Chào cả nhà, mình cũng là người đang học ngoại ngữ mà cụ thể là tiếng Anh. Những ngày nghỉ dịch này cũng đã lười biếng đủ rồi. Mình cảm thấy việc học tiếng anh qua các cụm từ và học qua các mẩu truyện ngắn sẽ tạo cảm giác hứng thú và dễ tiếp thu hơn khi mà học từng từ một. Một lợi ích nữa là ta sẽ biết được từ đó nằm trong ngữ cảnh khác nhau sẽ có một nghĩa khác nhau. Cho nên chúng ta cùng bắt đầu vừa ở nhà chống dịch vừa có thêm kiến thức. Let's go!
Never tell a lie (Đừng bao giờ nói dối) Bấm để xem On his deathbed (Trước khi chết), a father advised (khuyên) his son to always speak truth (luôn nói thật). The son promised that (hứa rằng) he would never tell a lie. One day (Một ngày nọ), while (trong khi) going to the city through (thông qua) a forest (khu rừng), he got surrounded by (bao quanh bởi) some robbers (những tên cướp). One of them (Một trong số chúng) asked, "What do you have ?" (mày có cái gì) The boy answered, "I have fifty rupees." (50 đồng ru pi) They searched (lục soát) him but couldn't find anything (bất cứ thứ gì). When they were about to go (chuẩn bị bỏ đi), the boy called out (gọi họ lại), "I am not telling a lie. See (Nhìn này) this fifty rupee note which I had hidden (giấu) in my shirt." The leader of the robbers (Thủ lĩnh băng cướp) felt pleased at the truthfulness (tính thật thà) of the boy, gave (đưa cho) him hundred rupees as reward (như một phần thưởng) and went away (bỏ đi). Chúc các bạn học từ vựng vui vẻ!
The Horse, Hunter and Stag (Ngựa, Thợ săn và Hươu) Bấm để xem A quarrel (Một cuộc xung đột) had arisen (xảy ra) between the Horse (Ngựa) and the Stag (Hươu), so the Horse came to (đến gặp) a hunter (thợ săn) to ask his help to take revenge on (cách trả thù) the Stag. The Hunter agreed (đồng ý), but said: "If youdesire to conquer (mong muốn thắng) the Stag, you must permit me (phải cho ta) to place (đặt) this piece of iron (miếng sắt) between your jaws (quai hàm) so that (để) I may guide (điều khiển) you with these reins (dây cương) and allow (cho) this saddle (cái yên) to be placed (đặt) upon your back (trên lưng mi) so that I may keep steady (chỗ ngồi vững) upon you as (khi) we follow after the enemy (săn đuổi kẻ thù). " The Horse agreed to the conditions (các điều kiện đó), and the Hunter soon (nhanh chóng) saddled and bridled (dây cương) him. Then (Sau đó) with the aid (những công cụ săn) of the Hunter the Horse soon overcame (đánh bại) the Stag, and said to the Hunter: "Now, get off (nhảy xuống) and remove (tháo gỡ) those things (những thứ) from my mouth (miệng) and back." "Not so fast, friend (Đừng vội anh bạn)" said the Hunter. "I have now got you under bit and spur (hơi mệt rồi) and prefer to keep (giữ nguyên) you as (như) you are at present (bây giờ). " If you allow men to use you (lợi dụng ai đó) for your own purposes (mục đích riêng), they will use you for theirs (mục đích của họ). Chúc các bạn học từ vựng vui vẻ! Xem thêm: Các mẹo nhớ ngữ pháp hay
The Crow and the Pitcher (Con quạ và cái bình) Bấm để xem In a spell of dry weather (Vào một đợt khô hạn), when the Birds could (chỉ có thể) find very little (rất ít) water to drink, a thirsty Crow (con quạ khát nước) found a pitcher (một cái bình) with a little water in it. But the pitcher was high (cao) and had a narrow neck (cái cổ hẹp), and no matter (bất kể) how he tried, the Crow could not reach (chạm) the water. The poor thing felt (cảm nhận một điều tệ hại) as if he must die of thirst (khát). Then an idea (ý tưởng) came to him. Picking up (nhặt lên) some small pebbles (viên sỏi nhỏ) he dropped (thả) them into the pitcher one by one (từng viên một). With each pebble (Cứ mỗi viên sỏi) the water rose (dâng lên) a little higher until at last (cuối cùng) it was near enough (gần đủ) so he could drink. "In a pinch (Trong một trường hợp cấp thiết) a good use of our wits (trí thông minh) may help us out (vượt qua những sự cố). " Chúc các bạn học từ vựng vui vẻ! Xem thêm: Các động từ bất quy tắc thường gặp trong các bài tập từ A - Z
The Bear and The Bees (Con Gấu và bầy Ong) Bấm để xem A Bear roaming the woods (đi lang thang trong rừng) in search of berries (quả mọng) happened on a fallen tree (cái cây ngã) in which (trong đó) a swarm of Bees (một bầy Ong) had stored their honey (cất giữ mật của chúng). The Bear began to nose (chúi mũi) around the log (quanh khúc gỗ) very carefully to find out (để tìm xem) if the Bees were at home. Just then (Ngay sau đó) one of the swarm (một con trong bầy ong) came home from the clover field (cánh đồng cỏ ba lá) with a load of sweets (rất nhiều mật ngọt). Guessing (Đoán được) what the Bear was after, the Bee flew at (bay về phía) him, stung (đốt) him sharply (thật mạnh) and then disappeared (biến mất) into the hollow (rỗng) log. The Bear lost his temper (mất bình tĩnh) in an instant (ngay lập tức), and sprang upon (lao vào) the log tooth and claw (móng) to destroy the nest (tổ). But this only brought out (đưa) the whole swarm (toàn bộ bầy đàn). The poor Bear (Chú Gấu tội nghiệp) had to take to his heels (gót chân) and he was able to save himself (tự cứu mình) only by diving into (lặn xuống) a pool of water (một vũng nước). It is wiser to bear a single injury in silence (chịu đựng một vết thương trong im lặng) than to provoke (chọc tức) a thousand (một ngàn con ong) by flying into a rage (rơi vào cơn thịnh nộ). Chúc các bạn học từ vựng vui vẻ!
The Fox and The Crow (Con Cáo và Con Quạ) Bấm để xem One bright (rực rỡ) morning as (khi) the Fox was following (theo sau) his sharp nose (chiếc mũi nhọn) through the wood (băng qua rừng) in search of a bite to eat (bữa ăn nhẹ), he saw a Crow on the limb (cành) of a tree overhead (trên đầu). This was by no means (không phải) the first Crow the Fox had ever seen. What caught (Điều thu hút) his attention (sự chú ý) this time (lần này) and made him stop for a second look, was that the lucky Crow held a bit of cheese (ngậm một chút phô mai) in her beak (mỏ). "No need to search any farther (xa hơn), " thought sly (ranh mãnh) Master Fox. "Here is a dainty bite (món ăn ngon) for my breakfast." Up he trotted (chạy lon ton) to the foot of the tree (gốc cây) in which the Crow was sitting, and looking up admiringly (ngưỡng mộ), he cried, "Good-morning, beautiful creature (sinh vật xinh đẹp) !" The Crow, her head cocked on one side (quay qua một bên), watched the Fox suspiciously (một cách nghi ngờ). But she kept her beak tightly (giữ chặt) closed on the cheese and did not return his greeting (không trả lời chào của anh). "What a charming (quyến rũ) creature she is!" said the Fox. "How her feathers (lông vũ) shine (tỏa sáng) ! What a beautiful form (hình thể đẹp) and what splendid wings (đôi cánh lộng lẫy) ! Such a wonderful (tuyệt vời) Bird should have a very lovely voice (giọng nói đáng yêu), since (vì) everything else about her is so perfect (rất hoàn hảo). Could she sing just one song, I know I should hail (chào đón) her Queen of Birds (Nữ hoàng loài chim). " Listening to these flattering words (lời tâng bốc), the Crow forgot all her suspicion (sự nghi ngờ), and also her breakfast. She wanted very much to be called Queen of Birds. So she opened her beak wide (mở rộng) to utter (thốt lên) her loudest caw (tiếng kêu của quạ), and down fell (rơi xuống) the cheese straight into (thẳng vào) the Fox's open mouth. "Thank you," said Master Fox sweetly (ngọt ngào), as he walked off (bước đi). "Though it is cracked, you have a voice sure enough (giọng nói đủ chắc chắn). But where are your wits (trí thông minh) ?" The flatterer (Kẻ nịnh hót) lives at the expense of those (cái giá phải trả) who will listen to him. Chúc các bạn học từ vựng vui vẻ!
The Man and The Satyr Bấm để xem A long time ago (Đã từ rất lâu rồi) a Man met a Satyr* in the forest (trong rừng) and succeeded (thành công) in making friends (kết bạn) with him. The two soon became (trở thành) the best of comrades (đồng đội), living together in the Man's hut (túp lều). But one cold winter evening (một buổi tối mùa đông lạnh lẽo), as they were walking homeward (về nhà), the Satyr saw the Man blow on (thổi vào) his fingers. "Why do you do that ? (Sao anh lại làm thế)" asked the Satyr. "To warm (Để sưởi ấm) my hands," the Man replied (trả lời). When they reached (trở về) home the Man prepared (chuẩn bị) two bowls of porridge (hai bát cháo). These he placed steaming hot (nóng hổi) on the table, and the comrades (các đồng đội) sat down very cheerfully (rất vui vẻ) to enjoy (thưởng thức) the meal. But much to the Satyr's surprise, the Man began (bắt đầu) to blow into his bowl of porridge. "Why do you do that?" he asked. "To cool (Để làm nguội) my porridge," replied the Man. The Satyr sprang hurriedly to his feet (vội vã đứng dậy) and made for the door (đi ra cửa). "Goodbye," he said, "I've seen enough. A fellow (một người bạn) that blows hot and cold in the same breath (cùng một hơi thở) cannot be friends (làm bạn) with me!" The man who talks forboth sides (hai lời) is not to be trusted (tin tưởng) by either. * Là sinh vật nửa người nửa ngựa trong thần thoại Hy Lạp Chúc các bạn học từ vựng vui vẻ!
The Hare and His Ears (Thỏ rừng và đôi tai của anh ấy) Bấm để xem The Lion had been badly hurt (bị thương nặng) by the horns of a Goat (sừng của một con dê), which he was eating. He was very angry to think that any animal that he chose for a meal (chọn làm bữa ăn), should be so brazen (rất trơ trẽn) as to wear such dangerous things as horns to scratch (để làm xước) him while (trong khi) he ate. So he commanded (ra lệnh) that all animals with horns should leave (rời khỏi) his domains (lãnh thổ) within twenty-four hours (trong 24 giờ). The command struck terror (đánh vào nỗi sợ) among the beasts (giữa những con thú). All those who (tất cả những con thú) were so unfortunate (không may mắn) as to have horns, began to pack up (thu dọn đồ đạc) and move out (di chuyển ra ngoài). Even the Hare (Ngay cả thỏ rừng), who, as you know (như bạn biết), has no horns and so had nothing to fear (không có gì phải sợ), passed (trải qua) a very restless night (một đêm bồn chồn không ngủ được), dreaming awful dreams (ác mộng) about the fearful Lion (con sư tử đáng sợ). And when he came out (đi ra) of the warren (vùng có nhiều hang thỏ) in the early morning sunshine (dưới ánh mặt trời sáng sớm), and there saw the shadow cast (cái bóng) by his long and pointed ears (đôi tai dài và nhọn), a terrible fright (nỗi sợ kinh hoàng) seized (nắm giữ) him. "Goodbye, neighbor (hàng xóm) Cricket," he called. "I'm off (tôi đi đây). He will certainly make out (chắc chắn cho rằng) that my ears are horns, no matter what I say (dù tôi có nói gì đi nữa). " Do not give your enemies (kẻ thù) theslightest reason (lí do nhỏ nhất) to attack (để tấn công) your reputation (danh tiếng). Your enemies will seize any excuse (cái cớ) to attack you. Chúc các bạn học vui vẻ!
The Fisherman & the Little Fish (Người đánh cá và con cá nhỏ) Bấm để xem A poor Fisherman (ngư dân nghèo), who lived on (sống nhờ) the fish he caught (bắt được), had bad luck (xui xẻo) one day and caught nothing (không bắt được gì) but (ngoài) a very small fry (cá con). The Fisherman was about to put it in his basket (bỏ nó vào giỏ) when the little Fish said: "Please spare me (Làm ơn hãy tha cho tôi), Mr. Fisherman! I am so small it is not worth while to carry me home (không đáng để đưa tôi về nhà). When I am bigger, I shall make (sẽ làm) you a much better meal (một bữa ăn ngon hơn nhiều). " But the Fisherman quickly (nhanh chóng) put the fish into (bỏ con cá vào) his basket. "How foolish I should be (Tôi thật ngu ngốc làm sao), " he said, "to throw you back (để ném mi trở lại). However small you may be (Dù mi có nhỏ bé đến đâu), you are better than nothing at all (không có gì). " A small gain (lợi ích) is worth (đáng giá) more than a large promise (lời hứa). Chúc các bạn học vui vẻ!
The Young Crab and His Mother (Cua con và Mẹ của nó) Bấm để xem "Why do you walk sideways (đi ngang) like that (như vậy) ?" said a Mother Crab to her son (một con cua mẹ nói với con). "You should always walk straight forward (đi thẳng về phía trước) with your toes turned out (với ngón chân hướng ra ngoài). " "Show me how to walk (Hãy chỉ cho con cách đi), mother dear (mẹ yêu)" answered the little Crab obediently (ngoan ngoãn), "I want to learn." So the old Crab tried to (con cua già cố gắng) walk straight forward. But she could walk sideways only (chỉ có thể đi ngang), like her son (giống như con trai cô ấy). And when she wanted to turn her toes out (muốn đưa ngón chân của mình ra) she tripped (vấp ngã) and fell on her nose (ngã vào mũi của cô ấy). Do not tell others how to act (Đừng nói người khác cách hành động) unless you can set a good example (trừ khi bạn có thể nêu gương tốt). Chúc các bạn học vui vẻ!