quá dễ dàng, vì họ còn mưu tính chuyện giang sơn, cân nhắc cả buổi trời, sau cùng quyết định nói đỡ lời giùm cho hai họ Nghiêm-Từ, lập chút công lao: - Giang hồ có đạo của giang hồ, võ lâm có đức của võ lâm. Nguyệt phi! Xin người đừng mù quáng nữa. Tính mạng của Nghiêm Long thiếu hiệp và Từ Phụng cô nương có liên quan mật thiết với sự tồn vong của ba mươi sáu nước chư hầu, chưa bao gồm lục tặc. Chúng ta cũng biết được phụ mẫu của hai người bọn họ không hề nhúng tay vào chuyện làm cỏ dân Minh thành, thâu tóm Kinh châu vào mười ba năm về trước, liên lụy đến mười ba mạng người Phí gia, trong đó có cha mẹ của Nguyệt phi nương nương. Xin người hãy tin chúng tôi, vì đây là sự thật! Khuất Bang lấy từ trong người ra một bức thư, nhờ Liễu Giới đại sư đọc lên ở trước mặt tất cả mọi người trong Thiên Thai cốc, trong thư ghi: - Nguyệt nhi! Khi con nghe được lời của ta và mẫu thân con trong lá thư này thì đã muộn màng rồi. Quân giặc đã sắp đến nơi, cả nhà của chúng ta đều cam lòng chịu chết, không chút oán hờn, không tiếng phân minh. Cho dù sau này con muốn làm gì thì cũng phải quang minh, đường đường chính chính, không nên có ý niệm trả thù, hãy tha thứ cho nhau. Vì ở trên cõi đời này, không ai là chưa từng mắc lỗi, ai cũng là người có đúng có sai, như vậy mới là con người sanh ra trong thiên địa. Nguyệt nhi! Hãy buông cây thương con đang cầm trong tay xuống, cả cuộc đời này, phải thương xót lê dân, vỗ về trăm họ, đi theo Nghiêm Long và Từ Phụng, định quốc an bang. Dòng máu đang chảy trong người của con là dòng máu yêu thần, nửa đục nửa trong, nửa phàm nửa thánh, nếu như biết tu dưỡng thì thành Phật thành thần, vĩnh kiếp lưu hương, còn bằng không thì phải vào địa ngục vô gián để chịu khổ, con có muốn hay không? Rồi sau này tự nhiên con sẽ biết vì sao mình lại được sinh ra trên cõi đời này. Hãy ráng tu tâm! Phí Nguyệt nghe hòa thượng Liễu Giới đọc xong, trong lòng tỉnh ngộ, nước mắt lưng tròng, đau đớn tim gan, nói: - Nếu như đây thực sự là bút tích của phụ mẫu ta, thì ta không còn gì để nói nữa! Nhưng các người tuyệt đối không được gạt ta thêm một lần nào nữa hết! Có ai dám chắc rằng trong cả cuộc đời mình, chưa bao giờ làm sai bất cứ một điều gì hay không? Các người nói cho ta nghe ... nói cho ta nghe đi mà!!! Ai nghe qua cũng cảm khái, ngậm ngùi, không khỏi suy tư. Nói chung, việc trên giang hồ xưa nay nhiều như vậy, hay khúc mắc rườm rà, lẫn lộn thị phi, trắng đen không phải lúc nào cũng được phân biệt rạch ròi, như bóng tối và ánh sáng. Một khi đã bước chân ra chốn giang hồ, thì cái chết đã cận kề, sự sống cũng như mơ. Nếu như đời người tan trong ly rượu, xin hiệp khách cứ mơ màng, nâng chén thiên tình mà uống dưới trăng thanh. Gió mát làm bạn đường Ai hỏi giọt mù sương Tạo hóa ưa giễu cợt Hồng trần bụi đầy gương. Giai nhân cười nhỏ lệ Anh hùng thấy liền thương Đúng sai tình dâu bể Con người, thật đáng thương! Nghiêm Long nhìn cây trường thương trong tay của Phí Nguyệt sao mà quá giống với bạch phụng hoàng thương của Từ Phụng, hai món binh khí như là một giọt nước chẻ làm hai, quay sang hỏi người con gái đang đứng bên cạnh mình: - Ngọc Phụng! Giữa muội và người đàn bà đang đứng thất thần dưới gốc cây lý, rốt cuộc có quan hệ gì không. Phí Nguyệt là gì của muội? Ánh trăng đã lên, sáng soi tình kim cổ, Phí Nguyệt tung hàn băng chưởng làm chết năm con ngựa lông vàng đứng cạnh tảng đá to, mang theo cây thương dài bay vút vào trong rừng sâu, không nói thêm một lời nào nữa. Từ Phụng có linh cảm không hay. Nghiêm Long cũng nghĩ là mọi việc không hề đơn giản như vậy, nên nhờ Liễu Giới đại sư bảo vệ cho Từ Phụng và bé gái ba ngày tuổi, còn chàng thì chuẩn bị tinh thần, quyết chiến một phen. Tuy Phí Nguyệt đã rời đi, nhưng Châu Thần lại lộ diện, muốn sai tất cả tùy tùng đang có mặt giết hết những người bên phía Nghiêm Long, còn không biết liêm sỉ, nói: - Thành Tinh đệ đệ nói với ta, Nghiêm Long và Từ Phụng là cẩu tạp chủng, vì cha mẹ của chúng đã từng phản quốc cầu tài, làm hại trung lương, giết người vô số... Nay, ta phụng khẩu vụ của hoàng thượng, đích thân đến đây là để giết chết bọn chúng, trừ hại cho võ lâm, đòi lại công bằng cho những người đã gánh chịu hàm oan. Các thuộc hạ cùng nhân sĩ trên giang hồ, mau nghe theo lời ta mà lấy đầu của đôi cẩu nam nữ, sau này nhất định được xét công đầu, cắt đất phong vương. Lên cho ta! Nói xong, đám ác tặc liền lao vào chém giết như hổ báo nhịn đói lâu ngày, nay bắt gặp hươu con, tiếng la hét vang trời, ai mà chẳng sợ. Hai bên đánh nhau vô cùng kịch liệt, đổ máu rơi đầu số khoảng một trăm. Liễu Giới đại sư dùng thuật du hồn, đi xa mười ngàn dặm, nói với Hoa địa đế đang ngồi đọc sách trong vườn ngự uyển nơi Hoa quốc rằng: - Cưỡi tuấn mã Lưu Phù, đi nhanh đến băng hồ, đốt cháy hết cây lê! Bằng không thì đại họa ập xuống đầu, thiên hạ nguy nan! Tuy cách xa mười ngàn dặm, nhưng cảnh tượng đánh nhau nơi Thiên Thai cốc này lại hiện ra rõ ràng trong bảo kính của Hoa địa đế, lại nhớ đến những lời sấm truyền trong thiên thư, nên Hoa Thần tự biết mình phải lập tức làm theo những gì đã nghe được trong hư không, liền leo lên lưng ngựa, phi thẳng tới băng hồ, thi triển thần công. Từ Phụng sợ tiểu hài nữ chết đi vô ích, mà bản thân mình cũng không làm tròn sứ mạng thiêng liêng, nên bất đắc dĩ phải dùng ám chiêu làm Châu Thần bị trọng thương bởi mũi tên tẩm độc. Quân giặc ba phần sợ hãi, có kẻ muốn rút lui, nói: - Châu đại nhân! Người coi chừng độc phát công tâm mà chết! Hay là chúng ta tạm thời rút lui trước đi! Giữ lấy non xanh, sợ gì không có củi đốt! Châu Thần là người đại ác, từng vào sinh ra tử ở trên sa trường, dục vọng rất sâu, nhưng cũng không bao giờ sợ chết, nói: - Lão phu sẽ không để vuột mất cơ hội này! Hôm nay, tất cả những tên yêu tà đều có mặt, vậy hãy để ta giết hết bọn chúng trong một lần cho thật đã tay! Ha ... ha ! Vừa nói, hắn vừa mím chặt môi, mặt nhăn gắng chịu sự đau đớn vô cùng bởi độc phát trong thân. Từ Phụng thương hại hắn, nhỏ giọng nói: - Tiền bối! Tuổi của người cũng gần bằng tuổi phụ thân con. Con cũng không muốn lấy mạng người đâu. Chỉ cần tiền bối chịu đầu hàng, con sẽ đưa cho người thuốc giải, nếu không thì ... Châu Thần định dùng hết sửc bình sinh mà đánh liều với Từ Phụng, nhưng thuộc hạ ôm người giữ lại. Nghiêm Long biết rằng, trong số nửa ngàn người đi theo Châu Thần, có rất nhiều người chưa rõ tên tuổi, nhìn ai cũng dũng kiện phi thường, không thể khinh khi, càng lo cho trăm người bên mình, sức mạnh chẳng bằng nhau, cứ đứng như trời trồng một hồi, chưa biết phải làm sao. May thay! Bao Tình cùng Xa Tuyết Nhi cũng tới, dẫn theo ba trăm người tuấn kiệt trung tâm. Bao Tình cười như đi lễ hội, tỏ ra không hề có một chút gì gọi là sợ hãi, nói giọng của người thắng lợi: - Châu Thần! Bổn cô nương thấy ngươi trong đêm hôm nay nhất định sẽ chầu trời! Nếu như còn không biết hối cải, thì đừng trách ta ra tay tàn nhẫn. Xung quanh nơi này đều có phục binh, còn có rất nhiều cao thủ lừng danh ở trên giang hồ, năm trăm người của các ngươi sẽ không phải là đối thủ của Nghiêm Long hảo phu quân của ta đâu, đừng vọng tưởng nữa! Có nghe thấy hay không? Xa Tuyết Nhi dùng đại đao chém một lúc mười tên, Châu Thần hoảng loạn, nhưng vẫn cố tỏ ra kiên cường, trợn mắt thị uy, vừa lấy ta ôm ngực trong đau nhức vừa nói: - Ta là người mạng lớn, sẽ không dễ dàng gì chết bất đắc kỳ tử tại đây. Các vị anh hùng đi theo Nguyệt phi nương nương đều là những người không thể nào bị đánh bại, hãy cùng ta xông lên tử chiến với tên tiểu tử Nghiêm Long này một lần cho rõ mặt nam nhi! Lên cho ta!!! Hai bên lại chém giết không ngừng, máu tanh đầy đất, tiếng quạ vang trời, cây cỏ ngã nghiêng. Đó là đêm rằm trung thu, trong khi cả thế gian này ai nấy đều đang vui vẻ ở nhà, xem thả ngọn hoa đăng, nguyện cầu trên mặt nước, thì ở Thiên Thai cốc máu đỏ thịt mềm đổ xuống thảm thương! Thương cho giấc mộng giang hồ Người ngay, kẻ ác, nấm mồ vô danh Nằm nghe tiếng quạ phong phanh Xuống nơi Địa Phủ, lòng lành còn không?
Chương 005. Võ lâm hữu đức Bấm để xem Bình minh ló dạng, đôi mắt của Nghiêm Long trở nên sáng rỡ như mặt trời, lấp lánh ánh hồng quang. Qua một đêm đánh nhau kịch liệt, đám người xấu xa của Châu Thần cũng mệt mỏi, chùn chân. Từ Phụng nhìn dáng vẻ Nghiêm Long uy hùng lẫm liệt, cảm thấy rất đỗi tự hào về một người chồng trung hiếu vô song, nhưng vẫn có phần ghen tuông với Bao Tình là một nhi nữ giang hồ tính khí trẻ con, quay lại nói: - Tình nhi! Muội có thấy tên giặc già Châu Thần đó, hắn đáng ghét y như là muội vậy! Một người thì trâu già khoái gặm cỏ non, còn một kẻ thì không biết trời cao đất dầy là gì cả. Ta nói như vậy có đúng không? Bao Tình nghe xong, liền nổi giận, trong lòng nàng thắc mắc người như Từ Phụng mà lại có những suy nghĩ yêu đương như vầy trong lúc cửu tử nhất sinh, buột miệng nói: - Trời ơi! Ngọc Phụng tỉ, đang là lúc nào rồi, mà tỉ còn chấp nhất với câu nói đùa tối đêm qua của muội, cái gì mà hảo phu quân, tỉ ! Xa Tuyết Nhi cũng yêu Nghiêm Long nhiều và sâu sắc, nghe hai người đàn bà này nói qua nói lại một hồi thì điên tiết cả lên, chém giết như có huyết hải thâm thù đại hận trong nhiều kiếp với đám người Châu Thần, nay mới có dịp ra tay, phi thiên rồi độn thổ, tung hết tuyệt chiêu, ảo diệu khôn lường, chắc chắn làm cho Châu Thần chết sợ mà thôi. Hai bên tà chánh đánh nhau, chết đi rất nhiều người như vậy, cũng do ác niệm nơi lòng chưa buông bỏ thành công. Nghiêm Long và Từ Phụng muốn giết chết Châu Thần để trừ hại một phần cho võ lâm trung nguyên, nói cho đến tận cùng thì vẫn là ác niệm. Vì Liễu Giới đại sư đã nói với Châu Thần cùng đám tàn quân của hắn những lời chan chứa đạo con người, phô diễn lý nhân duyên: - Châu đại nhân! Nhà Phật lấy lòng từ bi làm gốc, trung hiếu phải đi đầu, trinh tiết cũng phải xong. Nhưng, tâm tức giận của Nghiêm Long và Từ Phụng khi muốn giết chết một người xấu xa, gian ác giống như ông, nói theo phật pháp cao siêu vẫn là tạo nghiệp luân hồi, ưu bi, sanh tử, tương đồng với Thần đạo, còn gọi là A-tu-la giới. Ta không có ý giết ngài! Võ Trường Đạo chân nhân mặc đồ đạo sĩ, hiểu rõ âm dương, thông tường chữ đạo, cũng rơi lệ nhăn mày vì cảnh giết chóc máu me, nói: - Người tu theo Đạo Lão như chúng tôi đáng lý ra không nên xen vào chuyện thế tục! Nhưng mà, không thể làm ngơ trước lũ giặc gian ác qua mặt bá tánh, triều đình, làm ra đủ thứ chuyện trên đời thua cả chó heo! Khuất Bang tiền bối tuy cũng đã máu me đầy mặt vì xé xác vài ba mươi tên thuộc hạ dưới trướng của Châu Thần, mà lòng vẫn đau đớn, mắt lệ nhạt nhoà trong sương khói ban mai, nói với giọng trầm hùng, bày tỏ hết tim gan: - Ta sống hơn năm mươi năm trên đời, gặp đủ hạng người, nghe khắp đông tây, vào sinh ra tử không biết đã bao nhiêu lần, chưa tính bị hàm oan... Ta cũng không muốn giang hồ tắm gội máu tanh, nhưng thế sự vô thường, xưa nay hay đổi. Ta giết lũ yêu tà này, chẳng qua cũng là do vạn bất đắc dĩ mà thôi! Nói rồi, cả ba vị đều khóc như đứa trẻ bị mẹ đánh lần đầu, khí thiện đã xung thiên. Chính khí của đất trời xưa nay vẫn vậy, chỉ có tâm tính của con người ưa thay đổi, bon chen. Lại có tiếng binh khí của một đám người lạ mặt chen vào, tiếng la hét vang trời, ai nấy chỉ biết trơ mắt đứng trông về nơi con sông lớn, mặt nước đỏ ngầu, đao kiếm sáng choang. Châu Thần gần như sắp chết, muốn tìm đường tháo lui, vì đã qua một đêm bị vết thương dày vò khổ sợ, chất độc đã đi vào khắp cả ngũ tạng lục phủ rồi, chỉ dựa vào ý chí ngoan cường của một linh tánh hao mòn để sống tiếp, để trả thù, hay để gặp lại một con người đã xa cách trong tiếc nuối muộn màng, khiến cho lòng của y khó có thể chịu chết dễ dàng, muốn được nói lời sau cùng, như giải thích hay chăng? Nội tâm giằng xé, nét mặt đa đoan, bất chấp lời khuyên từ thuộc hạ, Châu Thần uống hoàn sinh đan, có công hiệu chữa lành mọi vết thương trong giây lát, gia tăng sức mạnh tinh thần và thể xác trong vòng một canh giờ, nhưng nhất định sẽ mất mạng sau bảy ngày nếu không có thuốc giải cùng dược dẫn long hình, để quyết chiến với Nghiêm Long. Hắn hít thở thật sâu, vận công từ đan điền đi nhâm đốc, bay lên trong sự ngỡ ngàng của ba phía, chưởng mạnh xuống lòng đất ba lần, lấy lên hai thanh thần khí hộ quốc thời thượng cổ, một tên Hồng Quang kiếm, một tên Huyền Nữ thương, nói với các nô bộc: - Các ngươi hãy mau dùng máu của Nghiêm Long và Từ Phụng để đánh thức hai món thần binh lợi khí này ngay cho ta! Kẻ nào thành công thì sẽ được thưởng một trăm linh tám lượng vàng ròng, hưởng mãi vinh hoa! Trong số các nô bộc trung thành một cách mù quáng, có một cặp vợ chồng già là Tiền Quang và Bạc Nữ tuổi tuy đã ngoài tám mươi mà sức khoẻ vẫn khang kiện, lưng thẳng môi hồng, răng trắng tóc đen như người trẻ tuổi, nghe xong lời hứa hẹn của Châu Thần thì đôi mắt lộ chút u buồn, có phần hơi miễn cưỡng, sau một hồi đắn đo do dự, cuối cùng quyết định dùng tuyệt kỹ phi thường để bắt sống Từ Phụng và Nghiêm Long. Cặp phu thê già cả bay tới trong giây lát, đảo quanh chỗ đứng của Nghiêm Long ba vòng như con chim én, thân thủ nhanh tới mức Long không biết là thứ gì đang xuất hiện ngay bên mình, cứ tưởng ong vỡ tổ từ bụi cây hồng đang say quả bên kia vì loạn tiễn, bay sang bên này để trả đũa hay chăng, chưa kịp nói năng hay phản ứng gì thì chàng đã bị nhấc bổng lên và đưa về bên chỗ Châu Thần, lấy máu để khai quang. Xong rồi, bị trói chặt lại như con gà trống vàng bên gốc cây liễu, đánh sau gáy cho ngất đi tạm thời, Từ Phụng đứng chôn chân. Châu Thần cả giận quát lớn với hai tên nô bộc không chịu nghe lời: - Ta đã nói là hai ngươi phải bắt luôn cả Từ Phụng nữa mà! Sao lại không chịu làm theo ý của ta? Tiền Quang và Bạc Nữ nói trong thái độ ôn hoà, vô tội: - Chúng tôi làm như vậy chẳng qua là do chỉ cần một nửa số vàng ròng được thưởng. Chúng tôi chỉ cần năm mươi bốn lượng vàng là đủ. Xin đại nhân vui lòng ban tặng! Châu Thần nghe xong thì không thể nào giữ được bình tĩnh, hét thật lớn: - Hai ngươi đều bị điên hết cả rồi phải không? Nếu đã như vậy thì đừng cầu xin ta tha thứ! Người đâu, giết chết bọn chúng ngay bây giờ luôn cho ta! Giết!!! Từ Phụng dùng trực giác của trinh nữ đơn thuần cảm nhận được cặp vợ chồng ngoài trẻ trong già này dường như đang che giấu một nỗi đau hay một bí mật nào đó, nói với ý thăm dò hư thực: - Hai vị lão tiền bối, có phải là hai người đã khiếp sợ trước uy thần và võ nghệ của tôi, mới không dám động thủ, chưa biết là khinh công của người nào lợi hại hơn nữa đó? Tiền Quang và Bạc Nữ chỉ mỉm cười, quay lưng lại nhìn Từ Phụng như con cháu trong nhà, ánh mắt đong đầy sự âu yếm, yêu thương, sau đó, dùng khinh công bay đi trong sự tức giận đến tột độ của Châu Thần và thắc mắc của những kẻ bàng quang. Chắc là không có người nào là bay theo kịp họ đâu, thật là khó hiểu, khó lường, ai cũng sinh nghi! Từ Phụng định giải cứu Nghiêm Long, nhưng lúc này Hồ Điệp lại xuất hiện cùng với một vài người bằng hữu trên giang hồ, thay đổi hoàn toàn cục diện trong vô hình, khiến cho Từ Phụng bị rơi xuống vách núi sâu muôn trùng, tạo hoá trêu ngươi. Hồ Điệp cùng đường vì bị Hồ Thiên Khí ép phải cắt cổ tự tử, tạ tội với một đám ăn mày sáu người, do trước đó, nàng đã vô tình làm chết một người trong lúc đang nô đùa trên cây cầu bắc qua con suối Thanh Long, nên đã chạy tới nơi này trong u uất, dày vò, tự trách, hoang mang. Vừa đến, nàng đã khóc lớn khi thấy Nghiêm Long bị trói đứng ngây người, tóc tai che bít mặt mày, gió thổi lạnh cắt da. Từ Phụng hỏi nàng sao lại tới đây, bảo rằng hãy đi qua chỗ Liễu Giới đại sư, ở đó thì sẽ không gặp phải nguy hiểm gì, nhưng nàng chẳng quan tâm, còn nói như trách móc: - Nếu như không phải do Ngọc Phụng tỉ bỏ muội lại một mình nơi con suối Thanh Long, thì muội đã không ra nông nỗi này rồi! Đều là tại ông trời không có mắt đó thôi! Ta hận! Ta hận lắm!!! Biết đây không phải là lúc để dông dài, vặn hỏi nguyên do, Từ Phụng chỉ đưa cho Hồ Điệp một lọ thuốc nhỏ, nói: - Muội nhớ uống đan dược đúng giờ trong ngày là được! Sau đó, phi thân đến chỗ Nghiêm Long, đánh nhau với Châu Thần thêm ba mươi hiệp, nhưng vô ích. Châu Thần võ nghệ rất cao, ra đòn hiểm ác, nếu như không phải là đánh vào tử huyệt, đan điền, thì cũng là móc mắt, móc hầu của đối phương, chiêu số biến hoá đa chiều, khó có người nào địch lại nổi với y. Đáng lý ra, Bao Tình và Xa Tuyết Nhi thấy nàng đang trong lúc nguy hiểm như vậy, thì phải ra tay tương trợ mới phải, còn đằng này, họ đã để cho tâm tà chế ngự trong giây lát, mà tai kiếp sau này khi giáng lên đầu lại càng tăng thêm gấp bội phần, khó trách được ai! Bao Tình xông vào đánh với đám võ sĩ cao lớn người Phù Tang dưới trướng Châu Thần, vẻ ngoài là dường như giải vây cho Từ Phụng, nhưng thật ra là muốn dồn nàng vào thế khó, tự để lộ nhược điểm chí mạng của mình, sau đó, Bao Tình mới dùng tuyệt nghệ trong môn phái của mình cứu lấy cả hai người Nghiêm Long và Từ Phụng ra khỏi lòng bàn tay đáng sợ của Châu Thần, tự đắc với công lao, khiến cho Từ Phụng biết khó mà lui, nhường lại Nghiêm Long cho mình trong sự bội phục đến tận cùng, không còn gì để bắt bẻ về sau. Xa Tuyết Nhi tuy không nghĩ sâu xa và có phần tư lợi giống như Bao Tình, nhưng nàng cũng không kém phần khôn khéo khi chỉ đánh bằng tám phần nội lực, chứ không dùng hết sức bình sinh, mặc dù tất cả mọi người ai nấy đều đang cận kề với cái chết. Thương thay cho lòng dạ đàn bà! Cũng không ít phần trách chê bọn họ! Phí Nguyệt từ trong rừng sâu bay ra, sắc mặt đỏ bừng như ngọn lửa trong đêm tối, muốn giết hết toàn bộ những người đang có mặt nơi cốc Thiên Thai, nói: - Cho dù là chánh hay là tà, thì hôm nay tất cả các người đều phải chết!!! Liễu Giới đại sư là người đại diện cho phái Thiếu Lâm, luôn chủ trương dùng lòng từ bi để cảm hoá những người như Phí Nguyệt quay trở về đường ngay nẻo thẳng, những tưởng ả đã giác ngộ thật rồi, sám hối ăn năn, không còn ý định trả thù nữa, nhưng có ngờ đâu, ả chẳng qua chỉ là đang chuẩn bị cho việc tắm máu san hà, huỷ diệt cả nhân gian, muốn dùng vô số bảo bối cùng lợi khí thần binh triệu hồi bách vạn tinh linh giúp cho mình mặc tình chém giết trong sự điên cuồng, phẫn nộ, bi ai... Đại sư nói cùng tất cả mọi người đang có mặt: - Hôm nay, nếu như ta chết đi thì mọi người cũng không cần phải quá đau buồn, có biết hay không? Ngộ Trực đau lòng, muốn chết cùng sư phụ, nhưng không phải là chết trong lúc này, khi võ lâm có quá nhiều môn phái phân chia, chém giết hận thù, tranh giành lợi ích cá nhân mà khiến cho sinh linh lầm than, rơi vào cảnh dầu sôi lửa bỏng, nói: - Sư phụ à! Chẳng lẽ người định chết chỉ vì những chuyện không ra gì này, oan uổng đến vậy sao? Con không phục đâu! Con muốn thống nhất giang hồ, võ lâm yên ổn thì mới có thể yên lòng tu hành, bất quá thì bỏ lên núi ngồi thiền cho tới chết thì thôi! Chữ đức của võ lâm chính là như vậy, khi sống chết đã không còn quan trọng nơi lòng, hán kiệt sẽ thăng hoa. Có một vị anh hùng tên là Vương Luân từ xa đi tới, dung nghi tuấn tú đường hoàng, cốt cách tựa thần long, nói với Liễu Giới đại sư: - Đại sư! Có Vương Luân ta ở đây, Phí Nguyệt sẽ không làm nổi chuyện gì to tát, rồi ta sẽ tự tay mình chặt đầu của yêu phi này xuống để an ủi linh hồn liệt tổ liệt tông! Nơi bờ sông, kẻ cầm đầu thấy tình hình đã có sự thay đổi lớn, biết không nên chống chọi với bất kỳ phe phái nào trong lúc này, nói đại vài lời chẳng ăn nhập vào đâu: - Ta họ Phạm, tên Triều, tự Hoài Nhân. Đáng lý ra muốn giết chết Châu Thần, lập công với thành chủ, nhưng mà thấy các ngươi cứ sống trong hận thù chém giết như vậy hoài, ta cũng tự tủi thân! Thôi, ta đi trước, hẹn ngày tái ngộ! Nói rồi, họ Phạm kia nhảy lên thuyền, gấp rút bơi đi, bỏ lại vài ba mươi tên thủ hạ ở lại trên bờ, kêu réo mãi không thôi. Chúng không dám tương tàn với nhau nữa mà tạm thời giả bộ đoàn kết, dàn thành hàng dọc chỉnh tề, chấp kiếm thị uy. Nhưng chẳng có người nào thấy sợ bọn chúng, người ta chỉ cảm thấy khó hiểu và nực cười cho những kẻ đã đi lại ở trên chốn giang hồ mà không biết trước sau. Trong đám thuộc hạ này, có một người trời sinh ra trên lưng đã có sẵn một tấm bản đồ, mặt mũi giống Nghiêm Long, họ Trang, tên An Định, do tình thế nguy ngập nên phải giả hàng Phạm Triều để bảo vệ tính mạng cha mẹ già, làm tròn chữ hiếu của một người con. Trang An Định không nói không rằng, ánh mắt ôn hoà như đứa trẻ, đứng trong đám người kỳ lạ chưa rõ thuộc về môn phái nào, có chính khí tụ mày, linh điển thiêng thiêng, làm cho Võ Trường Đạo chú ý, muốn đi về phía của chàng để bắt chuyện làm quen và hỏi thêm về lai lịch. Ngờ đâu Trang An Định bị quốc vương lừa gạt từ trước, nói Nghiêm Long là tên đại ma đầu giết người không gớm tay, nhờ họ Trang giết chết Nghiêm Long, lấy quả tim đem về quê nhà để làm dược dẫn trị thương. Võ Trường Đạo không chút nghi ngờ vì cảm nhận Trang An Định là một người hiếm có trong đời, thong thả bước lại, vừa cười vừa nói: - Lại là một vị anh hùng nữa phải không? Ta có con mắt tinh tường, phân rõ trắng đen, xem qua liền biết ngay là người hiền hay kẻ dữ, cảm thấy huynh đài không phải hạng phàm phu tục tử trong đời, mà trái lại, tiên phong đạo cốt không ai bằng, xin người cho kẻ hèn này được biết tôn tánh đại danh! Trang An Định không muốn nói năng, để cho những tên còn lại giới thiệu thay cho mình, vẻ mặt ung dung. Người đứng gần Định nhất lên tiếng nói: - Huynh ấy họ Trang, tên là An bang Định quốc gì đó! Vậy được chưa? Tên đứng đầu nói tiếp lời: - Trang An Định là tên gọi của đệ ấy. Châu Thần tự dưng dùng khinh công bay về phía của Định để ra đòn sát thương hiểm hóc, khiến Định hơi bất ngờ, chuẩn bị xuất chiêu. Phí Nguyệt muốn lấy đầu của Nghiêm Long nhanh chóng để quay trở về Long triều, tiếp tục tàn hại trung lương, nhưng mà nào có dễ như vậy. Vương Luân dùng nội lực lấy được thanh hồng quang kiếm từ hố sâu lên một cách dễ dàng, đánh nhau cùng Phí Nguyệt một hồi, đã chiếm thế thượng phong, sắp sửa lấy được đầu ả, chuẩn bị vung kiếm chém xuống thì có một mũi phi tiêu màu xanh bay vèo cản lại. Kẻ đó tự xưng mình là Ngũ Thịnh, đi theo sau là Lục Cường, Lý Sinh và vô số đồng bọn, tên nào cũng mặt mũi ưa nhìn mà lòng dạ xấu xa, chuyên làm những chuyện giết người, cướp của, gian dâm... bọn chúng tỏ ý tuyệt đối trung thành với Phí Nguyệt. Phí Nguyệt vừa mừng vừa sợ, không có nhiều suy lường cho sự trá nịnh bên trong, muốn đám ác tặc Ngũ Thịnh và Lục Cường này giúp sức cho mình trong tình thế nguy ngập trước mắt, nên nói: - Ta là Nguyệt phi nương nương uy quyền bậc nhất, nếu như giúp được ta thì sau này đám huynh đệ các ngươi muốn gì được đó! Xin hãy giết chết tất cả bọn người này ngay lập tức giùm ta! Ngũ Thịnh và Lục Cường cùng lúc xông lên đánh áp đảo Vương Luân, đám thuộc hạ cũng bắn tên ào ào như trên chiến trận. Từ Phụng vì muốn che chắn cho Nghiêm Long, nên ra sức đỡ liều, chảy máu đỏ hai tay, chân phải bị thương nặng. Bao Tình, Xa Tuyết Nhi và Hồ Điệp thấy tình thế nguy khốn, dốc hết sức mạnh trong người đánh trả đám giặc kia nhưng chỉ được một hồi, ai nấy cũng bị thương trên người đủ chỗ. Trang An Định dùng động tác giả đánh lừa Châu Thần bị ngã sang triền núi dựng đứng, vượt ngoài sự tiên đoán của y, sau đó chạy như bay tới chỗ Nghiêm Long muốn chặt đầu cho bằng được. Vương Luân đã mặc sẵn áo giáp kim cang trong người từ trước nên không bị cung tiễn làm cho bị thương, vẫn ung dung đánh với Phí Nguyệt thêm ba hiệp nữa, rồi lợi dụng địa hình hiểm trở cũng như địa vật khác thường, có gai góc, dây leo... xô Phí Nguyệt rơi xuống vách núi sâu không nhìn thấy đáy, quay lại giải cứu cho Nghiêm Long. Từ Phụng giọng đầy kinh ngạc hỏi Trang An Định: - Ngươi có phải là hoàng tử Long Cảnh Võ của Long triều hay không? Sao lại muốn lấy mạng của Ứng Long? Chẳng lẽ ngươi bị trúng tà? Đừng đóng tuồng cho ta xem nữa! Tự nhiên ngươi lại đổi họ thay tên làm gì vậy hả? Mau cút đi cho ta!!! Trang An Định nói trong hận thù, chua chát: - Dung mạo của cả ba người là Nghiêm Long, Long Cảnh Võ và ta tuy giống hệt nhau, nhưng người nào là người đó, vốn không có liên quan, chẳng qua chỉ là sự trùng hợp. Cả nhà ta là do Nghiêm Long hại chết tức tưởi. Hôm nay nếu như không giết được hắn thì còn mặt mũi nào quay về Quy quốc để tạ tội với ai kia! Từ Phụng không hiểu đầu đuôi, cũng không còn nhiều thời giờ để tranh cãi hay đối chất, chỉ còn nước đánh nhau tới sức cùng lực kiệt, dù đang bị trúng tên và phi tiêu, vẫn dùng hết nội công để hạ gục đối phương trong mười chiêu ảo hoá. Trang An Định rơi xuống cùng một nơi với Phí Nguyệt, vách núi cao vạn trượng chắc sẽ không dễ gì sống nổi xưa nay. Còn lại một mình Châu Thần đang cố bám vào tảng đá bên kia, dùng hết sức để bò lên, lại bị Vương Luân bồi thêm một đạp trên đầu, rơi xuống vực thẳm mây bay ngang đầu, tính mạng khó giữ. Ngũ Thịnh và Lục Cường đến đây không chỉ đơn giản là vì công danh phú quý, động cơ chính là muốn thu thập toàn bộ các món thần khí để trấp áp các nước chư hầu, sau đó lên ngôi vua, rồi chia đôi thiên hạ. Nên sau khi thấy Phí Nguyệt bị rơi xuống núi thê thảm như vậy, chẳng những không lo sợ trong lòng, mà còn thấy hân hoan, vì không còn ai dám tranh giành hay cản đường bọn chúng nữa, cũng như những gì mà bọn chúng có được sẽ nhiều hơn.