"Bắc Nam là con một nhà Là gà một mẹ, là hoa một cành Nguyện cùng biển thẳm non xanh Thương nhau nuôi chí đấu tranh cho bền." Quả thật vậy, trong hành trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã có không ít những tác phẩm văn học từng đem lại biết bao sức mạnh và niềm tin cho nhiều thế hệ. Và một trong số những tác phẩm đó chính là bài thơ "Tỏ lòng" của Phạm Ngũ Lão. Khúc tráng ca lẫm liệt ấy luôn khơi dậy trong mỗi tâm hồn Việt Nam niềm tin và tinh thần quyết thắng trước mọi thế lực xâm lăng. Sức mạnh lay động ấy đã ngời tỏa ngay từ vẻ đẹp người anh hùng thời Trần- kết tinh hùng tâm tráng chí của dân tộc Việt Nam. "Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (Múa giáo non sông trải mấy thu) * * * Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu" Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên). Ông là con rể (lấy con gái nuôi) của Trần Hưng Đạo, được giữ đội quân hữu vệ. Ông có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên, làm đến chức Điện súy, được phong tước Quan nội hầu. Là võ tướng nhưng ông thích đọc sách, ngâm thơ và từng được ngợi ca là người văn võ toàn tài. Lúc ông qua đời, vua Trần Minh Tông ra lệnh nghỉ chầu năm ngày để tỏ lòng thương nhớ. Sách Đại Việt Sử kí toàn thư ghi: Phạm Ngũ Lão là tướng đời Trần, tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Nguyên "đánh đâu thắng đấy". Ông lo việc binh, đồng thời "lại thích đọc sách, ngâm thơ". Cũng như nhiều danh tướng đời Trần, Phạm Ngủ Lão vừa cầm quân đánh giặc. Vừa viết những áng văn thơ để lại muôn đời Trong đó nổi tiếng hơn cả là bài Thuật hoài. Đọc bài thơ này, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp hùng dũng cao cả của người trai đời Trần. Cũng như Cảm hoài, Ngôn hoài; Thuật hoài là một loại thơ trữ tình "ngôn chí" khá phổ biến trong thơ ca thời trung đại, để bày tỏ những ý nghĩ, những tình cảm lớn của tác giả (Thuật hoài có nghĩa là Tỏ lòng). Đến nay, chúng ta chưa nắm được đích xác hoàn cảnh sáng tác của bài thơ. Tuy nhiên, dựa vào nội dung của tác phẩm có thể khẳng định bài thơ này ra đời trong không khí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân đời Trần, khi lực lượng của nước Đạị Việt đã lớn mạnh nhưng trong chiến đấu chống giặc Nguyên – Mông chưa đi đến thắng lợi cuốí cùng. Tác phẩm được sáng tác trong không khí quyết chiến quyết thắng của nhà Trần trong công cuộc chống quân Mông – Nguyên. Bài thơ "Thuật hoài" chính là bức chân dung tự họa về vẻ đẹp của con người trong thời đại hào khí Đông A. Bài thơ viết theo thể tứ tuyệt luật Đường, 4 câu, mỗi câu 7 âm tiết. Hai câu đầu được dịch là: "Múa giáo non sông trải mấy thu Ba quân hùng khí át sa0 Ngưu." Trong nguyên bản, hai câu này là: "Hoành sóc giang san cáp kỉ thu Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu." Con người hiện lên qua câu thơ đầu mang một tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao mạnh mẽ. Câu thơ dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ đất nước. Cây trường giáo ấy dường như được đo bằng chiều ngang của non sông. Nghĩa là chủ nhân cầm cây giáo ấy phải mang kích cỡ, tầm vóc vũ trụ. So với bản phiên âm, phần dịch thơ vẫn chưa diễn tả được hết sức mạnh, vẻ đẹp của tráng sĩ. "Hoành sóc" được dịch thành "múa giáo" dễ làm cho người đọc hiểu không hoàn toàn đúng. "Hoành sóc" tức là cầm ngang ngọn giáo, cả câu có nghĩa là *cầm ngang ngọn giáo (bảo vệ) non sông đã mấy mùa thu. Chỉ cần 7 chữ nhưng câu thơ trên đây tả gợi được hình ảnh của người trai đời Trần và cũng chính là của Phạm Ngũ Lão với tư thế hùng düng, luôn kiên cường, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, lập nên những chiến công huy hoàng. Dẫu họ đã ngoan cường chiến đấu bao năm tháng trải mấy thâu "– mấy mùa thu rồi) nhưng vẫn bừng bừng một khí thế, một sức mạnh hiên ngang bất khuất. Sự kì vĩ ấy càng hiện rõ trong mối quan hệ với không gian và thời gian: Không gian mở ra theo chiều rộng sông núi, thời gian được đo đếm bằng mùa, năm (kháp kỷ thu) chứ đâu phải chỉ trong chốc lát Hơn nữa, sự kì vĩ, hào hùng của hình tượng người anh hùng càng được nâng lên qua khí thế hào hùng của thời đại: " Tam quân tì hổ khí thôn ngưu (Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu) " Hình ảnh" ba quân "là để nói về quân đội nhà Trần nhưng đồng thời còn là hình tượng biểu trưng cho sức mạnh dân tộc. Ở đây nghệ thuật so sánh đã vừa cụ thể hóa sức mạnh vật chất ba quân (mạnh như hổ báo) vừa hướng tới khái quát hóa sức mạnh tinh thần của đội quân mang hào khí Đông A (khí thế át sao trời). Ở câu thơ này, phần dịch thơ với cụm từ" nuốt trôi trâu "cũng chưa diễn tả được hết sức mạnh của quân đội như" khí thôn ngưu "trong bản phiên âm. Hình ảnh ba quân với khí thế dũng mãnh này chính là cái nền tôn thêm chất hùng tráng của hình tượng người tráng sĩ" hoành sóc ". Và tự bản thân hình ảnh" Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu "đã khẳng định sự tất thắng của dân tộc trước kẻ thù xâm lăng. Sức mạnh của" ba quân' được ví như sức mạnh ghê gớm của hổ báo làm át sao Ngưu. Còn một cách hiểu khác không kém phần ý nghĩa: Sức mạnh của ba quân như hổ báo có thể nuốt trôi được cả trâu. Như vậy, câu thứ nhất nói về cá nhân người trai đời Trần câu thứ hai nói về dân tộc, về cộng đồng. Như vậy, chỉ bằng hai câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã phác họa thành công tư thế của nhân vật trữ tình – chàng trai đờỉ Trần và tư thế của dân tộc ta trong một thời điểm lịch sử với một tầm vóc lớn và quyết tâm lớn. Nhân vật trữ tình ở đây mang vẻ đẹp sử thi, tầm vóc sử thi. Phạm Ngũ Lão không chỉ phát ngôn nhân danh cá nhân mình mà ông còn nhân danh cả dân tộc, cả thời đại. Hình ảnh người tráng sĩ cắp giáo tung hoành nơi trận mạc, hình ảnh ba quân khí thế ngất trời ta đã gặp nhiều trong văn học trung đại của Việt Nam cũng như của Trung Quốc, (Chàng chinh phu trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn cũng từng "Múa gươm rượu tiễn chưa tàn – ngang lưng ngọn giáo vào ngàn hang beo". Nói về tướng sĩ trong bài Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, Lê Thánh Tông cũng có câu "Miệng thòm thèm giương dạ nuốt trâu – Chí hăm hở dang tay bắt vượn"). Song, nếu ở những câu vừa dẫn là những hình ảnh ước lệ nặng tính chất ngao du khoa trương, thì trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão là những hình ảnh tuy cũng thật kì vĩ nhưng là những hình ảnh chân thực, hiện thực, bởi người đọc biết rằng chúng ra đời trong không khí quyết chiến, quyết thắng vĩ đại của quân dân ta đời Trần. Tại Hội nghị Bình Than, các bô lão Đại Việt đã nhất tể thể hiện tinh thần ấy. Và mỗi binh sĩ thời ấy đều thích hai chữ "sát thát" (giết giặc Nguyên) vào cánh tay. Không chỉ đẹp ở sự kì vĩ, lẫm liệt, hào hùng, hình tượng người anh hùng còn đẹp bởi cái chí, cái tâm cao cả. Đó là con người ôm ấp hoài bão, lí tưởng thật cao đẹp. Với Phạm Ngũ Lão, lí tưởng sống mà ông hướng tới là đánh giặc lập công để đền ơn vua, báo nợ nước. Lý tưởng cao đẹp ấy được thể hiện qua món nợ công danh và nỗi thẹn với vĩ nhân: "Công danh nam tử còn vướng nợ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu" Hai câu thơ đã thể hiện hùng tâm, tráng chí của người anh hùng thời Trần. Đó là lí tưởng sống của bao trang nam nhi thời phong kiến. Người trai đời Trần không chỉ cao đẹp ở tư thế sẵn sàng chiến đấu, mà còn cao đẹp bởi có một. Quan niệm nhân sinh tích cực. Lập công chính là làm nên sự nghiệp lớn trong công cuộc bảo vệ và dựng xây đất nước. Có công thì mới được ghi danh (têii). Mỗi con người chân chính, đặc biệt đối với những người làm trai, niềm khao khát làm nên sự nghiệp, lưu lại tên tuổi mình cho hậu thế là niềm khao khát chính đáng. Đây chính là động lực to lớn để không ít người có sức mạnh vượt, qua những thử thách cam go lập nên những kì tích vang dội, thúc đẩy sự tiến bộ của toàn xã hội. Chính vì the mà sau Phạm Ngũ Lão 6 thế kỉ, Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định: Làm trai sống ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông. Và không hiểu tự thuở nào ông cha ta vẫn thường khích lệ cháu con: "Làm trai cho đáng nên trai – Xuống đông, đông tĩnh; lên đoài, đoài tan". Đây chắc chắn không phải là thói hátn danh phàm tục, trái lại là một quan niệm nhân sinh tiến bộ trong truyền thống dân tộc. Hay đó cũng là ý chí hiên ngang của bậc lão anh hùng trong "Cảm hoài" : "Quốc thù chưa trả già sao vội Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chầy" (Đặng Dung) Câu thơ của Phạm Ngũ Lão đã nói lên khát vọng lập nên công danh sánh ngang với bậc tiền nhân lỗi lạc. Và ý thơ cũng ẩn chứa một lời thề trọn đời cống hiến, xả thân cho vương triều nhà Trần, cho non sông đất nước Đại Việt. Hùng tâm tráng chí của người anh hùng được thể hiện ở ngay nỗi "thẹn" - thẹn chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu đời Hán để trừ giặc cứu nước. Đây là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão được đem hết tài trí để cống hiến cho đất nước. Sau này trong văn chương, chúng ta cũng bắt gặp những cái "thẹn" rất cao đẹp như trong thơ Nguyễn Khuyến: "Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào" (Thu vịnh) Với Nguyễn Khuyến đó là cái "thẹn" của một nhà nho – nghệ sĩ. Còn trong "Thuật hoài" là nỗi thẹn của bậc anh hùng – nghệ sĩ. Ở đây, cái hay không chỉ ở nội dung toát ra từ câu thơ của Phạm Ngũ Lão mà còn ở chính con người tác giả. Ta đều biết, viên tướng làng Phù ủng này là người "công danh" lừng lẫy đánh đông dẹp bắc, tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, cho đến khi tuổi đã cao ông vẫn còn hăng hái cầm quân đánh tan bọn xâm lược quấy rối biên giới phía Tây Tổ quốc, và được phong chức Điện suý thượng tướng quân (1302), được ban tước Quan nội hầu (1318). Thế nhưng, Phạm Ngũ Lão vẫn cảm thấy mình còn "vương nợ" với đời, còn phải "thẹn" khi nghe chuyện Khổng Minh Gia Cát Lượng 1 một nhân vật siêu việt, có công lớn giúp Lưu Bị thời Tam quốc chia ba thiên hạ. Điều này đủ biết khát vọng và nhân cách của tác giả cao cả biết nhường nào? Phải chăng, chính vì ý thức được món nợ chưa trả xong đối với dân tộc, đối với đất nước, chính vì biết "thẹn" trước những nhân vật lẫy lừng trong sử sách đã tạo nên tầm vóc tuyệt vời của nhà thơ – chàng trai đời Trần, người anh hùng Phạm Ngũ Lão với những chiến tích vang dội và với bài Thuật hoài bất hủ này. Và vẻ đẹp của người anh hùng "Sát Thát" ấy được Phạm Ngũ Lão khắc họa bằng bút pháp rất đặc sắc: Ngôn ngữ tráng lệ, kì vĩ, gợi ra dáng vóc của những người anh hùng thần thoại, những người dũng sĩ trong sử thi.. Đặc biệt, là bài thơ tỏ chí, tỏ lòng nhưng không hề khô khan bởi nghệ thuật dựng hình ảnh biểu tượng, hàm súc, giàu ý nghĩa. Với vẻ đẹp rực sáng ấy, hình tượng người anh hùng đời Trần chính là ngọn đuốc soi sáng cho chúng ta trong cuộc sống hiện nay. Trước hết, vẻ đẹp kì vĩ, lẫm liệt của người tráng sĩ luôn khơi dậy trong mỗi chúng ta ý thức rèn luyện, tu dưỡng về mặt thể chất. Hơn thế, ý chí được thể hiện qua nỗi "thẹn" của người anh hùng chính là kim chỉ nam định hướng lí tưởng sống cho mỗi người. Vậy nỗi 'thẹn "của Phạm Ngũ Lão có thể hiểu như thế nào? Trước hết, đó có thể là vì lòng yêu nước vô cùng sâu sắc, ý thức trách nhiệm với giang sơn quá lớn lao khiến cho tác giả không hài lòng với công trạng của mình. Cũng có thể đó là vì lòng khiêm tốn rất chân thành mà thấy công trạng của mình không đáng kể. Hoặc vì lý tưởng sống của chàng thanh niên yêu nước này quá hào hùng với khát vọng vươn tới những đỉnh cao chiến công khiến ông không bằng lòng với thành tích của mình. Thế nhưng, dù vì lý do gì đi nữa thì sự hổ thẹn của Phạm Ngũ Lão vẫn là sự hổ thẹn cao quý, hữu ích. Bởi nó là nguồn động lực để con người không ngừng vươn tới những đỉnh cao chiến công chứ không ngủ quên trong vinh quang hiện tại. Trong cuộc sống hiện nay, mỗi người cần sống có lý tưởng, hoài bão có mục đích cao đẹp, bởi:" Những khát vọng tốt đẹp chính là cơn gió đẩy con thuyền cuộc đời mặc dù nó vẫn thường gây nên những cơn giông tố "(Safontaine) và" Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường, không có lý tưởng thì không có phương hướng kiên định mà không có phương hướng thì không có cuộc sống "(Leptônxtôi). Chính vì vậy, mỗi người hãy hướng tới lý tưởng sống cao đẹp ngày nay là cống hiến cuộc đời cho sự nghiệp" Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh ". Hãy luôn rèn luyện, phấn đấu làm việc tận tụy và cống hiến hết mình. Là thế hệ mùa xuân của đất nước, tuổi trẻ chúng ta càng phải xác định được lý tưởng sống của mình:" Sống là cho chết cũng là cho "(Tố Hữu). Tuổi trẻ cần cảnh giác với tâm lý, hoặc là tự thỏa mãn với chút công trạng của mình hoặc đòi hỏi đất nước phải" trả công "cho mình. Hãy xác định đóng góp công sức để xây dựng đất nước là nghĩa vụ thiêng liêng và đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho tổ Quốc". Đặc biệt giờ đây khi đất nước đang còn nhiều khó khăn, đang phải "neo mình đầu sóng cả", mỗi người hãy nhận thức được đúng đắn vai trò của mình. Mũi khoan Hải Dương 981 xoáy vào thềm lục địa "Đất nước" nhói đau từ biển lên rừng, buốt tim 90 triệu người dân Việt. Và bởi nước "Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy sẽ không bao giờ thay đổi". (Hồ Chí Minh). Chính vì vậy, toàn thể dân tộc Việt Nam, nhất là tuổi trẻ trên dưới một lòng, nguyện đem tất cả tính mạng, của cải để giữ vững nền tự do, độc lập đó "(Hồ Chí Minh). Tóm lại, bài thơ đã khắc họa được chân dung người anh hùng thời Trần với biết bao vẻ đẹp. Vẻ đẹp đó sẽ là ánh sáng soi rọi cho các thế hệ sau. Tiếp bước truyền thống anh hùng của dân tộc, chúng ta nguyện sẽ" giữ từng thước đất – Máu xương này con cháu vẫn khắc ghi "(Nguyễn Việt Chiến). Và một lần nữa những áng thơ yêu nước như" Thuật Hoài"của Phạm Ngũ Lão sẽ là niềm tin vững chắc cho chúng ta hôm nay.