Hướng dẫn trả lời câu hỏi ôn thi học phần Kinh tế chính trị Mác - Lênin

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Gill, 25 Tháng bảy 2021.

  1. Gill

    Bài viết:
    6,256
    Hướng dẫn trả lời câu hỏi ôn thi học phần Kinh tế chính trị Mác - Lênin

    Học phần Kinh tế chính trị Mác - Lênin

    ÔN TẬP HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC -LÊ NIN

    1. Lý luận của C. Mác về sản xuất hàng hóa và hàng hóa (Sản xuất hàng hóa; Hàng hóa; Tiền)

    - Khái niệm sản xuất hàng hóa: Theo C Mác sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó những người sản xuất ra sản phẩm không nhằm phục vụ mục đích phục vụ nhu cầu tiêu dùng của chính mình mà để trao đổi, mua bán.

    Sản xuất hàng hóa là một phạm trù lịch sử, con người không phải ngay từ khi sinh ra đã để lao động để sản xuất hàng hóa mà họ sản xuất ra để phục vụ cho bản thân dần sản xuất hàng hóa phát triển nền kinh tế tự cung tự cấp trở thành nền kinh tế hàng hóa.

    - Có 2 điều kiện ra đời sản xuất hàng hóa:

    • Điều kiện thứ nhất: Phân công lao động xã hội đây được coi là điều kiện cần: Phân công lao động trong xã hội thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất thành những ngành nghề khác nhau. Khi đó mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một số sản phẩm nhất định
    • Điều kiện thứ hai: Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất đây được coi là điều kiện đủ: Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người sản xuất độc lập với nhau, có sự tách biệt về mặt lợi ích. Với đk đó người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua việc trao đổi mua bán, tức là trao đổi dưới hình thức mua bán hàng hóa

    - Khái niệm hàng hóa: Theo C Mác hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi mua bán

    - Thuộc tính của hàng hóa: Bao gồm giá trị hàng hóa và giá trị

    Khái niệm giá trị sử dụng của hàng hóa: Giá trị hàng hóa là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người

    => giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của yếu tố tham gia cấu thành nên hàng hóa đó quy định.

    Khái niệm giá trị: Theo C. Mác giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất đã hao phí để sản xuất ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa ấy.

    - Tiền tệ :(câu 1)

    • Chức năng của tiền:

    Thước đo giá trị: Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền được dùng để biểu hiện và đo lượng giá trị của tất cả các hàng hóa khác nhau.

    Phương tiện lưu thông: Tiền được dùng để mua giới cho quá trình trao đổi hàng hóa

    Phương tiện cất trữ: Tiền đại diện cho giá trị, của cải vì vậy thay vì cất trữ hàng hóa người ta cất trữ tiền, lúc này tiền được rút khỏi lưu thông mà đi vào cất trữ dưới hình dạng vàng, bạc.. sẵn sàng tham gia lưu thông khi cần thiết.

    Phương tiện thanh toán: Khi thực hiện chức năng thanh toán tiền được dùng để trả nợ, mua bán hàng hóa. Tiền gắn liền với chế độ tín dụng thương mại, mua bán thông qua tín dụng, thanh toán không thông qua tiền mặt..

    Tiền tệ thế giới: Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới tiền là chức năng tiền tệ thế giới, lúc này với chức năng là công cụ mua bán thanh toán giữa các nước với nhau.

    2. Một số quy luật kinh tế chủ yếu của thị trường (Quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ)

    Thị trường theo nghĩa hẹp: Là nơi diễn ra hành vi trao đổi, mua bán hàng hóa giữa các chủ thể với nhau

    Thị trường theo nghĩa rộng: Là tổng hóa các mối quan hệ liên quan đến trao đổi mua bán hàng hóa trong xã hội

    Quy luật kinh tế thị trường:

    +Quy luật giá trị: Là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa. Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến hành trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.

    +Quy luật cung cầu: Cung cầu hàng hóa dịch vụ không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà thường xuyên tác động qua lại với nhau trên cùng một thời gian cụ thể. Trong thị trường, quan hệ cung cầu là quan hệ cơ bản, thường xuyên lặp đi lặp lại, khi tăng khi giảm tạo thành quy luật trên thị trường.

    +Quy luật giá trị thặng dư. Yêu cầu hàng hóa bán ra phải bù đắp chi phí sản xuất và lưu thông đồng thời phải có một khoản lợi nhuận để tái sản xuất sức lao động và tái sản xuất mở rộng.

    +Quy luật cạnh tranh: Trong nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, có nhiều người mua, người bán với lợi ích kinh tế khác nhau thì việc cạnh tranh giữa người mua với người mua, người bán với người bán và cạnh tranh giữa người mua với người bán tạo nên sự vận động của thị trường và trật tự thị trường..

    3. Lý luận của C. Mác về giá trị thặng dư (Nguồn gốc của giá trị thặng dư; Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường.

    - Nguồn gốc của giá trị thặng dư:

    • Công thức chung của tư bản:

    Theo C. Mác, quan hệ lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức H-T-H.

    Quan hệ lưu thông hàng hóa thị trường tư bản chủ nghĩa vận động theo công thức T-H-T.

    Trên cơ sở làm rõ sự giống nhau và khác nhau về mục đích của hai trình độ quan hệ lưu thông đó. C. Mác phát hiện ra công thức chung của tư bản phải là T-H-T'.

    Trong đó T'=T+At

    Như vậy, lưu thông (mua, bán thông thường) không tạo ra giá trị tăng thêm xét trên phạm vi xã hội.

    C. Mác khẳng định, vậy bí mật ở đây là nhà tư bản đã mua được một loại hàng hóa đặc biệt nào đó mà trong quá trình sử dụng loại hàng hóa này, giá trị của nó không những được bảo tồn mà còn tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đó là hàng hóa sức lao động.

    • Hàng hóa sức lao động:

    C. Mác viết: "Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó".

    Hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa là:

    • Một, người lao động được tự do về thân thể.
    • Hai, người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết hợp với sức lao động của mình tạo ra hàng hóa để bán, cho nên họ phải bán sức lao động.

    Khi sức lao động trở thành hàng hóa, nó cũng có hai thuộc tính như hàng hóa thông thường. Đó là thuộc tính giá trị và thuộc tính giá trị sử dụng.

    • Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất là tái sản xuất ra sức lao động quyết định.
    • Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng là để thỏa mãn nhu cầu của người mua.

    C. Mác khẳng định, nguồn gốc của giá trị thặng dư là do hao phí sức lao động mà có.

    - Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường (câu 2)

    - So sánh giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch:

    • GTTD tương đối:

    Ví dụ, ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động tất yếu, 5 giờ là lao động thặng dư. Nếu giá trị sức lao động giảm đi 1 giờ thì thời gian lao động tất yếu xuống còn 4 giờ. Do đó, thời gian lao động thặng dư tăng từ 5 giờ lên 6 giờ và m' tăng từ 100% lên 150%.

    Do năng suất lao động xã hội.

    Toàn bộ nhà tư bản thu.

    Biểu hiện quan hệ giữa công nhân và tư bản.

    • GTTD siêu ngạch:

    Ví dụ: Để làm 1 cái áo sơ mi thì thường các doanh nghiệp sẽ có nhiều khâu do nhiều người đảm nhận như cổ áo do 1 người làm, tay áo do 1 người làm và vạt áo do 1 người làm, rồi ráp lại các bộ phận khác thì của 1 người khác. Vậy thì nhà tư bản sẽ đưa công nghệ mới vào đó, giờ đây công nghệ mới sẽ chỉ cần 2 người để hoàn thiện chiếc áo mà không cần đến 5 người như trước đây. Như vậy là họ đã tạo ra giá trị thặng dư siêu ngạch cho doanh nghiệp của mình.

    Do tăng năng suất lao động cá biệt.

    Từng nhà tư bản thu.

    Biểu hiện quan hệ giữa công nhân và tư bản, tư bản với tư bản.

    4. Nguyên nhân hình thành độc quyền; Những đặc điểm của độc quyền trong chủ nghĩa tư bản: Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền, Xuất khẩu tư bản)

    Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, nắm trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng định ra giá cả độc quyền, nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.

    • Nguyên nhân hình thành độc quyền:

    • Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của biến bộ khoa học kỹ thuật, đòi hỏi các doanh nghiệp phải ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào sx kinh doanh. Điều đó, đòi hỏi các doanh nghiệp phải đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sx, hình thành các doanh nghiệp quy mô lớn.
    • Hai là, cuối thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lò luyện kim mới, các máy móc mới ra đời như: Động cơ diezen, máy phát điện..
    • Ba là, trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, cùng với sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường như: Quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy.. ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội theo hướng tập trung sx quy mô lớn.
    • Bốn là, cạnh tranh gay gắt làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vị phá sản hàng loạt, còn các doanh nghiệp lớn tồn tại được, nhưng cũng đã bị suy yếu, để tiếp tục pháp triển họ phải tăng cường tích tụ, tập trung sản xuất, liên kết lớn nhất thành các doanh nghiệp với quy mô ngày càng to lớn hơn.
    • Năm là, do cuộc khủng hoảng kinh tế lớn năm 1873 trong toàn bộ thế giới TBCN làm phá sản hàng loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp lớn tồn tại, những để tiếp tục phát triển được, ọ phải thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sx hình thành các doanh nghiệp có quy mô lớn.
    • Sáu là, sự phát triển của hệ thống tín dụng trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sx, nhất là việc hình thành, phát triển các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các công ty độc quyền. Khi các tổ chức độc quyền xuất hiện các tổ chức độc quyền có thể ấn định giá cả độc quyền, độc quyền bán để thu lợi nhuận độc quyền cao.

    - Những đặc điểm của độc quyền trong chủ nghĩa tư bản:

    • Tập trung sản xuất và tổ chức độc quyền:

    Khi vừa mới bắt đầu đọc quyền hóa, các tổ chức độc quyền hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sao theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau.

    Hiện nay, đặc điểm tập trung sản xuất và tổ chức độc quyền có những biểu hiện mới, đó là sự xuất hiện các công ty độc quyền xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ.

    Ở các nước tư bản phát triển hiện nay, bên cạnh các tổ chức độc quyền lớn lại ngày càng xuất hiện nhiều doanh nghiệp (công ty, hãng) vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ là do:

    Thứ nhất, việc ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ cho phép tiêu chuẩn hóa và chuyên môn hóa sản xuất sâu, dẫn đến hình thành hệ thống gia công. Sự kiểm soát của độ quyền được thể hiện dưới những hình thức mới thông qua quan hệ hợp tác giữa các độc quyền lớn với các hãng vừa và nhỏ. Thông qua quan hệ hợp tác này, các độc quyền lớn sẽ mở rộng khả năng kiểm soát sản xuất nói chung, tiến bộ khoa học và công nghệ nói riêng.

    Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những thế mạnh của nó, đó là: Nhạy cảm đối với thay đổi trong sản xuất, linh hoạt ứng phó với sự biến động của thị trường..

    Ngoài ra, độc quyền cũng bắt đầu xuất hiện cả ở những nước đang phát triển.

    Ví dụ: Các tổ chức độc quyền ở Việt Nam: Tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Truyền tải, điều độ Hệ thống điện quốc gia thuộc về trung tâm điều độ hệ thống điện quốc gia..

    • Tư bản tài chính và hệ thống tài phiệt chi phối sâu sắc nền kinh tế:

    V. I. Lênin viết: "Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà công nghiệp."

    Sự phát triển của tư bản tài chính dần dần dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ những nhà tư bản kếch xù chi phối toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị của toàn xã hội, gọi là tài phiệt (hay đầu sỏ tài chính, trùm tài chính).

    Các tài phiệt thực hiện sự thống trị của mình thông qua "chế độ tham dự". Nhờ có "chế độ tham dự" và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, mà tài phiệt có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.

    Từ cuối thế kỷ XX đến nay, tư bản bản tài chính đã có sự thay đổi và những biểu hiện mới, đó là:

    • Do dự phát triển mạnh mẽ của cuộc cm khoa học và công nghệ hiện địa, trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện và phát triển nhiều ngành kinh tế mới, đặc biệt là các ngành thuộc "phần mềm" như dịch vụ, bảo hiểm.. ngày càng chiếm tỷ trong lớn.
    • Cơ chế tham dự của tư bản tài chính cũng có sự biến đổi, cổ phiếu có mệnh giá nhỏ được phát hành rộng rãi, khối lượng cổ phiếu tăng lên, nhiều tầng lớn dân cư cũng có thể mua được cổ phiếu và trở thành các cổ đông nhỏ.. kéo theo đó là "chế độ tham dự" được bổ sung thêm bằng "chế độ ủy nhiệm".

    • Xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến:

    Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu vì:

    Một số ít nước phát triển đã tích lũy được một khối lượng tư bản lớn và có một số "tư bản thừa" tương đối.

    Nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới nhưng lại rất thiếu vốn để phát triển kinh tế, giá cả ruộng đất tượng đối hạ, tiền lương lại thấp.. rất hấp dẫn đầu tư nước ngoài.

    Xét về hình thức, xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu: Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.

    Xét về chủ thể xuất khẩu, thì xuất khẩu tư bản được chi thành: Xuất khẩu tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước.

    Hiện nay, xuất khẩu tư bản có những biểu hiện mới, cụ thể:

    • Thứ nhất, trước kia luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém phát triển. Nhưng những thập kỷ gần đây đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua lại giữa các nước tư bản phát triển với nhau.
    • Thứ hai, chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt khác, đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản tư các nước đang phát triển.
    • Thứ ba, hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan xen giữa xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hóa tăng lên.
    • Thứ tư, sự sáp đặc mang tính chất thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi trong đầu tư được đề cao.

      5. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

    Sự cần thiết phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN:

    Thể chế và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN

    Thể chế: Là những quy tắc, luật pháp, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm điều chỉnh các hoạt động của con người trong một chế độ XH.

    Thể chế kinh tế: Là hệ thống các quy tắc, luật pháp, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế.

    Theo đó, các bộ phận cơ bản của thể chế kinh tế bao gồm: Hệ thống pháp luật về kinh tế của nhà nước và các quy tắc xã hội được nhà nước thừa nhận; hệ thống các chủ thể thực hiện các hoạt động kinh tế; các cơ chế, phương pháp, thủ tục thực hiện các quy định và vận hành nền kinh tế.

    Thể chế kinh tế thị trường định hướng XNCN (Câu 3)

    Lý do phải thực hiện hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN:

    • Thứ nhất, do thể chế kinh thế thị trường định hướng XHCN còn chưa đồng bộ.

    Do mới được hình thành và phát triển, cho nên, việc tiếp tục hoàn thiện thể chế là yêu cầu mang tính khách quan. Nhà nước quản lý, điều tiết nền KTTT bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ khác để giảm thiểu các thất bại của thị trường, thực hiện công bằng xã hội. Do đó, cần phải xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt tiêu cực và khuyết tật của nó.

    • Thứ hai, hệ thống thể chế còn chưa đầy đủ.

    Xuất phát từ yêu cầu nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bởi vì, thể chế kinh tế thị trường là sản phẩm của nhà nước, nhà nước với tư cách là tác giả của thể chế chính thức đương nhiên là nhân tố quyết định số, chất lượng của thể chế cũng như toàn bộ tiến trình xây dựng và hoàn thiện thể chế. Với bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và do vậy thể chế KTTT ở VN phải là thể chế phục vụ lợi ích, vì lợi ích của nhân dân. Trình độ và năng lực tổ chức và quản lý nền KTTT của nhà nước thể hiện chủ yếu ở năng lực xây dựng và thực thi thể chế. Do vậy, nhà nước phải xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT để thực hiện mục tiêu của nền kinh tế.

    • Thứ ba, hệ thống thể chế còn kém hiệu lực, hiệu quả, kém đầy đủ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.

    Trên thực tế, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN VN còn nhiều khiếm khuyết, hệ thống thể chế vừa chưa đủ mạnh, vừa hiệu quả thực thi chưa cao. Các yếu tố thị trường, các loại hình thị trường mới ở trình độ sơ khai. Do đó, cần tiếp tục thực hiện hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN là yêu cầu khách quan.

    Nội dung :(câu 3)

    6. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

    - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sx kinh doanh, dịch vụ và quản lý kt-xh, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học cn, nhằm tạo ra năng suất lao động xh cao.

    - Quan điểm về công nghiệp hóa, hđh ở VN trong bối cảnh cmcn lần thứ tư:

    • Thứ nhất, chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết, giải phóng mọi nguồn lực

    Ngày nay, quá trình cnh, hđh của tất cả các nước đều chịu sự tác động mạnh mẽ của cuộc cm cn 4.0. Đây là thách thức, đồng thời cũng là cơ hội đối với tất cả các nước, đặc biệt là các nước còn kém phát triển. Do đó, phải tích cực, chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết để có thể thực hiện cnh, hđh thích ứng được với tác động của cmcn lần thứ tư, coi đây là quan điểm xuất phát.

    • Thứ hai, các biện pháp thích ứng phải được thực hiện đồng bộ, phát huy sức sáng tạo của toàn nhân dân.

    Để thực hiện thành công cnh, hđh trong bối cảnh tác động của cmcn lần thứ tư với trình độ phát triển như ở nước ta hiện nay là công cuộc mang tính thách thức lớn. Do đó, đòi hỏi phải thực hiện rất nhiều giải pháp, vừa có những khâu phải tuần tự, song phải vừa có những khâu phải có lộ trình tối ưu. Để thành công, những giải pháp phải được thực hiện một cách đồng bộ, có sự phối hợp của tất cả các chủ thể trong nền kt-xh, phát huy sức sáng tạo của toàn dân.

    - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở VN thích ứng với cách mạng công nghiệp lần thứ tư:

    • Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, xây dựng nền kt dựa trên nền tảng sáng tạo

    Xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và triển khai. Cải thiện khung pháp lý cho đổi mới sáng tạo. Tăng nguồn vốn con người cho đổi mới sáng tạo. Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo trong khu vực doanh nghiệp. Thúc đẩy liên kết đổi mới sáng tạo. Phát huy vai trò của các trường đại học, viện, trung tâm nghiên cứu có chất lượng cao ở trong nước, đồng thời kết nối với mạng lưới tri thức toàn cầu.

    • Thứ hai, nắm bắt và đẩy mạnh việc ứng dụng những thành tựu của cuộc cmcn 4.0

    Huy động ở mức cao nhất các nguồn lực của Nhà nước, của toàn dân và nguồn lực quốc tế phục vụ cho nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu của cmcn, đặc biệt là cmcn 4.0 vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống.

    Để thích ứng với cuộc cmcn 4.0 và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tối ưu hóa mô hình kinh doanh, với việc xây dựng dây truyền sản xuất hướng tới tự động hóa ngày càng cao, tin học hóa quản lý, triển khai những kỹ năng mới cho tổ chức và cá nhân, xây dựng chuỗi cung ứng thông minh, đảm bảo an ninh mạng.

    • Thứ ba, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ứng phó với những tác động tiêu cực của cmcn 4.0

    Xây dựng và phát triển hạ tầng kỹ thuật về công nghệ thông tin và truyền thông.

    Phát triển ngành công nghiệp.

    Đẩy mạnh cnh, hđh công nghiệp nông thôn.

    Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, xh tạo điều kiện để thu hút đầu tư trong và ngoài nước.

    Phát huy những lợi thế trong nước để phát triển du lịch, dịch vụ.

    Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ.

    Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao.

    Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.

    7. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển kinh tế của Việt Nam.

    Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gia tăng sự liên hệ giữa nền kinh tế VN với nền kt thế giới. Do đó, một mặt, quá trình hội nhập sẽ tạo ra nhiều tác động tích cực đối với quá trình phát triển của VN, mặt khác cũng đồng thời đưa đến nhiều thách thức đòi hỏi phải vượt qua mới có thể thu được những lợi ích to lớn từ quá trình hội nhập kt thế giới đem lại.

    • Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế:

    Hội nhập kt quốc tế không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những lợi ích to lớn trong phát triển của các nước và những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng. Cụ thể là:

    • Hội nhập kt quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng các lợi thế kt của nước ta trong phân công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kt nhanh, bền vững và chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.
    • Tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kt theo hướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kt mũi nhọn để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kt, của các sản phẩm và doanh nghiệp trong nước; góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, làm tăng khả năng thu hút khoa học công nghệ hiện đại và đầu tư bên ngoài vào nền kt.
    • Hội nhập kt quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước mà nâng cao khả năng hấp thụ khoa học cn hiện đại và tiếp thu cn mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao cn nhằm nâng cao chất lượng nền kt.
    • Làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế để thay đổi cn sản xuất, tiếp cận với phương thức quản trị phát triển để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.
    • Tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, người dân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội tìm kiếm việc làm ở cả trong lẫn ngoài nước.
    • Tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách năm bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều chỉnh chiến lược phát triển hợp lý, đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước.
    • Là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xh.
    • Tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị, tạo điều kiện cho cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng một xh mới, dân chủ, văn minh.
    • Tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế, nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của nước ta trong các tổ chức ct, kt toàn cầu.
    • Đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kt xh; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung như môi trường, biến đổi khí hậu, phòng chống tội phạm và buôn lậu quốc tế.

    - Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế:

    Hội nhập kt quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng đặt ra nhiều rủi ro, bất lợi và thách thức, đó là:

    • Có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kt quốc gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền kt dễ bị tổn thương trước những biến động khôn lường về ct, kt và thị trường quốc tế.
    • Có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng xh.
    • Trong quá trình hội nhập kt quốc tế, các nước đang phát triển như nước ta phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kt tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có vị trí bất lợi và thua thiệt trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, dễ trở thành bãi thải công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tntn và hủy hoại mt ở mức độ cao.
    • Có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn xh.
    • Làm tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống Việt Nam bị xói mòn trước sự "xâm lăng" của văn hóa nước ngoài.
    • Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp..

    • Tóm lại, hội nhập kt quốc tế hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ hội thuận lợi cho sự phát triển kt, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ lớn mà hậu quả của chúng là rất khó lường. Vì vậy, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức trong hội nhập kt là vấn đề cần phải đặc biệt coi trọng.
     
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...