Hàn Tín Hùm Thiêng Khi Đã Sa Cơ

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Rùa Siêu Tốc, 19 Tháng chín 2018.

  1. Rùa Siêu Tốc Rùa ngoan nhất

    Bài viết:
    453
    [​IMG]

    Hình tượng Hàn Tín trong tác phẩm điện ảnh Hán Sở Truyền Kỳ.

    Các dân tộc Á Đông có một nền văn minh vô cùng xán lạn. Lịch sử Á Đông nói chung, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, rất hào hùng, tràn đầy khí chất. Lịch sử 5000 năm văn minh, văn hóa của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế.

    Hàn Tín (229 – 196 TCN) là người Hoài Âm, tỉnh Giang Tô. Ông là một danh tướng bách chiến bách thắng, thiên hạ vô địch, được vua Hán Cao Tổ ca ngợi là: "Nắm trong tay trăm vạn quân, đã đánh là thắng, tiến công là nhất định lấy, ta thật không bằng Hoài Âm Hầu". Thời Hán Sở tranh hùng, ông là 1 trong "tam kiệt nhà Hán" có công rất lớn giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ lập nên nhà Hán kéo dài 400 năm. Nhưng mấy ai biết, thuở chưa thành danh vì gia cảnh bần cùng mà ông phải chịu biết bao sự khinh rẻ của mọi người.

    Còn tiếp..​
     
    Mèo A Mao Huỳnh MaiCall me cat thích bài này.
    Last edited by a moderator: 20 Tháng chín 2018
  2. Rùa Siêu Tốc Rùa ngoan nhất

    Bài viết:
    453
    1. Sóng gió buổi thiếu niên

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hàn Tín sinh ra trong gia cảnh bần cùng, sa sút vì vậy trong lịch sử không có nhiều ghi chép chi tiết về gia đình ông. Có ghi chép nói rằng, Hàn Tín sinh sống cuộc sống thanh bần cùng người mẹ của mình. Ngay từ nhỏ Hàn Tín đã được tiếp xúc với binh thư và bảo kiếm, đồng thời cũng nhận được sự giáo dục tốt đẹp. Cũng có ghi chép nói rằng, tổ tiên của Hàn Tín thuộc tầng lớp quý tộc trong xã hội.

    Sau khi mẹ qua đời, cuộc sống của Hàn Tín càng thêm khốn khó. Ông thường xuyên không có cơm ăn. Bởi vì nghèo khổ nên Hàn Tín cũng phải chịu đủ mọi ánh mắt và sự khinh bỉ, bắt nạt của người khác. Tuy nhiên, ông cũng được một số người bố thí, giúp đỡ. Về chuyện Hàn Tín bị người khác nhục mạ, trong lịch sử cũng có rất nhiều câu nói có liên quan như: "Làm khách nhà Xương Đình", "Chịu nhục chui háng", "Bát cơm ngàn vàng", "Co được giãn được"..

    [​IMG]

    Hình tượng nhân vật Hàn Tín trong tác phẩm điện ảnh. Ảnh theo qulishi.com

    Viên quan nhỏ địa phương là Nam Xương Đình thấy Hàn Tín có tướng mạo đường hoàng, không phải hạng phàm phu tục tử, hiện tại bị khó khăn vây khốn nhưng tương lai nhất định sẽ làm nên việc lớn vì vậy đã rất quan tâm Hàn Tín, thường mời về nhà mình ăn cơm. Sau một thời gian, vợ của Nam Xương Đình sinh lòng hiềm khích và muốn đuổi Hàn Tín đi. Một lần Hàn Tín đến nhà Nam Xương Đình ăn cơm, vợ của Nam Xương Đình nấu ăn sớm rồi để cho người nhà ăn hết tất cả đồ ăn và dọn dẹp sạch sẽ.

    Lúc Hàn Tín đến nhà Nam Xương Đình ăn cơm, ông phát hiện ra trên bàn ăn trống trơn, ngay cả "cơm thừa canh cặn" cũng không còn. Hàn Tín vừa nhìn thấy vậy liền hiểu ra ngay, lập tức quay đầu bước đi. Từ đó về sau, Hàn Tín không còn đến nhà Nam Xương Đình ăn cơm nữa. Cũng vì chuyện này mà phát sinh ra hai câu nói: "Xương Đình chi khách""Xương Đình lữ thực" (Tạm dịch: Làm khách nhà Xương Đình).

    Trong lịch sử có rất nhiều điển tích về Hàn Tín. Một lần ông đến bên bờ sông câu cá gặp một bà lão giặt quần áo. Bà lão biết tình cảnh khó khăn của Hàn Tín nên rất đồng cảm. Bà thường xuyên chia sẻ đồ ăn của mình cho Hàn Tín. Hàn Tín vô cùng cảm kích trong lòng nên đã thề rằng sau này nhất định sẽ báo đáp ân huệ của bà.

    Về sau, Hàn Tín "mặc áo gấm" trở về quê hương, đã tặng cho bà lão nhiều vàng bạc để tỏ lòng biết ơn sự tương trợ khi xưa. Câu nói "Nhất phạn thiên kim" (Tạm dịch: Bát cơm ngàn vàng) cũng từ đây mà ra. Ý nói rằng, nhận của người một chút ân huệ dù ít ỏi giống như "dòng nước chảy nhỏ giọt", nhưng báo đáp người lại tràn đầy giống như "dòng suối chảy tuôn trào".

    [​IMG]

    "Bát cơm ngàn vàng" – Hàn Tín báo ơn. Ảnh theo jianshu.com

    Một sự việc khác cũng thể hiện rõ rằng ngay từ thời niên thiếu, Hàn Tín đã ôm ấp hoài bão, chí lớn. Đó là năm Hàn Tín 15 tuổi, mẹ của ông qua đời. Mặc dù gia cảnh bần cùng là vậy, nhưng ông vẫn chọn một khu đất rộng và cao để chôn cất mẹ. Khu vực đất xung quanh mộ mẹ ông đủ để cho vạn người dân cư trú. Điều này cho thấy rằng, năm ấy, Hàn Tín tuy còn nhỏ tuổi nhưng đã tin tưởng chính bản thân mình tương lai có thể làm được việc lớn, được phong chức tước cao.

    Thời Hàn Tín chưa thành danh còn có một việc lưu truyền đến muôn đời sau là chuyện Hàn Tín "chịu nhục chui háng". Thời ấy, gia cảnh bần cùng, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc nhưng chí hướng của Hàn Tín đặt ở nơi cao xa nên ông thường đeo bên mình một thanh bảo kiếm. Trong thành Hoài Âm có một kẻ vô lại là con trai của một người đồ tể, kẻ vô lại này rất ngang ngược, thường hay bắt nạt người khác. Một lần vì muốn hạ nhục Hàn Tín nên hắn ta đã ở nơi đông người mà chặn đường ông.

    Kẻ vô lại nói: "Ngươi khoác kiếm làm gì? Ngươi dám sát nhân không? Ngươi dám sát nhân thì chặt đầu của ta xem. Nếu ngươi không dám sát nhân thì ngươi chui háng ta mà đi". Đối mặt với sự khiêu khích đột nhiên xảy đến này, Hàn Tín không hề sợ hãi mà nhìn thẳng vào kẻ vô lại thật lâu. Cuối cùng, thần sắc không hề thay đổi, ông thực sự đã chui qua háng của kẻ vô lại mà đi.

    [​IMG]

    Hàn Tín nhẫn nhục chui háng. Ảnh theo jianshu.com

    Người thản nhiên chịu nhục có thể phân làm hai loại: Một loại là người có ý chí tinh thần sa sút, sống tạm bợ, chỉ biết hưởng an nhàn bản thân. Còn loại kia là người có chí hướng cao xa, co được giãn được, nhẫn chịu được gánh nặng. Đây là những người biết nhìn xa trông rộng. Thời xưa người ta gọi họ là "hào kiệt chi sĩ", hay "kẻ sĩ hào kiệt". Những người này tất có khí tiết hơn người thường. Người bình thường thấy nhục liền "tuốt kiếm tương đấu". Người xưa cho rằng, đây không phải là cái "dũng" của kẻ sĩ.

    Người đại dũng trong thiên hạ, gặp nguy mà không kinh, gặp rủi ro vô cớ mà không phẫn nộ. Người làm được việc lớn, ắt phải có tâm đại nhẫn, có tĩnh khí. Hàn Tín thực sự đã làm được điều này. Cho đến tận ngày nay, những điển tích Hàn Tín chịu nhục vẫn còn được lưu truyền mãi. Nhắc đến khả năng "nhẫn nhịn", không ai không nhớ đến ông để làm tấm gương mà noi theo.
     
    Mèo A Mao Huỳnh MaiMạc Vấn thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 19 Tháng chín 2018
  3. Rùa Siêu Tốc Rùa ngoan nhất

    Bài viết:
    453
    2. Thời đại loạn lạc, không đất dụng võ.

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Những năm cuối thời Chiến Quốc, cục diện chư hầu cát cứ phân tranh quyết liệt được thay thế bằng việc Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ. Năm thứ 37 tại vị, Tần Thủy Hoàng trên đường tuần thú đột ngột từ trần ở Sa Khâu. Thủy Hoàng di chiếu cho công tử Phù tô chủ trì tang lễ, sau đó lập tức băng hà. Người quản lý chiếu thư là thái giám Triệu Cao cấu kết với Thừa tướng Lý Tư bức tử Phù Tô, lập con thứ Hồ Hợi lên làm Hoàng đế, tức Tần Nhị Thế.

    Sau khi lên ngôi, Tần Nhị Thế lạm sát cựu thần và hoàng thân tôn thất, làm cho cơ nghiệp đế quốc đại Tần mà Thủy Hoàng gian khổ gây dựng trở nên lung lay dữ dội. Năm thứ nhất đời Nhị Thế (năm 210 TCN), Trần Thắng, Ngô Quảng nổi dậy tại làng Đại Trạch thống lĩnh 900 dân binh trảm mộc làm binh, giương tre làm cờ, thách thức sự thống trị của Nhị Thế. Họ thành lập chính quyền ở đất Trần, quốc hiệu là Sở, còn gọi là Trương Sở. Khắp nơi nhân sĩ phản Tần thừa thế nổi lên, liên tiếp tổ chức lực lượng, phút chốc quần hùng cát cứ, lửa cấp báo suốt ngày, dường như quay lại thời kỳ Chiến Quốc chư hầu quyết liệt phân tranh.

    Trượng kiếm tòng quân

    Trong đám quần hùng, Hàn Tín để mắt tới chú cháu Hạng Lương, Hạng Vũ bởi thân thế hiển hách, binh tinh tướng cường. Hạng Lương là con của danh tướng nước Sở Hạng Yên, vì giết người mà phải trốn đến đất Ngô, vốn có uy tín rất cao, hiền sĩ đại phu đều về cả dưới trướng. Hạng Lương nhờ thế cũng âm thầm chiêu binh mãi mã, rèn luyện quân sĩ.

    Sau khi Trần Thắng, Ngô Quảng dấy binh khởi nghĩa được 2 tháng, ở đất Ngô, chú cháu Hạng Lương dẫn 8 nghìn quân hưởng ứng, từ Giang Đông vượt sông tiến lên, dọc đường thu thêm các tướng Trần Anh, Anh Bố, Lữ Thần, Bồ tướng quân cùng quân bản bộ chiếm cứ Bành Thành, phía đông Tần Gia quận. Vào lúc này, Lưu Bang và Hàn Tín cũng cùng tham gia vào đội ngũ của Hạng Lương.

    Không lâu sau đó Ngô Quảng bị thuộc hạ giết. Tháng 12 năm ấy, tướng Tần là Chương Hàm dẫn quân phá đất Trần. Trần Thắng bị người phu xe giết, nước Trương Sở bị diệt. Hạng Lương nghe theo kiến nghị của Phạm Tăng, lập người cháu của Sở Hoài Vương tên là Tâm làm chủ, còn mình làm Vũ Tín Quân.

    Sau khi Chương Hàm đánh bại quân Trương Sở liền dẫn binh công Ngụy. Ngụy vương cầu cứu nước Tề. Chương Hàm lại đánh bại liên quân Tề – Sở, truy kích tướng Tề là Điền Vinh đến tận thành Đông A. Hạng Lương nghe tin Điền Vinh nguy cấp, lập tức dẫn binh cứu viện, đánh phá quân Tần. Chương Hàm rút chạy về mặt tây. Hạng Lương dẫn binh truy kích, tại Bộc Dương đánh bại Chương Hàm, cuối cùng đuổi tới tận Định Đào. Ở một hướng khác Hạng Vũ, Lưu Bang đại thắng quân Tần ở Ung Khâu, chém được đầu tướng Tần là Lý Do.

    Quân Tần liên tiếp thất bại. Chương Hàm điều 10 vạn đại quân bổ sung binh lực. Hạng Lương do thắng mà kiêu, đối với việc này không hề phản ứng. Hàn Tín nhìn thấy nguy hiểm nhưng vì địa vị thấp bé không có cơ hội can gián. Mưu sĩ Tống Nghĩa của Hạng Lương cũng nhìn thấy nguy hiểm tiềm ẩn, khuyên gián Hạng Lương dự phòng quân Tần tập kích. Hạng Lương không cho là phải. Quân Tần sĩ khí hừng hực, thừa cơ Hạng Lương không phòng bị đột nhiên tập kích, tiêu diệt đại bộ phận quân của Hạng Lương. Bản thân Hạng Lương tử trận.

    Hạng Vũ xuất thế

    Sau khi Hạng Lương chết, quân đội do Hạng Vũ thống lĩnh. Hạng Vũ mình cao hơn tám thước, sức nâng cửu đỉnh, tài trí hơn người, là một tướng quân vũ dũng nổi tiếng trong lịch sử, được người thời sau khen là: "Vũ chi thần dũng, thiên cổ vô nhị" (đại ý là: Dũng tướng có một không hai xưa nay).

    Thời thiếu niên, Hạng Vũ thấy Tần thủy Hoàng đi tuần, tiền hô hậu ủng, vạn người kính ngưỡng, liền đầy tự mãn nói với Hạng Lương: "Có thể thay người đó được". Hạng Vũ thấy Hàn Tín cao to oai hùng, liền bổ nhiệm làm quan chấp kích thị vệ lang (tức là một chức quan nhỏ chuyên vác kích). Vì vậy Hàn Tín có cơ hội tiếp xúc gần gũi với Hạng Vũ.

    [​IMG]

    Hàn Tín làm chức quan cầm kích dưới trướng Hạng Vũ. Ảnh qua: Epochtimes.com

    Sau trận đại chiến ở Định Đào, Sở Hoài Vương e sợ quân Sở sĩ khí sa sút nên lệnh cho Hạng Vũ rút quân về Bành Thành để tiến lui nương tựa lẫn nhau. Bên phía quân Tần, Chương Hàm thấy nhất thời khó thắng quân Sở nên chuyển lên hướng bắc đánh nước Triệu. Triệu vương bị vây khốn ở Cự Lộc, cầu cứu chư hầu. Tề quốc, Yên quốc đều phái viện binh. Đại tướng Trần Dư và tướng quốc Trương Ngao nước Triệu cũng đem binh tới. Nhưng dưới miệng hùm của đại quân Chương Hàm, không ai dám khiêu chiến quân Tần. "Quân chư hầu cứu viện Cự Lộc hơn 10 doanh trại chỉ đắp lũy không dám tung binh" (Sử ký – Hạng Vũ bản kỷ).

    Mùa đông năm thứ 3 thời Tần Nhị Thế, Sở Hoài Vương phái 2 đường viện quân. Đường thứ nhất do Tống Nghĩa làm thượng tướng quân, Hạng Vũ làm phó tướng dẫn 5 vạn quân cứu viện nước Triệu. Một đường khác do Lưu Bang làm tướng, tiến binh đánh Hàm Dương. Lại cùng ước định, ai lấy được Quan Trung trước thì làm vương.

    Tống Nghĩa tới An Dương, lưu lại 46 ngày không đi, muốn chờ xem Tần – Triệu đánh nhau để "ngư ông đắc lợi". Không có viện quân khẳng định là Triệu quốc không phải là địch thủ của Chương Hàm. Nếu như Chương Hàm giải quyết xong Triệu quốc thì mục tiêu tiếp theo sẽ là nước Sở vừa bại trận. Lúc đó ở An Dương trời mưa giá lạnh, quân Sở thiếu lương, binh sĩ đói rét, kéo dài như vậy tất có đại biến. Hạng Vũ nhiều lần khuyên gián bắc tiến cứu Triệu đều bị Tống Nghĩa cự tuyệt, lại ra lệnh trong quân ai không nghe lệnh thì chém. Hạng Vũ cùng bất đắc dĩ liền giết Tống Nghĩa, tự đảm nhận chức thượng tướng quân. Sở Hoài Vương ngoài tầm kiểm soát cũng đành chấp nhận.

    Số lượng quân Sở ít hơn quân Tần rất nhiều, các lộ viện quân đều sợ thanh thế quân Tần, các trại đều phòng thủ đắp lũy đứng xem. Hạng Vũ chỉ còn cách độc lập tác chiến. Hạng Vũ trầm tĩnh điều binh, đầu tiên phái Anh Bố lĩnh 2 vạn quân Sở cắt đứt đường ứng cứu giữa Chương Hàm và các cánh quân khác, còn tự mình dẫn 3 vạn binh sĩ vượt sông. Sử Ký – Hạng Vũ bản kỷ chép Hạng Vũ: "Sau đó đánh chìm tất cả thuyền, đập nồi, phá bếp, chỉ mang 3 ngày lương thực, biểu thị sĩ tốt liều chết, không thay lòng". Không có đường về, sĩ tốt chỉ có cách liều chết mà đánh. Thành ngữ "đập nồi đắm thuyền" là do đó mà có.

    [​IMG]

    Tranh minh họa Hạng Vũ. Ảnh qua: Epochtimes.com

    Tới Cự Lộc, quân Sở nhanh như chớp bao vây quân Tần, toàn quân lấy 1 địch 10, Hạng Vũ tự thân xông xáo trận tiền chém giết, "tiếng hét của Hạng Vũ kinh thiên động địa" (Tiền Hán Ký). Quân Sở càng đánh càng hăng, đánh cho quân Tần kinh tâm động phách, tới cuối quân Sở đánh 9 trận, thắng cả 9. Tướng Tần là Tô Giác tử trận, Vương Ly bị bắt, Thiệp Nhàn không chịu hàng đã tự thiêu.

    Quân cứu viện chư hầu đứng xem từ đầu đến cuối không khỏi kinh ngạc, cho tới khi quân Tần thua chạy mới xông ra khỏi trại trợ chiến, giải vây cho Cự Lộc. Hạng Vũ từng bước ép mạnh, Chương Hàng liên tiếp thua chạy. Cuối cùng vào tháng 7 năm thứ 3 Tần Nhị Thế, tại Ân Khư, Chương Hàm cùng 20 vạn quân Tần đầu hàng Hạng Vũ. Đội quân chủ lực của Tần đã từng diệt 6 nước, đánh bại Hung Nô hùng mạnh, giờ lại bị Hạng Vũ diệt tan thành mây khói.

    Chiến tranh kết thúc, Hạng Vũ triệu kiến các tướng lĩnh chư hầu. Các tướng quỳ gối mà vào, không dám ngước nhìn. Triệu Vương cũng tới bái kiến, quỳ lạy ơn cứu giúp của Hạng Vũ. Hạng Vũ được phong làm Thượng tướng quân, thống soái các lộ quân của chư hầu.

    Lưu Bang nhập quan

    Mặc dù Hạng Vũ đã giải quyết xong quân chủ lực nhà Tần, trở thành chư hầu Thượng tướng quân nhưng người đầu tiên chiếm được Hàm Dương, kinh đô nước Tần lại là Lưu Bang.

    Lưu Bang, người ấp Phong, quận Bái, xuất thân bình dân, 48 tuổi khởi binh ở huyện Bái nên còn gọi là Bái Công. Thời thanh niên cả ngày rong chơi, vô công rồi nghề, giao du với một đám du thủ du thực, lại thêm có thói vung tay quá trán. Nhưng ông có khả năng thuyết phục phục nên rất được lòng người, sau làm tới đình trưởng ở Tứ Thủy.

    Lưu Bang không thích đọc sách, trong bụng coi thường những kẻ đọc sách. Sử ký chép, có lần một thư sinh nho quan tới cầu kiến bị Lưu Bang lột mũ tiểu vào và chửi mắng. Năm đó lại có Lệ Thực Kỳ (có bản dịch là Lịch Tự Cơ) tới cầu kiến. Người nhà nói là người đọc sách, Lưu Bang không tiếp. Cuối cùng Lệ Thực Kỳ tự nhận là Cao Dương tửu đồ, Lưu Bang vội vàng mời vào tương kiến hoan hỷ. Sở trường của ông là dùng quyền mưu, mưu sâu kế hiểm, gió chiều nào che chiều ấy, biết cách khống chế những thuộc hạ có năng lực nên thủ hạ cũng có không ít kẻ tài năng, tỏ ra xuất chúng trong việc cướp công sức thành quả của người.

    [​IMG]

    Tạo hình Lưu Bang trên điện ảnh. Ảnh qua: Baidu

    Trong lúc Hạng Vũ cùng quân Tần trực diện giao tranh kịch liệt, phá vòng vây nguy hiểm thì Lưu Bang dẫn binh đột nhập Quan Trung. Lúc đó Triệu Cao đã giết Tần Nhị Thế. Sau đó Tử Anh lại giết Triệu Cao, tự xưng là Tần Vương. Lưu Bang tiến đánh Hàm Dương, Tử Anh không có khả năng chống cự nên đành lên xe ngựa trắng, treo cờ rủ, đi đường nhỏ, tự thân bưng Hoàng đế ngọc tỷ và phù tiết dâng nộp Lưu Bang đầu hàng. Tần triều diệt vong từ đấy.

    Lưu Bang vào trong thành Hàm Dương, nhìn thấy cung điện nguy nga tráng lệ và những thứ Hoàng đế chuyên dùng như màn trướng, xe ngựa, trùng trùng báu vật và phụ nữ, ngẩn người không muốn rời xa, hoàn toàn quên khuấy bên ngoài cục diện loạn lạc miệng hùm nanh sói. Lưu Bang tính nghỉ ngơi, ở lại trong cung. Phàn Khoái và Trương Lương đã rất vất vả luân phiên khuyên giải, cuối cùng thuyết phục được Lưu Bang niêm phong hoàng cung và quốc khố, đến Bá Thượng đóng quân. Lại theo kiến nghị của Tiêu Hà tuyên bố 3 điều: Giết người đền mạng, hại người, trộm cướp đền tội, đồng thời phế bỏ Tần luật, còn các phương diện khác như bình thường. "Người Tần rất mừng, tranh mang bò dê rượu khoản đãi quân sĩ" (Sử Ký – Cao tổ bản kỷ).

    Hạng Vũ trực diện chiến đấu, vào sinh ra tử nhưng thành quả thắng lợi lại bị Lưu Bang nẫng mất, phẫn uất không thể bỏ qua, lập tức dẫn đại quân 40 vạn tiến gấp về Quan Trung, đóng quân ngoài cửa Hồng môn thành Hàm Đan. Mưu sĩ Phạm Tăng hiến kế, nói: "Lưu Bang ở Quan Đông vốn tham tài háo sắc, giờ không lấy tài vật, không luyến mỹ nữ, có thể thấy dã tâm không nhỏ, nên sớm diệt trừ". Tả Tư mã của Lưu Bang là Tào Vô Thương cũng phái người tới báo tin chứng thực là Lưu Bang có tâm xưng Vương. Hạng Vũ lập tức hạ lệnh sáng sớm tiến công.

    Toàn bộ binh lực của Lưu Bang có 10 vạn, lại không tinh nhuệ như quân Sở. Nếu như hai bên đối địch, không cần đánh cũng biết kết quả. Chú của Hạng Vũ là Hạng Bá để báo đáp ân cứu mạng của Trương Lương, suốt đêm phi ngựa tới Bá Thượng tìm Trương Lương báo tin. Trương Lương không muốn một mình thoát thân nên lập tức báo Lưu Bang. Lưu Bang nghe xong thất kinh biến sắc, nhất thời tay chân bủn rủn, vô lực.

    So sánh lực lượng quá chênh lệch, chỉ còn cách tỏ thế yếu nhược van xin là thượng sách. Sau khi Lưu Bang cùng Trương Lương thương nghị vắn tắt lập tức mời Hạng Bá vào trướng, kính rượu hàn huyên, lại còn hứa gả con gái cho Hạng Bá kết làm thân gia. Nhân lúc chuyện trò vui vẻ, Lưu Bang nói rõ mình vốn không có dã tâm xưng vương, tất cả những việc đã làm ở Quan Trung đều là để chuẩn bị đón Hạng Vũ.

    Hạng Bá hứa sẽ về nói rõ lại với Hạng Vũ, lại còn dặn Lưu Bang ngày hôm sau nên đích thân đến bái tạ Hạng Vũ. Hạng Vũ trong tay nắm trọng binh, xem thường thiên hạ, vốn dĩ cũng không đặt Lưu Bang vào tầm ngắm, lại thêm Hạng Bá xảo biện, nói vài câu câu liền động tâm, bỏ kế hoạch tấn công Bá Thượng.

    [​IMG]

    Tạo hình Phạm Tăng trên điện ảnh. Ảnh qua: 3lian.com

    Ngày thứ 2, Lưu Bang đem theo Trương Lương và tướng quân Phàn Khoái tự thân tới Hồng Môn, biểu thị là mình chỉ trông coi Hàm Dương đợi Hạng Vũ tới xưng vương. Hạng Vũ tin tưởng Lưu Bang, thiết tiệc chiêu đãi. Phạm Tăng, vốn được Hạng Vũ tôn kính gọi là á phụ (cha nuôi) vẫn thủy chung cho rằng Lưu Bang là mầm đại họa, kiên trì muốn lấy mạng ông ta, nhổ cỏ tận gốc, trừ tuyệt hậu họa. Đó chính là bữa tiệc với một trường sát khí nổi tiếng trong lịch sử: "Hồng Môn yến".

    Trong tiệc, Phạm Tăng ngồi bên mấy lần ám thị Hạng Vũ động thủ giết Lưu Bang, nhưng Hạng Vũ đều vờ như không thấy. Phạm Tăng sai đại tướng quân Hạng Trang tới trước bàn rượu múa kiếm góp vui, tìm cơ hội giết Lưu Bang. Hạng Bá vội vàng rút kiếm cùng múa, lại lấy thân mình che cho Lưu Bang khiến cho Hạng Trang không cách nào ra tay nổi.

    Trương Lương thấy tình thế cấp bách, vội ra ngoài gọi Phàn Khoái. Phàn Khoái trước kiếm sống bằng nghề giết chó, là bộ hạ dũng mãnh nhất của Lưu Bang. Nghe thấy Lưu Bang gặp nạn, Phàn Khoái tay cầm khiên và kiếm xông vào trướng. Binh sĩ thủ vệ muốn ngăn trở, Phàn Khoái dùng khiên đẩy một cái, vệ binh đều ngã nhào trên đất.

    Phàn Khoái vén màn che trướng, trừng mắt nhìn Hạng Vũ, tóc tai dựng ngược, mí mắt như muốn rách, trách cứ Hạng Vũ: "Lưu Bang hạ xong Hàm Dương, không chiếm đất xưng vương, mà quay về Bá Thượng, đợi đại vương đến. Một người có công như vậy, vẫn chưa được phong thưởng gì, ngài lại nghe lời tiểu nhân muốn giết người anh em của mình!". Hạng vũ nghe xong trong lòng hổ thẹn. Lưu Bang thừa cơ giả đi vệ sinh, đem theo tùy tùng chạy về doanh trại Bá Thượng.

    Mưu sĩ Phạm Tăng thấy Hạng Vũ nhu mì không quyết, để xổng Lưu Bang, phẫn khí tuyệt vọng, thở dài nói: "Ầy, thằng bé này đúng là không thể cùng bàn mưu đại sự. Đoạt thiên hạ của Hạng vương tất là Bái công. Chúng ta rồi sẽ bị bắt làm tù thôi". (Sử ký – Hạng Vũ kỷ). Lưu Bang về tới trong quân liền xử chết Tào Vô Thương. "Hồng Môn yến" sau này trở thành từ chỉ buổi yến hội không có ý tốt. Cũng từ đó mà có thành ngữ "Hạng Trang múa kiếm, ý tại Bái công".
     
    Mèo A Mao Huỳnh MaiMạc Vấn thích bài này.
    Last edited by a moderator: 20 Tháng chín 2018
  4. Rùa Siêu Tốc Rùa ngoan nhất

    Bài viết:
    453
    3. Vạn dặm tìm minh chủ, đất khách gặp tri âm

    Bấm để xem
    Đóng lại
    [​IMG]

    Sau yến tiệc Hồng Môn, Hạng Vũ dẫn đầu chư hầu tiến vào Hàm Dương. Tần Vương Tử Anh tuy là quân vương bại quốc, nhưng vẫn là thân phận đế vương, Hạng Vũ không những không tiếp đãi đúng lễ, trái lại còn giết chết Tử Anh cùng tất cả vương tộc, tông thất và đại thần nước Tần, lại một tay châm lửa thiêu hủy cung Hàm Dương và lăng Tần Thủy Hoàng, ngọn lửa lớn cháy 3 tháng ròng vẫn chưa tắt.

    Ngọn lửa lớn này đã tạo thành phá hoại to lớn đối với nền văn hóa Trung Hoa, khiến cho tất cả tài liệu mà Tần Thủy Hoàng vất vả gây dựng sau khi thống nhất giang sơn và vô số điển tịch văn hóa từ trước thời nhà Tần đều bị hủy trong một sớm. Ghi chép hàng mấy nghìn năm của nền văn minh Hoa Hạ từ thời nhà Tần trở về trước gần như đều đã bị hủy hết trong một mồi lửa.

    Một sai lầm to lớn khác của Hạng Vũ chính là đẩy Trung Hoa vốn đã được thống nhất trở về cục diện chư hầu cát cứ một lần nữa. Đương thời rất nhiều kẻ sĩ thức thời khuyên can ông định đô xưng đế ở Hàm Dương, bởi Quan Trung núi sông ngăn trở, dễ thủ khó công, đất đai màu mỡ, trù phú một vùng, thật quả là nơi lý tưởng xây dựng kinh đô xưng bá thiên hạ.

    Nhưng Hạng Vũ lại nhất quyết đi về phía đông, cách nghĩ của ông là: "Phú quý không về lại quê nhà, chẳng khác chi mặc áo gấm đi đêm". Sau cùng, Hạng Vũ khăng khăng phân phong thiên hạ, hoàn toàn vứt bỏ trung ương tập quyền cũng như chế độ quản lý của nhà Tần, lập ra 18 vương chư hầu, bản thân ông tự phong mình là Sở Bá Vương, quyền ngang với hoàng đế. Bá, thời xưa hiểu là "Bá", "Bá" trong bá trọng thúc quý (thứ tự anh em trai: Cả, hai, ba, tư), ngụ ý là người anh cả trong số các vương, vua của các vua vậy. Lúc này, Hạng Vũ thực sự đã đạt đến đỉnh điểm vinh quang của sự nghiệp.

    [​IMG]

    Tạo hình Hạng Vũ trên điện ảnh.

    Hàn Tín là thị vệ theo bên Hạng Vũ, nhiều lần bày mưu hay nhưng Hạng Vũ lại tự phụ cao ngạo, cho rằng mình là thiên hạ vô địch, căn bản vốn không xem kiến nghị của một vệ sĩ quèn vào đâu. Chỉ riêng hai việc hỏa thiêu Hàm Dương và phân phong thiên hạ đã cho thấy Hạng Vũ là người tầm nhìn thiển cận, chỉ biết hành sự theo cảm tính. Hàn Tín nhận thấy rằng đi theo Hạng Vũ thì không cách nào thực hiện được lý tưởng rộng lớn của mình. Thế là ông phân tích hết từng người một trong số 18 lộ chư hầu, cuối cùng tầm mắt dừng lại ở Hán Trung vương Lưu Bang.

    Tháng 4 (năm 206 TCN), năm đầu Hán Cao Đế, các chư hầu vương nhận phong đều thi nhau bãi binh dựng nước. Hạng Vũ cũng "áo gấm về làng", vui mừng về Bành Thành làm Tây Sở Bá Vương. Còn về Lưu Bang, trong lòng Hạng Vũ vẫn không yên tâm, lúc phong vương không hề phong cho ông ta làm Quan Trung Vương theo đúng giao ước, mà là kìm hãm ông ở Hán Trung, Ba Thục để hạn chế Lưu Bang bành trướng lực lượng.

    Vào thời Tần, vùng đất Ba Thục vẫn còn chưa khai phá, được xem là nơi rừng thiêng nước độc, đói kém hoang vu, "tội nhân thời Tần đều bị lưu đày đến đó" (Tư Trị Thông Giám – quyển 9), nhưng cũng được tính là "đất Quan Trung". Vậy nên phong đất Ba Thục cho Lưu Bang cũng không thể tính là Hạng Vũ không làm trái giao ước. Vùng đất màu mỡ thực sự của Quan Trung được phân cho ba vị tướng Tần là Chương Hàm, Tư Mã Hân và Đổng Tiễn, hình thành thế bao vây đối với Lưu Bang, chặn đứng con đường Lưu Bang tiến quân vào Trung Nguyên.

    Lưu Bang căm hận cùng cực nhưng lại không thể làm gì khác hơn. Hạng Vũ chỉ cho phép ông ta dẫn theo 3 vạn binh mã, trong quan đại thần dưới trướng ông ta chỉ có Tiêu Hà được tính là hiền tài trị quốc. Mưu sĩ Trương Lương vốn là người nước Hàn, lúc đó đã đi phò tá Hàn vương Thành. Còn những võ tướng khác như Tào Tham, Chu Bột, Phàn Khoái, Hạ Hầu Anh, Quán Anh đều không phải là những nhân vật kiệt xuất gì, căn bản không phải là đối thủ của Hạng Vũ, nếu như chống lại, nhất định là trăm chiến trăm bại. Lưu Bang chỉ có thể nuốt hận, dẫn quân tây tiến đi vào Hán Trung.

    Hàn Tín chính ngay lúc này đã lặng lẽ rời khỏi Hạng Vũ, đi theo đoàn người của Lưu Bang tiến vào Hán Trung. Lần này đã thay đổi vận mệnh của hai nhân vật lịch sử Lưu Bang và Hạng Vũ này, cũng đã thay đổi chiều hướng phát triển của lịch sử.

    Tiêu Hà dưới trăng đuổi Hàn Tín

    [​IMG]

    Tạo hình Hàn Tín trên điện ảnh. Ảnh: DKN

    Từ Quan Trung đến Hán Trung, cần phải đi qua sạn đạo (đường núi hiểm trở) Tần Lĩnh. Trước khi Trương Lương chi tay với Lưu Bang, thấy cảnh ngộ của Lưu Bang bất lợi, đã đề nghị ông hãy thiêu hủy hết thảy sạn đạo mà họ đã đi ngang qua. Một là để phòng ngừa bọn chư hầu Chương Hàm tiến công vào Hán Trung. Điều quan trọng hơn là khiến Hạng Vũ lơ là cảnh giác, khiến ông ta tin rằng Lưu Bang không có dã tâm đoạt lấy thiên hạ.

    Nhưng từ một phương diện khác, điều đó cũng hoàn toàn phong tỏa chính bản thân Lưu Bang ở đất Thục. Nếu như không có kỳ mưu diệu kế, chỉ có thể già chết ở Hán Trung. Lưu Bang vốn không còn lựa chọn nào khác, chỉ có thể giữ mình bình an trước rồi mới tính đến những phương án khác.

    Mới đầu khi mới đến Hán doanh, Hàn Tín một là không có công trạng, hai là không có thế lực, chỉ được làm chức "liên ngao", chức quan nhỏ này cụ thể là làm những gì trên sử sách đều không hề ghi chép rõ ràng. Với chức vị thấp kém như vậy làm sao có thể có được cơ hội để thực hiện hoài bão to lớn của mình đây!

    Chính ngay lúc Hàn Tín đang cảm thấy chán nản, lại bởi đã vi phạm quân pháp sắp bị xử tử. 13 người khác cùng vi phạm đều đã bị xử trảm, mắt thấy đã sắp đến phiên mình, ông liền ngửa mặt nhìn trời, thấy Hạ Hầu Anh đi ngang qua, thế là lớn tiếng nói rằng: "Hán Vương không phải muốn có được thiên hạ sao? Sao lại muốn xử tử tráng sĩ đây" (Sử Ký – Hoài Âm Hầu liệt truyện).

    Hạ Hầu Anh cùng Lưu Bang vốn thân nhau từ nhỏ, là một trong những người thân cận nhất của Lưu Bang, nam chinh bắc phạt, vô cùng trung thành. Trong yến tiệc Hồng Môn, trong số 4 vị tướng sĩ cùng đi dự yến gồm cả Hạ Hầu Anh trong đó. Ông nghe thấy lời của Hàn Tín không khỏi giật mình, Lưu Bang muốn tranh thiên hạ, đây vốn là bí mật trong những bí mật, quân sĩ nhỏ bé này sao lại biết được chứ? Ông nhìn kỹ Hàn Tín một lượt, thấy Hàn tướng mạo anh tuấn, uy vũ, khí độ bất phàm, liền cởi trói cho ông kéo đến một bên vặn hỏi cặn kẽ. Sau một hồi trò chuyện, ông lập tức bị tài trí và kiến giải của Hàn Tín chinh phục, liền tiến cử ngay với Lưu Bang.

    [​IMG]

    Tạo hình Lưu Bang trên điện ảnh. Ảnh qua: Vietnamese. Cri. Cn

    Sau khi Lưu Bang tiến vào Hán Trung, cứ mãi sầu não uất ức, cũng không có để ý tiến cử của Hạ Hầu Anh. Ông chẳng muốn gặp mặt Hàn Tín, chỉ là nể mặt của bộ hạ cũ mà thăng Hàn Tín lên chức Trị lật đô úy trông coi lương thảo. Chức Trị lật đô úy này đã cho Hàn Tín có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với Tiêu Hà, tướng quốc nhà Hán.

    Hàn Tín có nói với Tiêu Hà một câu rất nổi tiếng bàn về người làm tướng như sau: "Đạo làm tướng trước nhất phải có" năm tài "và tránh" mười lỗi ". Năm tài là: Trí, nhân, tín, dũng, trung. Trí thì biết cẩn thận, nhân thì biết thương người, tín thì không sai hẹn, dũng thì không ai dám phạm, trung thì không ở hai lòng. Còn mười điều lỗi: Một là cậy vào cái dũng khinh thân mình, hai là gặp việc gấp thì nóng nảy, thiếu cẩn thận, ba là gặp lợi thì ham, bốn là vì lòng nhân không dám giết người, năm là ỷ lại vào sức mình không biết lo xa, sáu là tin mà không phòng, bảy là không chịu thu thập ý kiến mọi người, tám là việc đáng làm gấp mà do dự, chín là thiên vị, thiếu công bằng, mười là lười biếng, chỉ muốn sai người. Nếu có đủ" năm tài "và tránh được" mười lỗi "ấy, tất là tướng giỏi".

    Tiêu Hà lúc này mới nhận ra Hàn Tín mưu lược hơn người, trí tuệ xuất chúng, hiểu sâu binh pháp, chính là tướng tài cần gấp trong quân Hán, liền vội vàng tiến cử với Lưu Bang. Tiêu Hà với Lưu Bang là đồng hương, lại là bạn tri giao từ thuở hàn vi, nhưng tiến cử của Tiêu Hà vẫn là chưa đủ để Lưu Bang thực sự coi trọng. Hàn Tín chờ đợi một thời gian, trong lòng thất vọng, dự tính đi tìm con đường khác.

    Quân Hán đều là người Quan Đông, gia quyến đều ở lại cố hương, Lưu Bang cũng không ngoại lệ. Mọi người chỉ mong Lưu Bang mau chóng có thể đánh về quê nhà để được đoàn tụ với người nhà. Nhưng sau khi Lưu Bang thiêu hủy đường núi, không có bất kỳ biện pháp thực tế nào để có thể đánh về Quan Trung. Tâm tình thất vọng xen lẫn nỗi nhớ quê nhà bao trùm khắp toàn bộ doanh trại. Thuận theo thời gian, rất nhiều binh sĩ đã mất đi lòng kiên nhẫn, nhao nhao đào ngũ, ngay đến cả tướng lĩnh cũng đã có đến mấy chục người bỏ trốn. Cuối cùng một ngày kia, Hàn Tín cũng lặng lẽ rời khỏi Hán doanh.

    Việc Hàn Tín bỏ đi đã kinh động đến Tiêu Hà. Trong con mắt của Tiêu Hà, sức nặng của Hàn Tín vượt xa hết thảy đại tướng dưới trướng của Lưu Bang. Lòng ông nóng như lửa đốt, không kịp báo lại với Lưu Bang đã khẩn trương lên đường đuổi theo Hàn Tín. Lúc đó, sắc trời đã tối, dưới ánh trăng mờ ảo, Tiêu Hà giơ roi thúc ngựa mất hút trong màn đêm. Đó chính là giai thoại nổi tiếng nghìn thu "Dưới ánh trăng, Tiêu Hà giục ngựa đuổi theo Hàn Tín".

    [​IMG]

    Sự kiện Tiêu Hà đuổi theo thuyết phục Hàn Tín đã trở thành điển cố "Tiêu Hà nguyệt hạ truy Hàn Tín" nổi tiếng. Ảnh qua: Tinhhoa.net

    Lưu Bang được tin Tiêu Hà đi khỏi quân doanh không khỏi giật mình, sốt ruột đến không làm chủ được tinh thần, mất hết hồn vía, đứng ngồi không yên, như thể mất đi tay chân vậy. Tiêu Hà lúc này khẩn trương không kém Lưu Bang. Hàn Tín là cứu tinh duy nhất của quân Hán, mất đi Hàn Tín thì quân Hán chẳng khác chi một đạo quân ô hợp. Nếu như Hàn Tín đầu quân dưới trướng kẻ khác để đối phó lại quân Hán, hậu quả thật không thể nào lường trước được.

    Hàn Tín vẫn chưa nghĩ kỹ bước tiếp theo sẽ đi đâu, cộng với tâm trạng sầu não, vậy nên đi cũng không nhanh. Đến nửa đêm đi đến bên bờ sông Hàn Khê. Lúc này, nước sông dâng cao, không có cách nào sang bên kia sông được. Tiêu Hà dọc đường vừa nghe ngóng vừa đuổi theo, từ xa nhìn thấy dưới ánh trăng, bên cạnh sông Hàn Khê, có kẻ đơn thân độc mã đang tìm cách vượt sông. Người đó không phải ai khác chính là Hàn Tín.

    Mấy ngày sau, khi Tiêu Hàn dẫn Hàn Tín về lại Hán doanh, Lưu Bang đang vì chuyện Tiêu Hà bỏ đi mà mấy ngày đêm ăn ngủ không yên. Trong lúc hoảng hốt nhìn thấy Tiêu Hà, cho rằng là đang nằm mơ, vừa kinh ngạc vừa vui mừng lại vừa phẫn nộ. Ông không nén được giận, trách mắng Tiêu Hà cớ sao lại bỏ đi. Ông không tin rằng Tiêu Hà vì đuổi theo Hàn Tín mới không lời từ biệt mà ra đi.

    Thử nghĩ mỗi ngày ở đây đều có mấy chục hoặc hơn trăm binh sĩ bỏ trốn, chỉ tính riêng tướng lĩnh trốn đi cũng đều đã hơn mấy chục người, tại sao người khác bỏ trốn thì không đuổi theo, mà lại cứ nhất định phải đuổi theo Hàn Tín? Tiêu Hà nói: "Các tướng đều dễ kiếm thôi, còn như Tín là kẻ quốc sĩ, có một không hai. Nhà vua nếu cứ muốn làm vương mãi ở Hán Trung, thì chẳng cần Tín làm gì nhưng nếu muốn tranh lấy thiên hạ thì ngoài Tín ra chẳng có thể bàn công việc với ai".

    Nghe Tiêu Hà nói như vậy, Lưu Bang không thể không để ý kỹ Hàn Tín lần nữa. Ông trầm ngâm hồi lâu, đồng ý đề bạt Hàn Tín làm tướng quân. Tiêu Hà một mực khăng khăng cho rằng chức vị tướng quân thật không xứng với người tài. Lưu Bang bất đắc dĩ, buột miệng để Hàn Tín làm Đại tướng quân và yêu cầu triệu kiến Hàn Tín, xem thử y rốt cuộc tài giỏi chỗ nào. Tiêu Hà lại không đồng ý, nói rằng bậc Đại tướng quân mà sai tới quát lui như vậy thật thiếu tôn trọng, cần phải dựa theo khuôn phép chọn ra ngày lành, trai giới tắm gội, lập đàn sắc phong mới tỏ rõ được thành ý.

    Chuyện đến đây không nhắc tới nữa. Không biết Hàn Tín đến diện kiến Lưu Bang ra sao, mời quý độc giả đón đọc ở kỳ sau để hạ hồi phân giải.
     
    Mèo A Mao Huỳnh Mai thích bài này.
    Last edited by a moderator: 20 Tháng chín 2018
  5. Rùa Siêu Tốc Rùa ngoan nhất

    Bài viết:
    453
    4. Bình định Tam Tần, một tay dựng cơ đồ nhà Hán

    Bấm để xem
    Đóng lại
    [​IMG]

    Tháng 6 (năm 206 TCN) nguyên niên Hán Cao Tổ, Lưu Bang chọn ngày lành, lập đàn tràng, trai giới, tắm gội, bày đủ nghi lễ bái Hàn Tín làm đại tướng quân. Sau lễ bái tướng, Lưu Bang mau chóng hỏi Hàn Tín liệu có diệu kế khả thi nào để trở về Quan Trung hay không. Quân Hán binh nhược tướng thiếu, căn bản không phải là đối thủ của Hạng Vũ. Bởi vậy Lưu Bang cũng không có mục tiêu nào hơn, tâm nguyện lớn nhất của ông là chỉ mong có thể làm được Quan Trung vương.

    1. Đối sách Hán Trung

    Hàn Tín trước tiên chỉ ra cho Lưu Bang rằng muốn đem quân đông chinh thiên hạ, đối thủ lớn nhất chính là Hạng Vũ. Ông xin Lưu Bang so sánh tài nghệ với Hạng Vũ về đủ các mặt: Lòng dũng cảm, tính quả quyết, lòng nhân hậu và binh lực xem rốt cuộc ai mạnh ai yếu. Lưu Bang im lặng hồi lâu, nói: "Đều không bằng được Hạng Vũ". Như vậy, cũng chính là nói dù xét ở phương diện khả thi nhất là nhân hậu, ông ta cũng không được như Hạng Vũ.

    Hàn Tín rời khỏi chỗ ngồi, sụp lạy Lưu Bang hai lạy, nói rằng: "Xin chúc mừng đại vương. Biết người biết ta mới có thể trăm trận trăm thắng. Thần cũng cho rằng đại vương không sánh nổi Hạng Vương. Tuy vậy thời thế biến đổi, mọi chuyện rồi sẽ đổi thay. Hạng Vũ hiện giờ tuy lớn mạnh, nhưng đại vương nhất định có thể đánh bại ông ta".

    Kế đó, Hàn Tín phân tích một loạt nhược điểm trong tính cách của Hạng Vũ. Hạng Vũ tuy vũ dũng hơn người, tiếng gầm thét có thể quát lui nghìn quân vạn mã, nhưng lại không biết trọng dụng hiền tài, chẳng qua chỉ là cái dũng của kẻ thất phu. Tuy lúc thường cung kính nhân từ với người, thuộc hạ bị bệnh cũng đều hỏi han ân cần, nhưng hễ đến khi cần phong tước thăng quan, ngay đến đại ấn đã khắc xong còn cứ mãi để sang một bên, dù cho mòn hết vẫn không nỡ trao cho người khác. Đây đúng thật là lòng dạ đàn bà.

    Thêm nữa, sau khi trở thành Bá vương, Hạng Vũ cũng đã làm rất nhiều việc không thỏa đáng. Điều không thỏa đáng đầu tiên là, dù đã xưng bá thiên hạ, nhưng lại rời bỏ Quan Trung, dựng đô ở Bành Thành, mất đi địa lợi. Thứ hai, làm trái giao ước với Nghĩa đế, phân phong không công bằng. Vùng đất trù phú thì phân chia cho thân tín của mình chứ không phải là người có công lao lớn nhất, khiến cho các chư hầu căm phẫn bất bình, mất đi cái lợi nhân hòa.

    Thứ ba, Hạng Vũ kiên quyết đưa Nghĩa đế đến vùng Giang Nam, các chư hầu thấy vậy nhao nhao bắt chước xua đuổi quân vương ở nơi đóng quân của mình, tự lập phe cánh dẫn đến thiên hạ đại loạn, mất đi lợi thế của thiên thời. Thứ tư, những nơi mà Hạng Vũ đi đến, không đâu là không tàn phá thảm hại, bởi vậy mà mất đi lòng dân.

    Theo những lời phân tích của Hàn Tín, Hạng vương trên danh nghĩa là bá chủ, nhưng trên thực tế lại đã mất đi lòng dân thiên hạ. Nếu như Lưu Bang có thể làm ngược lại ông ta, trọng dụng những người anh dũng thiện chiến, dùng quân đội kỷ luật nghiêm minh, giương cao ngọn cờ chính nghĩa, thuận theo tâm nguyện về lại miền đông của các tướng sĩ, tất nhiên có thể chiến thắng Sở Bá vương.

    [​IMG]


    Tạo hình Lưu Bang và Hạng Vũ trên điện ảnh. Ảnh qua: Bobatv.net

    Tảng đá đầu tiên cản đường quân Hán trở về Quan Trung là Chương Hàm, Tư Mã Hân và Đổng Ế. Hàn Tín cho rằng ba người này không khó đối phó. Họ vốn là tướng nước Tần, chinh chiến nhiều năm, binh sĩ dưới trướng đều theo họ vào sinh ra tử. Nhưng sau khi đầu hàng quân Sở, Hạng Vương chôn sống 20 vạn hàng quân nước Tần, duy chỉ có Chương Hàm, Tư Mã Hân và Đổng Ế ba người là còn giữ được mạng sống. Cha anh nước Tần căm hận ba người này đến tận xương tủy, họ làm vương ở Quan Trung, trong lòng người dân Quan Trung vốn không phục.

    Còn Lưu Bang khi tiến vào Võ Quan, làm theo kiến nghị của Tiêu Hà, chỉ đặt ra ba điều quy ước đối với người dân chứ không quấy nhiễu gì thêm. Người dân Quan Trung bởi điều này mà cảm tạ ân đức khôn xiết, đối với việc Lưu Bang không thể trở thành Quan Trung vương đều cảm thấy bất bình. Nếu như Lưu Bang muốn phát binh tiến về phía đông, chỉ cần một đạo văn thư chính là đã có thể bình định Tam Tần.

    Sách lược "đối sách Hán Trung" lần này của Hàn Tín vừa trù tính viễn cảnh tranh đoạt thiên hạ cùng Hạng Vũ, lại chỉ rõ ra chiến lược đoạt lấy Quan Trung sắp tới, mạnh yếu rõ ràng, thấu đáo, kiến giải độc đáo. Quan điểm của Hàn Tín vượt lên trên sự so sánh mạnh yếu trong quân sự, đem thắng thua trong chiến trận và được mất của lòng người liên hệ với nhau, đã phân tích ra được chỗ mạnh yếu của hai bên, lại nhìn thấy được biến hóa trong tương lai cùng điều kiện và thời cơ của sự biến hóa.

    Tất cả đã biểu hiện ra hiểu biết sâu rộng và tầm nhìn xa phi thường của Hàn Tín. Người đời sau phần nhiều đều xem "Hán Trung đối sách" của Hàn Tín ngang hàng với "Long Trung đối sách" của Gia Cát Lượng, đáng để tôn sùng. Lưu Bang mau chóng đồng ý với sách lược này của Hàn Tín, mục tiêu đầu tiên chính là đánh vào Quan Trung, chiếm lấy Tam Tần.

    2. Bình định Tam Tần

    Giống hệt như Hàn Tín phân tích, sau khi Hạng Vũ phân phong chư hầu, mâu thuẫn thế lực giữa các phe cánh trong thiên hạ bắt đầu hiển lộ ra. Người nổi loạn đầu tiên là Điền Vinh của đất Tề. Điền Vinh là một thủ lĩnh quý tộc đất Tề. Vào thời của Hạng Lương (chú của Hạng Vũ), Điền Vinh đã mấy lần không nghe theo Hạng vương, lại không chịu đem binh theo Sở đánh Tần nên không được phong đất. Điền Vinh đối với việc này tỏ ra vô cùng bất mãn, đuổi Tề vương mà Hạng Vũ sắc phong đi, tự lập mình là Tề vương. Vinh giao ấn tướng quân cho tướng ở đất Lương là Bành Việt công đánh Định Đào, tức là lãnh địa của Hạng Vũ.

    Tiếp đến, Trần Dư thấy Trương Nhĩ được sắc phong là Thường Sơn vương, Triệu Yết được phong là Đại vương mà bản thân không được chức tước gì thì vô cùng bất mãn, bèn liên minh với Điền Vinh để đối phó với Trương Nhĩ và Hạng Vũ. Trương Nhĩ binh bại bỏ chạy theo hàng Hán. Trần Dư đón Triệt Yết từ đất Đại về làm vương đất Triệu, bản thân mình thì là Đại vương.

    Cùng trong lúc này, Liêu Đông vương Hàn Quảng cũng không thỏa mãn, muốn chiếm lãnh địa của Yên vương, sau cùng lại bị Yên vương tiêu diệt. Vùng đất Trung Nguyên khói lửa chiến tranh không dứt, đã lay động đến địa vị bá chủ của Hạng Vũ. Hạng Vũ cho rằng mọi chuyện đều là từ Điền Vinh mà ra, quyết định đích thân dẫn binh chinh phạt.

    Hàn Tín nhận thấy thời cơ đã đến, vào tháng 8 năm đầu Hán Cao Tổ bèn dẫn quân đông chinh, phát khởi chiến dịch bình định Tam Tần.

    Quan Trung và Hán Trung ngăn cách nhau bởi dãy núi Tần Lĩnh hiểm trở, giữa hai vùng chỉ có mấy con đường núi hiểm trở thông với nhau. Trên những sườn núi hiểm trở đó người ta đào hang, bắc cầu, nối liền với nhau thành các sạn đạo (đường lát ván, dùng gỗ bắt sàn ở chỗ khe núi hiểm hóc).

    Mỗi con đường đều dài đến hàng mấy trăm dặm, vô cùng hiểm trở, chật hẹp, không tiện hành quân, vận chuyển lại càng khó khăn hơn. Trong đó, sạn đạo núi Bao Tà và Trần Thương là hai con đường quan trọng nhất. Sau khi Lưu Bang đi vào Hán Trung đã đốt bỏ đường Bao Tà vốn là sạn đạo dài hơn 600 dặm, muốn tu sửa cũng không phải là chuyện ngày một ngày hai. Bởi vậy chỉ còn Trần Thương là con đường có thể dùng được. Nhưng đầu đường có quân đội hùng hậu của Chương Hàm trấn giữ, muốn phá vòng vây cũng lại là chuyện chẳng dễ dàng chút nào.

    [​IMG]


    Hàn Tín dẫn binh bình định Tam Tần. Ảnh qua: Soha.vn

    Những chuyện này đều không làm khó được Hàn Tín. Ông cử Phàn Khoái, Chu Bột dẫn theo đại binh khuếch trương thanh thế, vờ tu sửa lại con đường Bao Tà đã bị thiêu hủy, làm ra vẻ như muốn xuất binh từ nơi này. Chương Hàm nhận được tin lập tức cử trọng binh phòng ngự ở cửa khẩu. Nơi này "một người trấn giữ ngoài cửa, vạn người khó vượt qua", chỉ cần giữ chặt cửa quan thì đã có thể kê cao gối ngủ không cần phải lo lắng gì nữa.

    Hàn Tín thấy Chương Hàm trúng kế, liền điều binh khiển tướng đi về phía tây, rời khỏi huyện Miễn (Thiểm Tây) rồi chuyển hướng đi về phía bắc, theo Cố đạo tiến quân vào Trần Thương. Trần Thương là nơi đóng quân tích trữ quân lương khi đó, vốn là một vùng yết hầu quan trọng. Quân Hán đi vào Trần Thương trước, chẳng khác nào lén vòng qua phía sau quân đội của ba vị vương đất Tần.

    Đại bộ phận binh lực của Chương Hàm đều đã điều động đến Hàm Dương, vậy nên Trần Thương hầu như bỏ trống. Quân Hán không tốn chút hơi sức đã dễ dàng đoạt lấy Trần Thương. Chương Hàm được tin, gấp rút dẫn quân đến giao chiến với Hàn Tín. Quân Hán cơn giận dồn nén đã lâu, lại vừa thắng ngay trận đầu, sĩ khí ngút trời như mãnh hổ xuống núi.

    Chương Hàm hấp tấp ứng chiến, lòng quân chưa yên. Trong lúc hai quân giao chiến, Phàn Khái, Chu Bột cũng dẫn quân đến hợp lực cùng Hàn Tín, ba mặt giáp công. Chương Hàm bại trận tự sát. Tư Mã Hân, Đổng Ế cũng lần lượt đầu hàng. Bình định Tam Tần chỉ mất thời gian vỏn vẹn 4 tháng. Từ đây, Quan Trung đã trở thành căn cứ địa quan trọng, làm thành bàn đạp để Lưu Bang có thể tranh đoạt thiên hạ sòng phẳng với Hạng Vũ.

    Cái cách Hàn Tín dẫn quân Hán từ Hán Trung tiến vào Quan Trung được lịch sử gọi là "Minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương" (vờ sửa sạn đạo, lẻn qua Trần Thương), chính là điểm sáng đầu tiên của Hàn Tín trong nghiệp cầm quân. Bây giờ câu thành ngữ "Ám độ Trần Thương" dùng để chỉ mưu kế nhằm đánh lạc hướng đối phương. Chiến thuật "Minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương" mà Hàn Tín sáng tạo đã luôn được các nhà quân sự đời sau khen ngợi không ngớt lời, ứng dụng không biết bao nhiêu và cũng được đưa vào trong "Tam thập lục kế" của binh gia.

    Quân Hán bình định Tam Tần là một việc chấn động nhưng Hạng Vũ nhất thời không có thời gian để bận tâm đến. Những mưu sĩ dưới trướng ông đều cùng cho rằng Lưu Bang mới chính là kẻ địch mạnh nhất. Đặc biệt là á phụ Phạm Tăng, liên tục khuyên Hạng Vũ phát binh tiến đánh Hán vương. Chính ngay lúc Hạng Vũ còn đang chần chừ chưa quyết, Trương Lương đưa mật thư đến, nói rằng Lưu Bang chẳng qua chỉ muốn làm Quan Trung vương mà thôi. Lưu Bang vẫn sẽ mãi mãi thần phục Hạng Vũ, đính kèm lá thư còn có một lá "thư phản hồi" về việc Điền Vinh, Bành Việt liên minh chống Sở muốn tranh thiên hạ.

    Hạng Vũ xem thư xong liền tin là thật, thế là đích thân thống lĩnh đại quân bắc tiến, trước tiên đánh tan Bành Việt, sau lại quét sạch Điền Vinh ở Thành Dương, một lần nữa sắc phong Điền Giả làm Tề vương. Sau khi Hạng Vũ rời đi, em trai của Điền Vinh là Điền Hoành đã đuổi cổ Điền Giả. Hạng Vũ tức giận lại tức tốc dẫn quân trở lại giết Điền Hoành. Nhưng Điền Hoàng không giao chiến trực diện với Hạng Vũ mà áp dụng chiến thuật du kích. Hạng Vũ muốn đánh thì khó thắng, mà lui binh thì lại không nỡ, hoàn toàn sa lầy trong cuộc chiến với nước Tề.

    Lưu Bang lại thừa cơ củng cố và mở rộng cơ nghiệp Quan Trung của mình. Văn thần võ tướng đều dồn dập kéo đến quy thuận. Quốc đô của Hán vương cũng từ Nam Trịnh hẻo lánh dời đến Nhạc Dương, phía đông thông với Tam Tấn (Triệu, Ngụy, Hàn). Trước sau, Lưu Bang đã thu phục được Hà Nam vương Thân Dương, Tây Ngụy vương Ngụy Báo, và Ân vương Tư Mã Bình, lại chiêu hàng cháu của Hàn Tương vương là Hàn Vương Tín, phế bỏ Hàn vương Trịnh Xương. Sau khi Trương Nhĩ bị Trần Thương đánh bại đã đầu hàng Lưu Bang, Trần Bình vốn dĩ là ở dưới trướng của Hạng Vũ nay cũng đến xin nương nhờ Lưu Bang.

    3. Chặn đứng quân Sở ở Huỳnh Dương

    [​IMG]


    Hàn Tín đứng về phe ai (Lưu Bang, Hạng Vũ) thì người đó có được thiên hạ. Ảnh: DKN

    Lãnh địa hiện tại của Lưu Bang đã được mở rộng thêm mấy lần, quân đội trong tay cũng đã từ 3 vạn tăng lên đến mấy chục vạn. Lúc này, Lưu Bang cảm thấy bản thân không cần đến Hàn Tín cũng có thể đọ sức với Hạng Vũ, đồng thời cũng lo sợ Hàn Tín danh vọng cao quá thì bất lợi cho mình. Thêm vào đó, Trương Lương lúc này cũng đã về lại bên cạnh Lưu Bang. Bởi thế, ông bèn hạ quyết tâm bãi bỏ binh quyền của Hàn Tín.

    Trước đêm trực tiếp phát động tấn công Hạng Vũ, Lưu Bang đã điều chỉnh lại quân đội, ung dung thản nhiên bãi bỏ chức vụ đại tướng quân của Hàn Tín, để Tiêu Hà và Hàn Tín ở lại đóng giữ Quan Trung, tiêu diệt tàn binh quân Ung kiêm làm quân hậu viện, còn bản thân mình thì đích thân làm thống soái dẫn theo Trương Lương, Trần Bình đông tiến.

    Trương Lương, tự Tử Phòng, cùng với Hàn Tín, Tiêu Hà được xưng là "tam kiệt" (ba anh tài) thời đầu nhà Hán, ông nội và cha của ông đều là thừa tướng nước Hàn. Sau khi Tần Thủy Hoàng diệt Hàn, Trương Lương lập mưu thích sát Tần Thủy Hoàng ở bãi cát Bác Lãng nhưng không thành, bèn đổi tên họ trốn đến Hạ Bì. Ở đây, ông gặp được Hoàng Thạch Công, một nhân vật thần bí đã truyền thụ cho ông "Thái Công binh pháp". Từ đó, Trương Lương trở thành một mưu lược gia đầy tài năng. Về mưu lược, Trương Lương tuy có chỗ hơn người nhưng không thể một mình đảm đương quân cơ giống như Hàn Tín. Còn Lưu Bang căn bản không chút lo lắng bị Trương Lương uy hiếp nên cứ mãi ỷ lại vào Trương Lương.

    Tháng ba năm thứ 2 Hán Cao Tổ (năm 205 TCN), đại quân Lưu Bang đi đến Lạc Dương. Theo kế sách của Trương Lương, Lưu Bang đích thân phát tang cho Nghĩa Đế bị Hạng Vũ giết hại, toàn quân mặc áo tang, đưa tang ba ngày, đồng thời phái sứ giả đi khắp các lộ chư hầu, hiệu lệnh thiên hạ thảo phạt Hạng Vũ báo thù cho Nghĩa Đế. Lưu Bang lấy điều này thu phục lòng dân, cũng tìm được lý do đường hoàng chính đáng cho việc xuất quân của mình.

    Dưới ngọn cờ báo thù cho Nghĩa Đế, chỉ trong vòng một tháng, Lưu Bang đã tập hợp được 56 vạn đại quân, khí thế lớn mạnh, nhất tề tiến về kinh đô nước Sở là Bành Thành. Lúc này, đại quân chủ lực của Hạng Vũ và bản thân Hạng Vũ đều đang sa lầy trong cuộc chiến với nước Tề, hậu phương hoàn toàn trống rỗng. Lưu Bang một đường thẳng tiến, suốt hai nghìn dặm hầu như đều không gặp phải bất kỳ trở ngại nào, công hạ Bành Thành quá đỗi dễ dàng.

    Lưu Bang bị thắng lợi làm mê mờ đầu óc, tưởng rằng chiếm được Bành Thành chính là đã có được thiên hạ, căn bản không đề phòng Hạng Vũ vẫn còn nguyên thực lực. Lưu Bang không mảy may phòng bị gì thì đã vội vàng đắm chìm trong thú vui tửu sắc. Hạng Vũ trước nay vốn không xem Lưu Bang vào đâu, mãi đến khi Bành Thành bị quân Hán đánh bại, nhớ lại ngày trước trong yến tiệc Hồng Môn chỉ vì quá mềm lòng mà không nỡ xuống tay với Lưu Bang. Thế mà giờ đây, Lưu Bang lại dám ngông cuồng đến cung phủ của mình tầm hoan tác lạc, Hạng Vũ càng nghĩ càng bực mình, nổi giận xung thiên, liền điểm 3 vạn tinh binh tức tốc hành quân về phía nam. Binh sĩ còn lại tiếp tục tác chiến với Điền Hoành.

    Hạng Vũ chỉ trong một đêm đã tiến quân thần tốc đến huyện Tiêu, bẻ gãy cánh tay trái của quân Hán, đến giữa trưa thì lấy lại được Bành Thành. Quân Hán bị đánh bại lui về bên bờ sông Cốc, sông Tứ, bị quân Sở đuổi giết, hơn 10 vạn đại quân chen nhau rơi xuống nước mà chết. Tàn binh còn lại thì bỏ chạy về phía phía nam, đến bên bờ sông Tuy không còn đường chạy nữa, phía sau lại có binh lính đuổi theo, hơn 10 vạn đại quân bỏ mạng dưới nước. "Sử Ký – Hạng Vũ bản kỷ" có chép: "Nước sông Tuy vì thế mà không chảy nổi".

    [​IMG]


    Hạng Vũ chỉ dùng 3 vạn tinh binh để đè bẹp 56 vạn quân Lưu Bang. Ảnh qua: Hottopic. Chinatimes.com

    Không đến một ngày, 56 vạn đại quân của Lưu Bang đã bị 3 vạn quân tinh nhuệ của Hạng Vũ đánh cho tả tơi manh giáp, bản thân Lưu Bang cũng bị quân Sở bao vây trùng trùng. Trong lúc nguy cấp, bỗng một trận gió lớn nổi lên, đất đá mù mịt, trời đất tối sầm, cây cối đổ rạp, mái nhà tung bay, quân Sở nhất thời không biết ứng phó thế nào. Lưu Bang thừa dịp đột phá vòng vây trốn thoát, chỉ có mấy mươi kỵ binh là cùng thoát ra được.

    Lưu Bang cũng lạc mất người nhà, phụ thân Thái Công cùng vợ là Lã Trĩ bị quân Sở bắt làm con tin. Lưu Bang trên đường trốn chạy gặp được hai đứa con của mình, chính là Hiếu Huệ Đế Lưu Doanh và Lỗ Nguyên công chúa sau này. Ông ta vì để bản thân có thể nhẹ nhàng thoát nạn đã mấy lần xô hai đứa con của mình xuống xe ngựa. May thay Hạ hầu Anh mấy lần xuống vực hai đứa trẻ này lên xe, nhờ vậy mà Lưu Doanh và Lỗ Nguyên mới giữ được tính mạng.

    Lưu Bang trong một trận này gần như đã mất sạch toàn bộ vốn liếng có được kể từ sau khi bình định Tam Tần, 56 vạn đại quân chỉ còn lại lèo tèo thưa thớt. Quân Hán từ Bành Thành rút về Huỳnh Dương, các lộ chư hầu đầu hàng Lưu Bang trước đây nay thấy quân Sở thắng lớn đều ngả về phía Hạng Vũ. Hình thế thay đổi đột ngột, phần lớn đất đai phía đông của Huỳnh Dương đã bị quân Sở chiếm lĩnh.

    Nếu như Hạng Vũ khởi binh tấn công, Lưu Bang thật không còn bất cứ bình phong nào để có thể nương vào. Điền Hoành, Trần Dư trước đó tưởng có thể cầm chân Hạng Vũ nay đều đã cùng Hạng Vũ giảng hòa. Hạng Vũ bắt đầu chĩa ngọn giáo về phía Lưu Bang. Ông không khỏi rùng mình, trong lúc bất đắc dĩ đã thêm một lần nữa dùng lại Hàn Tín.

    Hàn Tín được lệnh trong lúc nguy nan, lập tức điều binh đánh trả quân Sở, rất mau chóng lấy lại được phần lớn lãnh thổ phía đông Huỳnh Dương. Chiến tuyến đẩy mạnh về phía đông Huỳnh Dương, mãi cho đến chỗ chia đôi Huỳnh Dương và Bành Thành. Quân Hán đã kiến lập hệ thống phòng ngự vững chắc ở những nơi này, khiến cho hình thế Hán Sở tranh hùng từ tình thế nguy kịch cho quân Hán nay về lại trạng thái vững chãi.

    Nếu như không có Hàn Tín xoay chuyển cục diện, kết cục của quân Hán quả thật khó tưởng tượng được. Chiến quả của Hàn Tín khiến quân Hán lần nữa phấn chấn trở lại, cũng khiến cho các lộ chư hầu khác không dám manh động nữa. Lưu Bang chuyển nguy thành an, lại có được cơ hội cùng Hạng Vũ tranh hùng lần nữa.
     
    Mèo A Mao Huỳnh Mai thích bài này.
    Last edited by a moderator: 20 Tháng chín 2018
  6. Rùa Siêu Tốc Rùa ngoan nhất

    Bài viết:
    453
    5. Bày trận tựa sông, phá 20 vạn quân Triệu nhưng vẫn bị thu ấn tướng

    Bấm để xem
    Đóng lại
    [​IMG]

    Sau chiến thắng Bành Thành, Hạng Vũ đã xem Lưu Bang là đối thủ nguy hiểm nhất, cái gai trong mắt phải nhổ. Ông tập trung chấn chỉnh binh lực, liên hợp với các nước Tề, Triệu, Ngụy và Cửu Giang vương Anh Bố, chuẩn bị đánh từ hai mặt nam bắc, thẳng tiến đến tận Quan Trung. Lúc này, Ngụy Vương Báo vốn đã quy thuận giờ thấy Lưu Bang yếu thế bèn liên thủ với Hạng Vũ quay sang đánh Lưu Bang từ hai bên mặt.

    1. Tập kích bất ngờ phá tan quân Ngụy

    Lãnh địa của Ngụy vương ở Hà Đông, phía tây tiến đến uy hiếp Quan Trung, phía nam có thể cắt đứt liên hệ giữa Quan Trung và Huỳnh Dương. Vậy nên trước khi quyết chiến cùng Hạng Vũ, Lưu Bang cần phải giải quyết mối họa Ngụy vương Báo. Trước tiên, Lưu Bang sai biện sĩ Lệ Thực Kỳ đến khuyên giải.

    Ngụy vương Báo trước nay cực kỳ chán ghét thái độ ngạo mạn vô lễ ngày thường của Lưu Bang nên không muốn tiếp kiến sứ giả. Lệ Thực Kỳ đành phải không công trở về. Bất đắc dĩ Lưu Bang đành phải dùng lại Hàn Tín lần nữa, bổ nhiệm Hàn làm tả thừa tướng và đại tướng quân, cùng với Tào Tham, Quán Anh dẫn quân đi đánh Ngụy.

    Ngụy vương ở ven bờ Hoàng Hà có cử trọng binh canh giữ, bố trí phòng hộ nghiêm ngặt, không chút sơ hở. Vấn đề thứ nhất mà Hàn Tín phải đối mặt là vượt sông Hoàng Hà thế nào. Quân Hán chỉ có một trăm chiếc thuyền cũ trong tay, nếu miễn cưỡng vượt sông, ắt sẽ thiệt hại to lớn, thắng bại khó lường.

    [​IMG]


    Sông Hoàng Hà. Ảnh dẫn theo tinhhoa.net

    Hàn Tín đã dùng diệu kế: "Thùng gỗ vượt sông". Ông chia quân thành hai đường, một sáng một tối, sáng là đội quân hướng đến Bồ Bàn, do Quán Anh chỉ huy, 1 vạn binh mã cùng hơn 100 chiếc thuyền dàn thành thế trận, bày thuyền bè, hư trương thanh thế như muốn vượt qua sông Lâm Tấn. Ngụy vương Báo thấy quân Hán bày trí thuyền bè ở Bồ Bản, lập tức hiệu lệnh thuộc hạ, điều động rất nhiều binh mã từ nơi khác đến bày trận nghênh địch.

    Hàn Tín sai một đạo binh mã khác âm thầm tiến đến Hạ Dương (Hàn Thành, tỉnh Thiểm Tây ngày nay), nơi cách đó hơn một trăm dặm về phía Bắc. Hạ Dương là bến thuyền tốt nhất giữa Long Môn quan đến Bồ Tân quan, mặt sông rộng rãi, đáy bờ nước chậm, thuyền bè đi lại dễ dàng, hơn nữa có 20 dặm đồng bằng thuận tiện cho quân đội tập kết. Hàn Tín sau khi đến Hạ Dương thì không dùng thuyền vượt sông, mà sai quân lĩnh đẵn cây, làm các loại thùng gỗ, lại dùng dây thừng buộc chặt thùng gỗ và khúc gỗ với nhau, làm thành bè gỗ.

    Quân Hán âm thầm qua sông khi quân Ngụy ở bên kia sông đều đã bị điều đến Bồ Bản, vậy nên không hề kinh động, quỷ thần chẳng biết. Sau khi qua sông, Hàn Tín mau chóng đánh úp và giành được đất An Ấp. Đây vốn là một vùng quân sự quan trọng, Ngụy vương Báo không thể không kéo binh trở về ứng cứu. Ngụy quân vừa rút lui khỏi Bồ Bản, quân Hán lập tức chèo thuyền vượt sông, mau chóng chiếm lấy Bồ Bản.

    Hai đạo quân Hán lần lượt vượt sông mau chóng hợp binh giáp công đại quân của Ngụy vương Báo giữa Bồ Bản và An Ấp. Dưới thành An Ấp, quân Ngụy đại bại bỏ trốn, Tào Tham đuổi sát theo sau. Quân Ngụy chạy đến Đông Viên, Tào Tham cũng lần theo dấu vết đuổi đến. Toàn bộ tàn quân Ngụy đều bị diệt, Ngụy vương Báo cũng bị bắt sống. Tiếp đó, Hàn Tín lại bắc tiến công chiếm Bình Dương, chỉ qua vài trận đã bình định toàn bộ nước Ngụy lớn mạnh, thời gian không đến một tháng.

    "Thùng gỗ vượt sông" cũng là một chiến thuật kinh điển trong lịch sử chiến tranh, không chỉ cách thức vượt sông mới lạ đặc biệt, trình tự chiến lược của nó càng kỳ diệu hơn. Trước hết "dương đông kích tây", sau khi đánh tây xong rồi lại đánh đông lần nữa, khiến đối thủ hoàn toàn ở vào trạng thái bị động chịu đòn. Về cơ bản "Thùng gỗ vượt sông" chính là một phiên bản khác của "Ám độ Trần Thương", cũng chính là "Dối trời qua biển", vờ đánh Đồ Bản mà thực ra là tiến đến An Ấp.

    Thông thường mà nói, sau khi một mưu kế nào đó được sử dụng thành công, người ta đều sẽ lấy đó làm bài học, làm gương. Bởi vậy diễn lại trò cũ nguyên là việc rất khó khăn. Thế mà kỳ tài quân sự Hàn Tín lại có thể 2 lần thực thi kế sách: "Ám độ Trần Thương" ấy, thực là tuyệt diệu vô cùng!

    Hàn Tín bình định nước Ngụy thực sự đã giải trừ được uy hiếp đối với quân Hán, khiến hậu phương Quan Trung càng thêm vững chắc, cũng khiến kế hoạch tấn công cánh phải của Hạng Vũ không cách nào thực thi, hóa giải áp lực trên chiến trường Huỳnh Dương. Đặc biệt, Hàn Tín tác chiến trước nay vẫn lấy phá binh làm chủ, tiêu diệt chủ lực của kẻ địch chứ không chỉ là chiếm lĩnh thành trì một cách đơn thuần.

    Vậy nên địa bàn mà ông chiếm giữ được thông thường đều rất vững chắc, sẽ không xuất hiện tình trạng được rồi lại mất. Nước Ngụy vừa diệt, Lưu Bang lập tức cử người đến điều đi toàn bộ tinh binh bắt giữ được và lượng lớn vật tư thu giữ được, danh nghĩa là chi viện chiến trường Huỳnh Dương, nguyên nhân trọng yếu hơn cả là để kìm hãm thực lực của Hàn Tín.

    [​IMG]


    Thùng gỗ vượt sông, phá tan quân Ngụy. Ảnh dẫn theo lieqiwo.com

    2. Khéo léo đoạt Yên, Triệu

    Hàn Tín diệt Ngụy đã nhổ bỏ được cái gai cắm trên trên lưng quân Hán, nhưng chư hầu các nước Đại, Triệu, Yên, Tề ở phía bắc sông Hoàng Hà vẫn đang hùng cứ một phương, liên hợp với quân Sở đối đầu với quân Hán. Trên chiến trường chính, quân Hán vẫn ở thế bất lợi, Huỳnh Dương hai lần thất thủ. Cuộc chiến giằng co gian khổ khiến Lưu Bang có lần muốn từ bỏ Huỳnh Dương.

    Hàn Tín đã phân tích tình hình, chủ động xin 3 vạn binh mã tiến lên phía bắc đối phó Yên, Triệu, Đại, Tề, chặn đứt đường vận lương giữa các nước chư hầu với nước Sở. Nếu như thu phục được các lộ chư hầu này, Hán sẽ hình thành thế đánh giáp công nước Sở từ hai mặt. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử có một đại tướng đưa ra sách lược này: Kết hợp giữa phòng ngự mặt chính bền vững và tấn công từ hai bên mặt. Với Lưu Bang mà nói loại chiến lược cao siêu này nhất thời vẫn khó lý giải, nhưng cũng không có lý do để phản đối, bèn gật đầu đồng ý. Ông đặt nước Ngụy thành quận Hà Đông, cử Trương Nhĩ làm trợ thủ đồng thời giám sát hành động của Hàn Tín.

    Tháng 9 nhuận năm thứ 2 Hán Cao Tổ, Hàn Tín lĩnh binh Bắc tiến. Mục tiêu tấn công đầu tiên là nước Đại. Một năm trước, Lưu Bang dụ nước Triệu xuất binh đánh Hạng Vũ. Trần Dư đề nghị phải giết chết Trương Nhĩ mới đồng ý xuất binh. Lưu Bang liền tìm chọn ra một người trông giống hệt Trương Nhĩ giết chết, lừa Trần Dư xuất binh trợ chiến.

    Về sau, Trần Dư phát hiện mình bị mắc lừa, nên đã phản bội Lưu Bang. Khi đó, Đại vương Trần Dư không ở nước Đại, mà chạy đến nước Triệu làm tướng quốc, giúp Triệu vương trị lý quốc gia, công việc của nước Đại do tướng quốc Hạ Thuyết thay mặt lo liệu. Nước Đại nước nhỏ binh yếu vốn không chịu nổi một đòn tấn công, Hàn Tín mau chóng thẳng tiến đánh bại quân Đại, bắt sống Hạ Thuyết, diệt nước Đại.

    Nhưng trong liên minh Triệu – Đại, có thực lực thật sự chính là nước Triệu. Nếu muốn hoàn toàn thắng lợi thì ắt phải diệt Triệu. Nhưng ngay lúc này, Lưu Bang lại sai người đến thu giữ quân đội để bổ sung cho chiến trường Huỳnh Dương. Lần này không chỉ dẫn đi tù binh, mà còn "rút củi tận đáy nồi", điều đại tướng Tào Tham và quân đội của ông cùng đến chi viện Huỳnh Dương để chống Sở.

    Hàn Tín không muốn bỏ dở nửa chừng, thỉnh cầu Hán vương cho phép ông xây dựng quân đội, tiếp tục Bắc tiến đánh Triệu. Lưu Bang khó lòng từ chối, đã phân phối một chút binh lực cho Hàn Tín. Nhưng đến khi Hàn Tín xốc lại đội hình binh mã của mình thì đã lỡ mất thời cơ tốt nhất, quân Triệu đã dàn binh phòng thủ, bày xong thế trận chờ quân Hán.

    Địa hình nước Triệu dễ thủ khó công, dãy núi Thái Hành cao lớn, hiểm trở là tấm bình phong thiên nhiên che chở. Con đường duy nhất tiến vào nước Triệu là cửa Tỉnh Hình, một trong tám hẻm núi lớn của núi Thái Hành. Chỗ này chính là đại hạp cốc (hẻm núi lớn), hai bên vách núi sừng sững, con đường chật hẹp, xe không thể song hành, ngựa cũng không thể đưa vào, chỉ cần một người chẹn ngoài cửa thì vạn người không thể đi ra. Muốn vượt qua hẻm núi lớn này, quân đội cần phải xếp thành một hàng dài, đầu và đuôi không thể phối hợp với nhau. Chỉ cần quân Triệu cho một đối quân nhỏ canh giữ ở một lối ra nào đó thì quân Hán khó tiến sâu vào đất Triệu. Hơn nữa lối ra của cửa Tỉnh Hình còn có một con sông chảy xiết. Như vậy, tiến vào đất Triệu thì cũng ngang với đi vào "Quỷ môn quan", rất khó trở về.

    Trần Dư trù tính một mẻ diệt sạch toàn bộ binh lực của Hàn Tín nên không cử binh lính chế ngự hẻm núi, mà tập trung 20 vạn đại quân ở phía đông hẻm núi sẵn sàng đón đánh. Chính là Trần Dư muốn đợi quân của Hàn Tín hoàn toàn qua khỏi cửa Tỉnh Hình rồi dùng binh lực vượt trội của mình mà đè bẹp quân Hán. Kế hoạch hoàn mỹ như vậy, lại bị một cao nhân nhìn ra chỗ sơ hở. Người này chính Quảng Võ Quân Lý Tả Xa (cháu của Lý Mục) thủ hạ dưới trướng của Trần Dư.

    Lý Tả Xa cho rằng Hàn Tín một đường thừa thắng tiến tới, tình thế khó mà đương đầu. Nhưng mà, "vận lương nghìn dặm, quân sĩ có dáng đói, đợi hái củi cắt cỏ mà nấu ăn, lính tráng không được no" (Sử Ký – Hoài Âm hầu liệt truyện ). Ý tứ là ngoài nghìn dặm vận chuyển lương thực cho quân đội, binh sĩ sẽ phải chịu đói. Hiện giờ kiếm củi nấu cơm, binh sĩ ắt sẽ ăn không được no. Đây chính là nhược điểm lớn nhất của quân Hán. Cửa Tỉnh Hình lối đi chật hẹp, lương thảo quân Hán lại ở tận phía sau. Nếu như bố trí binh mã đi theo đường tắt chẹn đường vận tải, đợi quân đội đi qua cửa Tỉnh Hình, rồi lại sai quân kiên trì trấn giữ khe núi, không cho binh mã rút lui, quân Hán sẽ lâm vào hai tình cảnh khó khăn "tiến không vào được đất Triệu, lui lại không thể trở về". Không cần dùng đến 10 ngày, quân Hán sẽ không đánh mà tự tan. Nhưng Trần Dư lại cho rằng "Nghĩa binh thì không dùng mẹo lừa dối, mưu kỳ lạ" (Sử Ký – Hoài Âm hầu liệt truyện ), bỏ mặc kiến nghị của Lý Tả Xa sang một bên.

    Hàn Tín hay được chuyện này, trong lòng mừng thầm, lập tức bố trí hành động. Đúng lúc nửa đêm, điểm 2 nghìn kị binh nhẹ mang theo cờ đỏ của quân Hán ẩn náu ở gần doanh trại quân Triệu, lại lệnh cho những binh sĩ khác dùng bữa trước, chuẩn bị xuất phát, và nói với tướng sĩ rằng: "Hôm nay phá quân Triệu xong sẽ họp nhau ăn tiệc".

    Nghe thấy mệnh lệnh của đại tướng quân, đám quân sĩ vẻ mặt ngơ ngác. Lúc đó quân Hán chỉ có 3 vạn nhân mã, làm sao đánh bại được 20 vạn quân Triệu đây? Hơn nữa còn nói đánh trận xong rồi họp nhau ăn tiệc! Hẳn là đại tướng quân đang nói mơ chăng? Hàn Tín không để ý đến ánh mắt nửa tin, nửa ngờ của mọi người, ông chỉ huy 1 vạn binh sĩ đi vào từ cửa Tỉnh Hình trước, lập doanh trại quay lưng ra phía sông. Ông hiểu rõ mưu kế của Trần Dư là muốn một trận tiêu diệt gọn quân Hán, vậy nên khi không thấy toàn bộ quân Hán xuất hiện tuyệt sẽ không đến quấy rối. Tình thế quả nhiên như Hàn Tín tiên liệu, 1 vạn binh sĩ thuận lợi bố trí ổn thỏa.

    Sau khi trời sáng, Hàn Tín gióng trống khua chiêng tiến vào cửa Tỉnh Hình, bày trận bối thủy (quay lưng ra sông) ở bờ sông, sau đó thách đánh quân Triệu. Trần Dư nhìn thấy quân Hán người ít, bản thân lại chiếm ưu thế về địa hình, thế dựa vào núi và nhìn ra sông. Hai quân đánh nhau được một lúc, Hàn Tín giả thua bỏ chạy, trống trận và cờ xí đều không kịp mang theo, vứt ngổn ngang suốt dọc đường. Trần Dư nhìn thấy vậy, càng cảm thấy nắm chắc phần thắng, lập tức lệnh cho toàn quân ra trận bắt sống Hàn Tín. Hai nghìn quân kỵ mà Tín đã cho đi từ trước chờ đến khi quân Triệu bỏ lũy trống để đuổi theo quân Hán, liền ruổi nhanh vào trong thành, nhổ tất cả cờ xí của Triệu để dựng 2 nghìn lá cờ đỏ của Hán.

    Bên này, đội quân của Hàn Tín đã nhập vào đạo quân ở gần sông, ra sức đánh lại quân Triệu. Bởi không còn đường để rút lui, quân Hán ai nấy cũng đều chiến đấu dữ dội. Hai bên đánh nhau hơn cả nửa ngày trời vẫn không phân thắng bại. Quân Triệu thấy đánh nhau đã lâu mà vẫn không thắng, bèn thu binh về lại doanh trại. Về đến nơi thì thấy bên trong doanh trại toàn là cờ hiệu của quân Hán tung bay, cho rằng quân Hán đã chiếm mất doanh trại, lập tức lòng quân hoang mang, binh sĩ hỗn loạn bỏ chạy. Lúc này quân Hán rút đến gần sông liền chủ động quay lại đánh trả, cùng với 2 nghìn binh sĩ này thừa cơ hai bên áp lại, phá tan quân Triệu. Trần Dư tử trận, Triệu vương Yết và Lý Tả Xa bị bắt sống. Hàn Tín chỉ trong một trận mà diệt Triệu.

    Sau khi chiến trận kết thúc, các tướng hỏi Hàn Tín: "Binh pháp nói 'Bên phải sau lưng thì núi gò, trước mặt bên trái thì sông đầm' nay tướng quân lại sai chúng tôi quay lưng ra sông mà bày trận, thế mà lại có thể thắng được, không biết rốt cuộc là đạo lý gì đây?".

    Hàn Tín cười nói rằng: "Điều đó ở trong binh pháp, chỉ có điều mọi người không xét đến mà thôi. Chẳng phải binh pháp có nói: 'Hãm vào đất chết thì sau mới sống, dắt vào chỗ mất thì sau mới còn' đó sao? Vả chăng Tín không phải có những tướng sĩ đã từng được huấn luyện. Đây cũng như người ta nói là kéo những người ngoài chợ bắt họ đi đánh. Tình thế này nếu không đặt họ vào nơi đất chết khiến cho người nào cũng vì mình mà chiến đấu thì không được. Nếu như ta để cho họ vào nơi đất sống thì họ đều bỏ chạy, ta còn làm sao dùng họ được nữa". Mọi người lúc này mới thấy Hàn Tín đúng thật là cao thủ dùng binh.

    Hàn Tín vô cùng bội phục kiến thức của Quảng Võ Quân Lý Tả Xa. Khi Lý Tả Xa được dẫn vào trong quân doanh, Hàn Tín đã tự mình cởi dây trói và xin lỗi, mời ông ngồi ở hướng đông, mình thì ngồi ở hướng tây giống như học trò thỉnh giáo về sách lược thảo phạt nước Yên và nước Tề. Lý Tả Xa khiêm nhường nói: "Tôi nghe nói 'làm tướng mà quân đã thua trận thì không thể nói là dũng cảm, quan đại phu của nước đã mất thì không thể bàn đến việc bảo tồn nước'. Nay tôi là tên tù bại trận đâu có xứng đáng bàn đến việc đại sự".

    Hàn Tín vội đáp: "Tôi đây nghe nói Bách Lý Hề thời Xuân Thu trước là quan nước Ngu, về sau nước Ngu bị diệt, ông đã được Tần Mục Công dùng năm tấm da dê chuộc về, làm quan đại phu ở nước Tần, giúp Tần Mục Công thực xưng bá chư hầu. Đây vốn không phải Bách Lý Hề ở nước Ngu thì ngu mà về nước Tần thì khôn, cũng không phải vì ông không chịu tận sức cho nước Ngu, hay càng tận tâm cho nước Tần. Mà bởi quân vương nước Ngu không chịu nghe theo kế của ông, còn Tần Mục Công lại tiếp nhận kế sách của ông. Giả sử Trần Dư nghe theo kế của túc hạ thì bọn Tín cũng đã bị bắt rồi. Chỉ vì ông ta không dùng mưu của túc hạ cho nên Tín mới được hầu chuyện đó thôi" .

    Lý Tả Xa thấy Hàn Tín đối xử chân thành như vậy, lòng cảm động sâu sắc, nghiêm túc phân tích cục diện hiện thời: "Người khôn nghĩ một nghìn điều, thế nào cũng có một điều sai. Người ngu nghĩ một nghìn điều, thế nào cũng có một điều đúng, cho nên có câu: 'Lời nói của người cuồng cũng được thánh nhân xét đến', chỉ sợ mưu kế của tôi chưa chắc đã dùng được, nhưng cũng xin bày chút trung thành dại dột.


    Thành An Quân Trần Dư có kế bách chiến bách thắng, không may phút chốc thất bại, quân đội bị thua ở gần đất Cảo Thành, thân chết trên sông Chi Thủy. Nay tướng quân vượt Tây Hà, cầm tù vua Ngụy, bắt sống Hạ Thuyết ở Ứ Dự, đánh một trận lấy Tỉnh Hình, chưa trọn buổi sáng đã phá được hai mươi vạn quân Triệu, giết Thành An Quân Trần Dư. Danh tiếng nổi trong nước, uy thế rung động thiên hạ. Người nông phu không ai không nghỉ việc, buông cày, mặc áo đẹp, đem thức ăn ngon, nghiêng tai để chờ quyết định vận mệnh. Đó là cái sở trường của tướng quân.

    Nhưng nay quân mệt, lính mỏi, đóng lâu ở dưới chân thành kiên cố của nước Yên. Muốn đánh thì sợ đánh lâu mà sức không thể lấy được. Thực tình sẽ lộ ra sơ hở khiến quân uy giảm sút, lâu ngày hết lương mà nước Yên yếu thế kia vẫn không phục, nước Tề thế nào cũng giữ biên giới để tự cường. Nước Yên, nước Tề đều chống cự không chịu đầu hàng, thì chưa biết họ Lưu hay họ Hạng sẽ nắm phần thắng lợi. Đó là sở đoản của tướng quân.

    Tôi là người ngu, trộm cho kế của ngài là sai. Vì vậy kẻ giỏi dùng binh không lấy cái sở đoản để đánh cái sở trường mà lấy cái sở trường để đánh cái sở đoản. Nay tính mưu kế cho tướng quân, không gì bằng xếp giáp cho quân nghỉ ngơi, bình định nước Triệu, vỗ về những người con mất cha. Trong vòng trăm dặm, vò rượu ngày nào cũng đem đến để thết sĩ phu, khao quân lính, hướng về nước Yên ở phía Bắc mà đóng quân. Sau đó sai người biện sĩ mang một bức thư, nói rõ cái sở trường của mình với nước Yên, chắc chắn nước Yên không dám không nghe theo. Nước Yên đã nghe theo, sai người biện sĩ đi về hướng Đông nói với Tề, nước Tề thế nào cũng nghe theo như cỏ lướt trước ngọn gió, dẫu có người mưu trí cũng không biết bày cách gì cho Tề. Như thế thì có thể lấy được thiên hạ. Việc binh vốn có cái thuật 'trước hư trương thanh thế rồi sau mới dùng thực lực', tức là như thế".

    Hàn Tín nghe xong tấm tắc khen hay, lập tức cử sứ giả đến nước Yên dâng thư cho Yên vương, trình bày lợi hại khuyên họ quy hàng. Yên vương khiếp sợ uy danh của Hàn Tín, quả nhiên đầu hàng, bỏ Sở theo Hán.

    [​IMG]


    Nước Yên bỏ Sở theo Hán. Ảnh dẫn theo dssk.net

    3. Rạng đông cướp tướng ấn

    Sau khi Hàn Tín liên tiếp giành được thắng lợi ở miền Bắc, cục diện trên chiến trường đã bắt đầu có lợi cho quân Hán. Hạng Vũ hết sức khẩn trương, thường xuyên cử binh đến quấy nhiễu biên giới Yên, Triệu. Hàn Tín bôn ba tới lui đánh đuổi quân Sở, vỗ về dân chúng, đồng thời huấn luyện, chiêu mộ binh mới, chi viện chiến trường mặt chính ở Huỳnh Dương của Lưu Bang.

    Cùng lúc này, ở đất Đại, đất Triệu đôi lúc cũng có những chiến sự vụn vặt phát sinh. Để tiện quản lý, Hàn Tín tiến cử với Lưu Bang lập Trương Nhĩ làm Triệu vương. Thật ra với công lao của Hàn Tín, thỉnh cầu sắc phong cho mình làm vương cũng là rất thỏa đáng. Trương Nhĩ là bạn cũ của Lưu Bang, rất được tín nhiệm, cộng thêm Lưu Bang đang bị Hạng Vũ áp chế đến thở không ra hơi, nên đã vui vẻ đáp ứng thỉnh cầu của Hàn Tín.

    Tuy Hàn Tín cùng lúc đánh Đại, phá Triệu nhưng Hạng Vũ cũng đã bắt đầu phản công Lưu Bang dữ dội hơn. Lưu Bang dĩ nhiên không phải là đối thủ của Hạng Vũ. Quân Sở mau chóng đoạt lại toàn bộ căn cứ địa của quân Hán từ Huỳnh Dương trở về phía đông, chặt đứt con đường vận chuyển lương thảo, vây chặt Huỳnh Dương chật như nêm cối. Lần bao vây này kéo dài hơn một năm trời.

    Lưu Bang bản lĩnh đánh trận không giỏi, nhưng lại rất giỏi bảo toàn tính mệnh và dùng mưu kế thâm hiểm. Ông ta trước tiên xách động Anh Bố, về sau lại đưa cho Trần Bình 4 vạn tiền để ông này ly gián quan hệ giữa Hạng Vũ với nhóm đại tướng Chung Ly Muội, Long Thư. Điều này còn khiến cho Phạm Tăng, mưu sĩ được Hạng Vũ tín nhiệm nhất, uất hận mà bỏ đi. Dù vậy, vòng vây Huỳnh Dương vẫn không giải trừ được. Lưu Bang cuối cùng đã dùng kế trá hàng, cho tướng quân Kỷ Tín đóng giả mình, thừa lúc hỗn loạn bỏ trốn.

    [​IMG]


    Tạo hình mưu sĩ Phạm Tăng, Á phụ của Hạng Vũ. Ảnh dẫn theo twitter.com

    Sau khi Hạng Vũ đoạt lại Huỳnh Dương liền thừa thắng đuổi theo, lần nữa lấy lại được trọng trấn Thành Phụ. Lưu Bang thì rụt cổ ở Võ Quan, chỉ phòng thủ chứ không nghênh chiến, đồng thời không ngừng cầu xin Bành Việt gây rối ở hậu phương Hạng Vũ. Bành Việt đánh mãi đến phụ cận Bành Thành, trực tiếp uy hiếp kinh đô nước Sở. Hạng Vũ buộc phải hành quân nghìn dặm trở về ứng cứu kinh sư. Áp lực của Lưu Bang ngay lập tức được giảm nhẹ. Quân Hán lại thừa cơ chiếm lĩnh Thành Phụ và Huỳnh Dương. Sau khi Hạng Vũ đánh bại được Bành Việt, điều quân trở về công đánh Lưu Banh, chưa đến một tháng, đã liên tiếp chiếm lại Huỳnh Dương và Thành Phụ. Ngay trước khi thành Thành Phụ bị công phá, hai người Lưu Bang và Hạ Hầu Anh đã trốn được ra ngoài.

    Lưu Bang sức cùng lực cạn, đã bị Hạng Vũ đánh cho kinh sợ, nhưng trốn đến nơi nào mới được an toàn đây? Ông bèn nghĩ đến Hàn Tín đang đóng quân ở Tu Võ. Sau khi Hàn Tín thu phục được Yên, Triệu, theo kế hoạch sẽ tiến lên đất Tề nhưng bởi Lưu Bang liên tục bại trận ở chiến trường chính Huỳnh Dương nên Hàn Tín đã chọn Tu Võ ở phía nam đất Ngụy làm căn cứ địa để tiện luyện tập binh sĩ và chi viện cho Lưu Bang.

    Nghĩ đến Hàn Tín, tâm tình của Lưu Bang vô cùng phức tạp. Nhờ Hàn Tín chống đỡ cục diện nguy nan, ông mới có thể chết đi sống lại hết lần này đến lần khác, thật đúng là vô cùng may mắn. Mặt khác, Hàn Tín chỉ dựa vào 3 vạn binh mã tầm thường lại chế phục được các chư hầu phương Bắc, còn ông thân là Hán vương lại liên tục bại trận, không biết để mặt mũi vào đâu. Bây giờ Hàn Tín đã có hơn 10 vạn binh mã, còn Lưu Bang chỉ còn lại một người một xe, ông muốn có được quân tiếp viện nhưng lại không muốn nợ ân tình của Hàn Tín. Lưu Bang trầm ngâm suy nghĩ, trù tính ra một màn kịch đời sau gọi là "rạng đông đoạt tướng ấn".

    Tháng 6 năm thứ tư Hán Cao Tổ (tức năm 203 TCN), Lưu Bang cùng với Hạ Hầu Anh thảm hại trốn chạy từ Thành Cao, suốt quãng đường ăn gió nằm sương đã đến được Tu Võ, nơi Hàn Tín đóng quân. Nhưng bản thân Lưu Bang bản tính đa nghi, ngờ vực, vốn không đi đến doanh trại gặp mặt Hàn Tín, Trương Nhĩ mà âm thầm lặng lẽ ở trong trạm dịch. Hôm sau trời còn chưa sáng, nhân lúc Hàn Tín, Trương Nhĩ vẫn còn đang ngủ say, Lưu Bang giả trang thành sứ giả của Hán vương lén vào trong lều trại của Hàn Tín, lấy trộm binh phù, lệnh tiễn và tướng ấn của Hàn Tín, Trương Nhĩ, đoạt binh quyền của hai người họ vào trong tay mình. Lại triệu tập các tướng lĩnh khác, bố trí lại chức vị các tướng mới yên tâm đánh thức Hàn Tín, Trương Nhĩ hai người.

    Hàn Tín và Trương Nhĩ vội vàng chỉnh đốn áo mũ đi ra nghênh đón. Lưu Bang phong Hàn Tín làm tướng quốc, lệnh cho Trương Nhĩ quản lý hai vùng đất Triệu, Đại, còn bản thân thì dẫn theo đại quân của Hàn Tín đi giải cứu nguy cơ nơi chiến trường Huỳnh Dương. Sau đó, nhờ vào đại tướng quân Hàn Tín và Bành Việt đánh giúp hậu phương Hạng Vũ, Lưu Bang cuối cùng đã đoạt lại được Huỳnh Dương và Thành Phụ.
     
    Mèo A Mao Huỳnh Mai thích bài này.
    Last edited by a moderator: 20 Tháng chín 2018
  7. Rùa Siêu Tốc Rùa ngoan nhất

    Bài viết:
    453
    6. San bằng Tề quốc, công trùm thiên hạ vẫn một lòng theo Hán

    Bấm để xem
    Đóng lại
    [​IMG]

    Sau khi Hàn Tín diệt Ngụy, phá Triệu, công chiếm Huỳnh Dương, Thành Phụ, ưu thế trên chiến trường Hán Sở rõ ràng đã nghiêng về quân Hán. Lưu Bang dần xiết chặt vòng vây đối với Hạng Vũ, ngày thắng lợi cuối cùng đã không còn xa.

    1. Công chiếm nước Tề

    Nước Tề đất rộng người đông, thực lực hùng hậu. Hán Sở giằng co, Tề bảo trì trung lập, ngồi trên núi nhìn hổ đấu. Sau khi Triệu bị công phá, Tề điều 20 vạn đại quân bày thành thế trận chờ sẵn Hàn Tín ở biên giới. Dù cho Lưu Bang âm hiểm xảo quyệt, lại cướp mất binh quyền của Hàn Tín, nhưng Hàn Tín đối với Hán vẫn một lòng trung thành như thuở đầu. Ông lập tức chiêu binh mãi mã, thành lập một nhánh quân mới, chuẩn bị công đánh nước Tề.

    Hàn Tín có tài thao lược, tân binh chiêu mộ sau khi trải qua huấn luyện trong một thời gian ngắn đã trở thành những tinh binh anh dũng thiện chiến. Lưu Bang lo quân số tân binh không đủ để đối đầu với quân Tề, đã điều Tào Tham và Quán Anh đến giúp đỡ, đồng thời cũng thuận tiện giám sát Hàn Tín.

    Trước đêm Hàn Tín xuất binh đánh Tề, mưu sĩ của Lưu Bang là Lệ Thực Kỳ xin được sang Tề khuyên giải. Ông đến nước Tề không e dè tuyên dương chiến tích ngày trước của Hàn Tín ngay trước mặt Tề vương Điền Quảng và tướng quốc nước Tề là Điền Hoành, liệt kê ra bài học kinh nghiệm của Ngụy vương Báo, Triệu vương Yết và Trần Dư, Hạ Thuyết và tiền lệ nước Yên đầu hàng, chỉ ra rằng quy hàng có thể bảo toàn được giang sơn, còn nếu không đầu hàng thì sẽ phải diệt vong.

    Điền Hoành và Điền Quảng vốn không phải là đồng minh của Hạng Vũ, giao chiến với Hàn Tín cũng không nắm chắc phần thắng, liền bị Lệ Thực Kỳ thuyết phục, quyết định đầu hàng. Lệ Thực Kỳ được tôn làm thượng khách, đồng thời nước Tề cũng buông lỏng việc phòng thủ biên cương.

    Hàn Tín dẫn theo quân đội tiến về phía đông, vẫn chưa từ bình nguyên vượt qua Hoàng Hà, thì nghe nói biện sĩ Lệ Thực Kỳ được Hán vương sai đi đã thuyết phục được nước Tề đầu hàng. Tuy không rõ nội tình, ông vẫn dự tính thu binh về lại kinh thành. Nhưng Khoái Triệt, mưu sĩ của ông lại, người nổi tiếng thông minh, nhanh nhạy, giỏi biện giải, lại có cách nghĩ khác.

    [​IMG]


    Hàn Tín có tài thao lược, chỉ với những tân binh mới chiêu mộ nhưng ông đã chiếm được nước Tề. Ảnh dẫn theo m. Haolishi.com

    Khoái Triệt cảm thấy việc Hàn Tín bãi binh ngưng chiến thật không thỏa đáng. Ông nhắc nhở Hàn Tín: "Đại tướng quân công đánh nước Tề là theo lệnh của Hán vương mà hành sự. Hán vương cử sứ giả khuyên giải nước Tề đầu hàng vốn chưa hề thông báo cho ông dừng việc tiến quân. Nếu bây giờ bãi binh không đánh Tề nữa, há không phải là trái lệnh của Hán vương hay sao? Hơn nữa, Lệ Thực Kỳ chỉ là một gã thư sinh, chỉ dựa vào ba tấc lưỡi thật sự có thể thuyết phục nước Tề lớn mạnh như vậy đầu hàng hay không? Nếu không có uy thế áp sát biên giới của đại quân ngài, đây vốn là chuyện không thể nào"

    Hàn Tín thấy lời của Khoái Triệt rất có đạo lý. Nước Tề thực lực lớn mạnh, rõ ràng không dễ mà phục tùng nhà Hán. Nếu như một ngày kia hình thế có biến, khó tránh việc Tề lại khởi tâm phản nghịch, chi bằng giải quyết triệt để là tốt nhất. Thế là nhân lúc quân Tề không phòng bị, Hàn Tín mau chóng dẫn đại quân vượt Hoàng Hà, tiêu diệt chủ lực quân Tề, dễ dàng chiếm lấy Lịch Hạ, cấp tốc công chiếm các nơi, ông đích thân dẫn chủ lực quân Hán ngày đêm tiến về Lâm Tri, kinh đô nước Tề.

    Điền Quảng, Điền Hoành hay tin, giận đứng cả tóc gáy, cho rằng Lệ Thực Kỳ đến đây giả vờ chiêu an để nước Tề buông lơi phòng bị, giúp quân Hán thừa cơ tiến vào. Tề vương lệnh cho Lệ Thực Kỳ bảo Hàn Tín lui binh, nếu không sẽ phải xuống vạc dầu. Lệ Thực Kỳ đã chọn lấy cái chết. Sau khi giết Lệ Thực Kỳ, Điền Quảng, Điền Hoành hoảng hốt dẫn quân xông phá vòng vây. Hàn Tín chia binh đuổi theo tàn quân, quân Tề dọc đường liên tiếp bại trận, toàn bộ nước Tề mau chóng nằm trong tay Hàn Tín. Toàn bộ cuộc chiến diệt Tề trước sau không mất đến 1 tháng.

    Có học giả đời sau quy cái chết của Lệ Thực Kỳ cho Hàn Tín, rằng Hàn Tín đánh Tề là bởi ông đố kỵ với công lao của Lệ Thực Kỳ, người vốn chỉ dùng 3 tấc lưỡi mà khuyên được cả nước Tề khuất phục. Thật ra, loại quan điểm này là hoàn toàn không có cơ sở. Nguyên nhân như sau:

    Thứ nhất, Hàn Tín chí hướng cao xa, tấm lòng thoáng đãng, tuyệt không phải là phường tranh danh trục lợi. Ngay từ lúc bắt dầu dẫn binh chinh chiến, chiến công lừng lẫy, Lưu Bang không chỉ không trọng thưởng, trái lại ba lần bảy lượt đoạt lấy thành quả cho riêng mình. Hàn Tín đối với chuyện này không chút oán giận, vẫn một lòng tận tâm trung thành suy nghĩ cho Lưu Bang, hoàn toàn không có chút oán trời trách người. Sau khi đánh bại nước Triệu, Hàn Tín không tranh công thỉnh thưởng cho mình, mà xin Lưu Bang phong Trương Nhĩ làm Triệu vương, với công lao của Hàn Tín nếu muốn được sắc phong thì nào có gì khó?

    Thứ hai, từ bình định Tam Tần đến dâng thư chiêu an nước Yên, rồi phá Ngụy, đánh Triệu, công lao của Hàn Tín đối với Hán đã vượt trên tất cả chiến tướng và mưu sĩ của Lưu Bang, ông hoàn toàn không cần thiết phải tranh cao thấp với một mưu sĩ.

    Thứ ba, cái chết của Lệ Thực Kỳ hoàn toàn là âm mưu của Lưu Bang. Trên chiến trường Huỳnh Dương, Lưu Bang mãi lún sâu vào tình thế xấu, bắt buộc phải phá được Tề để phân tán sức công đánh của Hạng Vũ, giải cứu Huỳnh Dương. Vì để việc phá Tề chắc chắn thành công, cũng là tự cứu mình, Lưu Bang bèn chi viện cho Hàn Tín.

    Tuy đã có được chi viện nhưng so với quân Tề, số lượng quân Hán vẫn còn thua xa. Lệ Thực Kỳ tự mình xung phong chiêu an nước Tề, vừa khéo đã bị Lưu Bang lợi dụng. Lưu Bang một mặt để cho Lệ Thực Kỳ đi khuyên giải nhưng mặt khác lại không thông báo cho Hàn Tín dừng tiến quân. Đó chính là minh chứng rõ ràng nhất.

    Đối với cái chết của Lệ Thực Kỳ, Lưu Bang vốn không chút tiếc rẻ. Lúc đầu vì để bản thân có thể trốn chạy, Lưu Bang đã từng mấy lần xô hai đứa con của mình xuống xe. Người mà ngay đến cả đến con mình cũng không màng thì làm sao có thể quan tâm đến một mưu sĩ hèn mọn đây?

    Vậy nên cái chết của Lệ Thực Kỳ đích thực là âm mưu của Lưu Bang.

    Đây cũng là một ngụy kế vô cùng thâm hiểm của Lưu Bang, để cho Hàn Tín dù chiến thắng hay bại trận đều không thể vẹn toàn. Nếu Hàn Tín không đánh nữa thì là làm trái ý chỉ của Lưu Bang, còn như Hàn Tín đánh thắng, vẫn là làm trái ý chỉ của Lưu Bang.

    Lúc đó, Tề vương cũng chỉ là đồng ý quy thuận Lưu Bang ngoài miệng, vốn không có văn thư chính thức. Dựa theo biểu hiện xưa nay của nước Tề, loại quy thuận này giống với kế hoãn binh hơn, thực tế chính là tiếp tục ngồi yên trên núi nhìn hổ đấu. Nếu như không giải quyết lực lượng quân sự nước Tề tận gốc thì Hàn Tín không thể yên tâm kéo quân xuống phía nam đánh Sở được.

    Cuộc chiến diệt Tề đã khiến cho ưu thế giằng co giữa hai bên rõ ràng nghiêng về bên Hán, quân Hán đã hoàn thành bao vây trên quy mô lớn đối với Hạng Vũ, bảo đảm thắng lợi sau cùng. Diệt Triệu, phạt Tề, đây đều là những trận đánh kinh điển của Hàn Tín với kế sách lấy ít thắng nhiều, bắt toàn bộ quân địch, giết chủ soái, công chiếm hoàn toàn một nước chỉ mất thời gian mấy tháng.

    2. Trận chiến Duy Thủy

    Trong khi Hàn Tín phá Tề, chính là lúc Hạng Vũ đông chinh Bành Thành lần thứ hai, trong 15 ngày đã thu lại 17 tòa thành trì, bình định đất Lương. Tề vương Điền Quảng thất trận, bất đắc dĩ đã cầu cứu Hạng Vũ. Hạng Vũ nhiều lần suy nghĩ, quyết định cử đại tướng Long Thư làm thống soái dẫn theo 20 vạn binh mã cứu Tề.

    [​IMG]


    Quân Hạng Vũ: Ảnh dẫn theo baomoi.com

    Long Thư hành động mau chóng, tháng 10 đã cùng Tề vương Điền Quảng hợp lực ở Cao Mật. Khi đó, tình thế đối với Hàn Tín vô cùng bất lợi, phía tây nam có quân của Điền Hoành, đông nam có quân của Điền Quang, đông bắc có quân của Điền Ký, hình thành thế giáp công. Long Thư là đệ nhất mãnh tướng dưới trướng của Hạng Vũ, đã từng hợp lực cùng Điền Vinh đại phá quân Tần ở Đông A, danh tướng Anh Bố cũng là bại tướng dưới tay ông.

    Tề Sở liên minh hơn 20 vạn đại quân, quân của Long Thư phần nhiều là kỵ binh tinh nhuệ của thị tộc Lâu Phiền, anh dũng thiện chiến. Trong khi quân của Hàn Tín không đến 10 vạn, còn phải chia binh ở các nơi như Lịch Hạ, Lâm Truy, để ngăn nhóm quân của Điền Hoành, Điền Ký phản công.

    Hai quân còn chưa giao tranh, mưu sĩ dưới trướng Long Thư đã hiến kế rằng, quân Hán cách xa bản thổ, liều chết chiến đấu, tinh nhuệ khó bề cản nổi. Còn hai quân Tề, Sở thì lại tác chiến ở ngay trước cửa nhà mình. Quân binh dễ bề tháo chạy. Bởi vậy, chi bằng xây dựng thành cao hào sâu để cho Tề vương phái đại thần tâm phúc chiêu hàng các thành ấp đã mất đi.

    Những thành ấp đó nếu biết được quân vương của mình vẫn còn sống, cộng thêm quân Sở đến cứu viện, ắt đều sẽ vùng lên chống lại quân Hán. Quân Hán tạm lưu lại đất Tề, cách xa đất mình hai nghìn dặm, nếu như toàn bộ thành ấp nước Tề đều đứng lên chống lại, quân Hán sẽ không có chỗ nào lấy được lương thảo, như vậy vừa có thể không cần phải đánh mà lại khiến họ đầu hàng.

    Đây quả đúng thật là thượng sách trong thượng sách để phá quân Hàn Tín, nhưng Long Thư lại không nghe theo. Ông nói: "Hàn Tín chẳng qua chỉ là kẻ sống nhờ bố thí của bà lão giặt đồ thuê, chui qua háng người khác, quả thật không có gì phải sợ. Huống hồ hiện nay cứu viện nước Tề, nếu không đánh một trận mà chỉ chờ quân Hán chủ động đầu hàng, thì ta còn có công trạng gì đáng để nhắc đến nữa! Nếu đánh bại được Hàn Tín, thì một nửa nước Tề chính là thuộc về ta rồi"

    Suy nghĩ của Long Thư chính là, nếu như kiên thủ không đánh, lực lượng quân Tề sẽ khôi phục mau chóng. Dù có thể đánh bại Hàn Tín, nhưng người nắm giữ nước Tề lần nữa vẫn là Điền thị, Long Thư và nước Sở sẽ không được lợi ích gì cả. Nước Tề và nước Sở nguyên vốn có thù không đội trời chung, lần này tạm gác ân oán sang một bên cũng thực là do tình thế ép buộc. Một khi mối nguy này đã không còn nữa, quan hệ hợp tác giữa hai bên cũng sẽ tan thành mây khói, thế thì Long Thư kéo quân lên bắc lần này chẳng qua chỉ là thêu hoa lên gấm cho nước Tề. Chính những điều này đã quyết định ông ta cần phải quyết đấu với Hàn Tín trên chiến trường.

    Tháng 11 năm thứ 3 Hán Cao Tổ (năm 202 TCN – thời đó lấy tháng 10 là tháng giêng), quân đội hai nước Tề, Sở bày trận thế ở bên kia sông Duy Thủy. Điền Quảng và Long Thư hợp quân ở bờ phía đông của sông Duy Thủy, Hàn Tín thì ở bờ phía tây. Ưu thế về binh lực và địa hình hiểm yếu của sông Duy Thủy khiến Long Thư tin chắc mình sẽ chiến thắng.

    Hàn Tín lệnh cho binh sĩ suốt đêm làm gấp hơn 10 nghìn cái túi, đựng đầy đất cát, cho số bao cát đó chặn ở thượng du của sông Duy Thủy, nước sông dồn tích lại tạo thành một đập chứa nước. Ông lệnh cho một nửa nhân mã mai phục ở bờ sông, còn bản thân ông thì dẫn theo một nửa số quân vượt sông tập kích Long Thư.

    Long Thư cười thầm trong lòng: "Hàn Tín quả nhiên chỉ là phường hư danh, ngay đến chút đạo lý vượt sông công đánh cũng đều không biết, hãy để ta giáo huấn hắn ta một phen" Thế là nhân lúc quân Hán mới vượt được một nửa con sông, Long Thư liền ra lệnh tấn công. Hàn Tín giả vờ quay lưng bỏ chạy về. Long Thư dương dương tự đắc, bèn xung phong đi đầu, cưỡi ngựa lên trước, dẫn theo đại quân vượt sông đuổi theo.

    Quân tiên phong của Long Thư vừa mới qua sông, quân chủ lực mới qua được nửa sông, Hàn Tín lệnh cho quân sĩ phá bao đựng cát, nước sông ào ào chảy xuống, binh sĩ ở giữa sông đều bị cuốn trôi hơn một nửa. Quân Tề, quân Sở trên bờ bị ngăn bởi hai bên sông, đầu đuôi không thể tiếp ứng. Quân Hán thừa cơ đánh bật trở lại. Trong lúc hỗn chiến, Long Thư bị Tào Tham giết chết, toàn bộ liên quân Tề Sở ở bờ phía tây đều bị đội quân Hàn Tín tiêu diệt. Tàn quân của Long Thư phía đông dòng sông bỏ chạy toán loạn.

    Hàn Tín dẫn quân đuổi theo tàn quân đến Thành Dương, bắt sống được Điền Quảng, Điền Quang và Điền Chương, giành được toàn thắng. Tào Tham đông tiến, dẹp yên quân của Điền Ký. Quán Anh đi về phía tây truy kích Điền Hoành. Điền Hoành dọc đường bại trận chạy đến đất Lương, quy thuận Bành Việt. Quán Anh tiếp tục tiến quân đến Can Thừa công đánh tướng Tề là Điền Hấp. Điền Hấp, Điền Quảng đều tử trận nơi chiến trường. Quân Hán bình định đất Tề, tổng cộng thu được hơn 70 thành trì.

    3. Tự thỉnh phong vương

    Hàn Tín đại phá quân của Long Thư, bình định nước Tề, bước tiếp theo chính là quyết chiến với Hạng Vũ. Trước lúc quyết chiến, then chốt nhất chính là củng cố thành quả đã đạt được. Người dân nước Tề trước nay không cam tâm bị người khác thống trị, thêm vào nữa là Điền Hoành còn chưa chết, càng tăng thêm tính không ổn định của nước Tề. Số thành trì nước Tề mà quân Hán chiếm lĩnh được còn nhiều hơn tổng số thành trì đã có trước đó. Vậy nên trấn giữ nước Tề quả thật là một thử thách rất to lớn.

    [​IMG]


    Hàn Tín quyết chiến Hạng Vũ: Ảnh dẫn theo m. Phbang.net

    Cục diện của nước Tề nếu so với nước Yên thì còn phức tạp hơn. Bên cạnh Hàn Tín cũng không có nhân tài quản lý đất nước được như Trương Nhĩ, mà chỉ có những kẻ võ phu như Quán Anh, Tào Tham. Bất đắc dĩ, Hàn Tín viết thư cho Lưu Bang: "Nước Tề là nước gian dối, hay gây biến, tráo trở. Biên giới phía nam là nước Sở, nếu không lập giả vương để giữ thì không thể bình định được. Xin cho thần được làm giả vương", chính là thỉnh cầu bản thân được làm "giả vương nước Tề", chính là ý thay mặt Tề vương.

    Lưu Bang trước nay vốn nghi kỵ Hàn Tín, bởi phải nhờ vào Hàn Tín đối chọi với Hạng Vũ, bất đắc dĩ mới trao cho Hàn Tín binh quyền nhất định. Hàn Tín trong khi bình định nước Tề ở phía đông, Lưu Bang ở Quảng Võ bị Hạng Vũ bắn trúng phần ngực, về sau bao vây Chung Ly Muội không có kết quả lại bị Hạng Vũ đánh cho một trận bị dồn đến tiến thoái không được, một lòng trông ngóng Hàn Tín sau khi dẹp yên nước Tề mau chóng đến cứu viện mình.

    Sau khi nhìn thấy thư của Hàn Tín, Lưu Bang không khỏi giận tím mặt, lớn tiếng chửi mắng ở trước mặt sứ giả. Trương Lương đứng ở bên cạnh vội giẫm vào chân của Lưu Bang một cái, nhắc ông ta tình thế nguy cấp, chi bằng hãy đối xử tử tế với Hàn Tín, cho Tín bảo vệ nước Tề. Còn như nước Tề phát sinh biến cố, hình thế sẽ càng bất lợi hơn.

    Lưu Bang vốn giỏi về tâm kế, đương nhiên tự mình biết được nặng nhẹ, lập tức đổi giọng nói rằng: "Nếu muốn làm thì hãy làm chân vương, tội tình gì phải làm giả vương chứ?" Bèn cử Trương Lương làm đặc sứ, mang ấn thụ đến đất Tề, phong cho Hàn Tín làm Tề vương. Khi Trương Lương đi lại dẫn theo đại bộ phận binh lực của Hàn Tín đến Huỳnh Dương quyết chiến với Hạng Vũ.

    Người đời sau cho rằng hành động tự xin được phong vương này của Hàn Tín đã mang đến bi kịch cho ông. Những người ôm giữ quan điểm này đã bỏ qua tính cách cơ bản nhất của Lưu Bang và Hàn Tín, chỉ nhìn đến hiện tượng bề mặt.

    Trước tiên, việc lập ra Tề vương là tình thế bắt buộc. Lưu Bang không nhìn ra được điểm này hoặc không thể chấp nhận điểm này. Hàn Tín dâng thư nói thẳng là hành động của bậc trung thần. Thế thì ai thích hợp làm chủ chính đất Tề đây? Hàn Tín ở đất Tề liên tiếp đánh thắng trận, uy danh tựa như mặt trời chính ngọ, ngoài Hàn Tín ra, xác thật không có người nào khác có thể ổn định thế cục của đất Tề.

    Thứ hai, Hàn Tín đã lập nên biết bao chiến công hiển hách cho Lưu Bang, dù cho có thật sự luận công thỉnh thưởng, sắc phong cho ông làm Tề vương thì cũng không có gì là quá đáng.

    Thứ ba, lòng đố kỵ chèn ép và tìm cách loại bỏ Hàn Tín của Lưu Bang vốn không phải từ khi Hàn Tín xin sắc phong cho mình là Tề vương mới bắt đầu, mà nguyên đã bắt đầu ngay từ khi rời khỏi Hán Trung. Mỗi lần đều là những lúc thân ở vào tình thế nước sôi lửa bỏng mới tái bổ nhiệm Hàn Tín. Còn khi tình huống vừa mới biến chuyển tốt lên một chút, Lưu Bang ngay lập tức tước lấy binh quyền hoặc kìm hãm sự phát triển của Hàn Tín. Tuy Hàn Tín mãi luôn lấy đức báo oán, một lòng trung thành với nhà Hán, cũng không thể cảm hóa được Lưu Bang.

    4. Quyết không phản Hán

    Tuy Lưu Bang ngay đến cả tước vương cũng không có ý muốn phong cho Hàn Tín nhưng công lao và năng lực của Hàn Tín đã được người trong thiên hạ biết quá rõ ràng. Rất nhiều kẻ sĩ có tầm nhìn đều nhận ra Hàn Tín mới là người nắm giữ đại cục, có thể thống nhất thiên hạ. Nếu Hàn Tín đầu quân cho Lưu Bang thì nhà Hán thắng. Nếu ông nghiêng về Hạng Vũ thì nước Sở thắng, còn như tự lập làm vương thì sẽ chia ba thiên hạ.

    [​IMG]


    Hán cao tổ Lưu Bang: Ảnh dẫn theo m. V4. Cc

    Hạng Vũ nguyên vốn tự tin bản thân mình là thiên hạ vô địch, vốn không xem trọng mưu trí và binh pháp. Cái chết của Long Thư đã giáng một đòn nặng vào đầu ông, sau khi suy đi nghĩ lại, Hạng Vũ đã thỉnh mời Vũ Thiệp có tài ăn nói đến thuyết phục Hàn Tín. Quê nhà của Vũ Thiệp sát với Hoài Âm, có thể xem là đồng hương của Hàn Tín, xưa nay dựa vào khẩu tài mà vang danh thiên hạ.

    Vũ Thiệp đến gặp Hàn Tín, phân tích rõ bản chất con người của Lưu Bang, chỉ ra lòng tham không đáy, hành động bội tín bội nghĩa, trở mặt vô tình và lấy oán báo ân của ông ta, loại người không giảng tín nghĩa, tráo trở lật lọng thất thường như vậy làm sao có thể dựa dẫm được đây? Lưu Bang hiện nay sở dĩ chưa trở mặt với Hàn Tín, là vì muốn mượn Hàn Tín đối phó Hạng Vũ. Một khi Hạng Vũ bị tiêu diệt rồi, người kế tiếp sẽ đến lượt Hàn Tín. Người thông minh tài giỏi giống như Hàn Tín lẽ nào nhất định muốn đem sức phục vụ cho Hán vương để rồi đẩy bản thân mình vào hiểm cảnh hay sao?

    Vũ Thiệp đã dùng hết lời lẽ sức bén, lập luận sắc sảo để phân tích cục diện, mỗi một câu đều nói trúng trọng tâm, nhưng Hàn Tín không chút động tâm, đã biểu đạt lòng trung thành "dù chết cũng không thay lòng" Ông nhờ Vũ Thiệp gửi lời cảm ơn đến Hạng vương. Vũ Thiệp thấy Hàn Tín thái độ dứt khoát, cũng đành phải hậm hực bỏ đi.

    Sau khi Vũ Thiệp đi rồi, Khoái Triệt, tâm phúc của Hàn Tín cũng đến cùng ông thảo luận chủ đề tương đồng. Ông hiểu rõ Hàn Tín trọng nghĩa khinh lợi, có ân ắt báo, vậy nên đã mượn thuật xem tướng mặt mà thuyết phục Hàn Tín. Ông nói đã từng được cao nhân chỉ điểm, am tường huyền cơ của thuật xem tướng, từ cốt cách mặt mũi suy đoán vận mệnh, trước nay đều ứng nghiệm cả. Hàn Tín quả nhiên rất lấy làm hứng thú, xin Khoái Triệt xem tướng mặt cho mình.

    Khoái Triệt bảo Hàn Tín lệnh cho tả hữu lui ra, một lời hai ý nói rằng: "Chỉ xem tướng mặt của ngài, nhiều nhất chẳng qua là được phong hầu, hơn nữa còn có nguy hiểm. Nhưng nhìn lưng của ngài, thì quý không sao lường được" Lưng (bối) mà Khoái Triệt nói ở đây ý là chỉ rời bỏ Hán vương, mặt (diện) là đối lập với lưng mà nói, ý chỉ trung thành với Hán vương.

    Khoái Triệt nói: "Lúc thiên hạ mới khởi sự, các anh hùng hào kiệt đều xưng vương, hiệu triệu kẻ sĩ trong thiên hạ như mây họp, sương mù tụ lại, nhan nhản như vẩy cá, tấp nập như lửa bốc, như gió thổi. Lúc bấy giờ, họ chỉ lo nghĩ đến việc tiêu diệt nhà Tần đang suy vong mà thôi. Nay Sở và Hán tranh giành nhau khiến cho gan mật của những người trong thiên hạ phơi đầy đất, cha con bỏ xương ở ngoài đồng nội, kể không sao xiết.


    Theo tôi, tình thế này nếu không có kẻ hiền thánh trong thiên hạ thì không sao dẹp nổi tai họa trong thiên hạ. Hiện nay tính mạng của hai vua đều treo ở tay túc hạ. Túc hạ theo Hán thì Hán thắng, theo Sở thì Sở thắng. Tôi xin phơi bày gan ruột, nói rõ lòng thành, trình bày cái kế ngu muội của tôi, chỉ sợ túc hạ không biết dùng. Nếu quả túc hạ nghe theo mưu kế của tôi, thì không gì bằng làm lợi cho cả đôi bên khiến họ đều sống chia ba thiên hạ, đứng theo thế vạc ba chân. Trong tình thế ấy thì cả hai bên không ai dám động binh trước.

    Túc hạ là người hiền thánh, quân sĩ đông, giữ lấy nước Tề hùng mạnh, bắt nước Yên, nước Triệu theo mình, xuất quân ra miền đất trống ở đằng sau lưng họ mà kiềm chế hậu phương họ, thuận theo dân mong muốn quay đầu về hướng Tây để cho trăm họ được sống thì thiên hạ thế nào cũng chạy theo như gió thổi, như tiếng vang, còn ai dám không nghe!

    Túc hạ cắt đất nước lớn, làm yếu nước mạnh, để lập chư hầu. Sau khi chư hầu đã được lập, thiên hạ lại nghe theo mà cảm tạ ân đức của nước Tề. Túc hạ cứ giữ lấy nước Tề cũ, nắm lấy đất Giao, đất Tứ, lấy đức của mình để vỗ về chư hầu, kín đáo nhún nhường thì các vua trong thiên hạ thế nào cũng kéo nhau đến chầu vua Tề vậy. Tôi được nghe:" Trời cho mà không lấy, thì sẽ mang lấy tội, thời cơ đến mà không theo thì sẽ mang lấy họa, xin túc hạ suy nghĩ cho kỹ ".

    Hàn Tín nói:" Vua Hán đối đãi tôi rất hậu, lấy xe của mình để cho tôi đi, lấy áo của mình để cho tôi mặc, lấy cơm của mình để cho tôi ăn. Tôi nghe nói: Đi xe người ta thì lo điều lo của người ta, mặc áo của người ta thì mang điều lo nghĩ của người ta, ăn cơm người ta thì chết cho công việc của người ta. Tôi lẽ nào lại chạy theo lợi mà quên nghĩa? ".

    Khoái Triệt nói:" Túc hạ tự cho là mình thân với vua Hán, muốn xây dựng cái công nghiệp muôn đời. Tôi trộm cho thế là lầm. Ngày xưa, Phạm Lãi, đại phu Chủng làm cho nước Việt sắp mất được tồn tại, làm cho Câu Tiễn dựng lên nghiệp bá, lập nên công, thành được danh, thế mà người thì chết, kẻ thì bỏ trốn. Thú trong đồng nội đã hết thì chó săn bị nấu.


    Túc hạ vượt Tây Hà, cầm tù Ngụy vương, bắt Hạ Duyệt, đem quân xuống Tỉnh Hình, giết Thành An Quân, chiêu hàng đất Triệu, uy hiếp đất Yên, bình định đất Tề, sang đất Nam đánh gãy hai mươi vạn quân Sở, sang Đông giết Long Thư, quay về Tây để báo công. Như thế có thể nói công ấy không có hai ở trong thiên hạ mà mưu lược ấy không phải đời nào cũng có.

    Bây giờ túc hạ mang cái uy lấn át cả chủ, ôm cái công không có cách nào thưởng, theo Sở thì người Sở không tin, về Hán thì người Hán hoảng sợ. Tức hạ muốn mang cái công lao, cái mưu lược ấy về đâu? Mình ở địa vị bầy tôi mà có cái uy lấn át cả chủ, có cái danh cao nhất trong thiên hạ, tôi trộm thấy làm nguy cho túc hạ ".

    Hàn Tín ngăn lời Khoái Triệt, nói:" Tiên sinh đừng nói thêm nữa, để tôi suy nghĩ lại đã ". Qua mấy ngày, Khoái Triệt thấy Hàn Tín không có động tĩnh gì, lại đi thuyết phục một lần nữa, nói rằng:" Cái quý là ở chỗ biết hành động. Đại phàm công lao thì khó thành mà dễ bại, thời cơ thì khó được mà dễ mất. Ôi! Thời cơ không trở lại. Xin túc hạ xét rõ cho ".

    Hàn Tín do dự không nỡ phản lại nhà Hán. Lại tự cho rằng mình lập được nhiều chiến công, Hán vương dẫu sao cũng sẽ không lấy mất nước Tề của mình. Khoái Triệt tự biết sự tình hệ trọng, nếu cuộc trò chuyện giữa họ bị tiết lộ ra bên ngoài, nhất định sẽ là họa diệt tộc, bèn giả điên làm thầy cúng, sống cuộc sống tha hương.

    Hàn Tín trước sau không tự lập làm vương, kết cục cuối cùng quả thật đã ứng nghiệm dự ngôn: " Hạng vương hôm nay vong, thì ngày mai ắt đến lượt túc hạ " của Vũ Thiệp. Người đời sau đối với điều này bình phẩm rất nhiều. Rất nhiều người không thể hiểu được tấm lòng" thà người thiên hạ phụ ta, ta quyết không phụ người thiên hạ "của Hàn Tín, xem việc ông xem thường sinh tử, trọng lời hứa là" ngu si".

    Cũng có người sau nói tài hoa cái thế của Hàn Tín chỉ có thể dùng ở mặt quân sự, còn về mặt chính trị thì tuyệt không phải là đối thủ của Lưu Bang. Kỳ thật, thắng lợi của Hàn Tín trên chiến trường vốn không phải chỉ dựa vào binh nhiều tướng mạnh, thường là những lúc thân ở trong tuyệt cảnh hoặc thế yếu mà dùng trí huệ phi phàm giành được thắng lợi.

    Loại trí mưu này không chỉ cần có năng lực quan sát cục diện cực kỳ tinh tế và phán đoán thời thế chuẩn xác, cũng cần quả cảm và khí phách siêu việt. Loại trí huệ này dùng ở đâu cũng là không ai có thể so sánh được. Vốn có thừa năng lực để giành lấy thiên hạ, nhưng ông đã không làm. Nhưng đây chính là Hàn Tín của lịch sử!
     
    Mèo A Mao Huỳnh Mai thích bài này.
    Last edited by a moderator: 20 Tháng chín 2018
  8. Rùa Siêu Tốc Rùa ngoan nhất

    Bài viết:
    453
    7. Bốn bề khúc Sở ca, Hạng Vũ phải tuyệt mệnh

    Bấm để xem
    Đóng lại
    [​IMG]

    Hạng Vũ thuyết phục Hàn Tín thất bại, bản thân lại bị công đánh từ bốn phía, vô cùng lo lắng. Lưu Bang cũng bởi nhiều lần giao tranh không thắng mà tâm lực quá mệt mỏi, bèn đề xuất "chia đôi thiên hạ" và giảng hòa cùng Hạng Vũ, thỏa thuận lấy sông Hồng Câu làm ranh giới, phía đông bên sông là quy về bên Sở, phía tây bên sông là quy về bên Hán, ngưng binh bãi chiến.

    1. Công chiếm Bành Thành

    Hạng Vũ đưa cha và vợ của Lưu Bang về Hán Cung. Tháng 9 năm 202 TCN, Hạng Vũ dẫn binh lui về phía đông. Lưu Bang cũng dự tính thu binh về Quan Trung (nay là Thiểm Tây, Trung Quốc). Nhưng Trương Lương và Trần Bình lại có cách nhìn khác. Họ nói, nhà Hán đã có hơn một nửa thiên hạ, lại được sự ủng hộ giúp sức của các chư hầu, hiện giờ binh Sở lương hết quân mệt, là thời cơ trời cho để tiêu diệt nước Sở.

    Lưu Bang nghe theo kiến nghị này, nhân lúc Hạng Vũ rút lui về phía đông bất ngờ phát động tiến công, đồng thời hẹn Hàn Tín, Bành Việt xuống phía nam hợp sức bao vây quân Sở. Lưu Bang nôn nóng tiến bừa, khi mà Hàn Tín, Bành Việt còn chưa đến nơi đã đuổi đánh Hạng Vũ đến Cố Lăng, Hà Nam. Lúc đó Anh Bố và Lưu Giả bị quân Sở giam chân ở Thọ Xuân, quân đội Lưu Bang một mình giáp mặt với Hạng Vũ.

    Hạng Vũ từ sớm đã muốn quyết một trận phân cao thấp với Lưu Bang, cộng với căm phẫn quân Hán làm trái giao ước, bèn xung phong đi đầu, quân Sở xông đến quân Hán như thế dời non lấp bể. Lưu Bang thua to, đành phải tự mình cố thủ. Lúc này, ông ta lại nghĩ đến Hàn Tín, bèn hỏi kế Trương Lương hòng mời Hàn Tín xuất binh giải vây.

    Trương Lương hiểu rằng Lưu Bang có thể đối kháng được với Hạng Vũ đến giờ phút này đều là nhờ công lao của Hàn Tín và sự trợ giúp của Bành Việt, Anh Bố ở bên ngoài làm suy yếu quân Sở. Hiện giờ nước Sở sắp diệt vong, vậy mà mấy vị công thần này lại chưa nhận được một tấc đất phong nào, nhất là Hàn Tín.

    Số đất đai, binh tướng, vật tư mà Hàn Tín biết bao lần chinh chiến có được toàn bộ đều bị Lưu Bang cưỡng ép lấy đi, chỉ còn lại một danh hiệu Tướng quốc hữu danh vô thực, về tình về lý đều không thấu đạt. Do vậy, Trương Lương kiến nghị đem đất đai của Hạng Vũ chia cho mấy vị công thần này, rồi mới cầu xin họ giải vây Cố Lăng. Lưu Bang chẳng còn cách nào khác, đành phải gắng nén nỗi đau mà đồng ý.

    Trước khi nhận được mệnh lệnh của Lưu Bang, Hàn Tín đã bắt đầu ra tay vây đánh Hạng Vũ. Ông cử ngay Quán Anh công đánh Hạng Vũ từ phía sau. Quán Anh tung hành ngang dọc như thế gió cuốn mây tàn, đã chiếm lĩnh được rất nhiều đất đai, Bắc đến đất Tề, nam đến Quảng Lăng (Dương Châu, Giang Tô ngày nay). Khi nhận được thư Lưu Bang cầu cứu, Hàn Tín đích thân mặc giáp ra trận, dẫn theo 10 vạn đại quân tiến về phía Nam. Cục diện theo đó mà biến đổi mau chóng.

    Lúc đó, đội quân của nước Sở chủ yếu tập trung ở Cố Lăng và Thọ Xuân, còn kinh đô Bành Thành thì phòng bị yếu kém. Hàn Tín quan sát toàn cục, quyết định bỏ qua Cố Lăng mà trực tiếp đánh chiếm Bành Thành. Ông hội quân với Quán Anh, ở Hạ Phì đã đánh bại Hạng Thanh, chém chết Tiết Công. Trong lúc sĩ khí đang hăng, liền đánh chiếm được các huyện Tiết, Lưu, Bái, một lần hành động đã công chiếm được Bành Thành, bắt sống Trụ quốc (tể tướng) của Hạng Vũ là Hạng Đà.

    Bành Thành vừa mất, quân Sở chẳng khác chi tàn binh không còn chỗ để quay về. Hạng Vũ vô cùng hoang mang, lập tức rời bỏ Cố Lăng, dẫn binh rút xuống Cai hạ. Hàn Tín lại chuyển hướng về phía Tây, gặp mặt Lưu Bang ở Di Hương (tức Lộc Ấp, Hà Nam). Anh Bố cùng Bành Việt cũng lần lượt đến nơi.

    Các lộ đại quân của Lưu Bang tụ hội đông đủ, thế lực càng thêm lớn mạnh, bèn lần theo tung tích, truy kích quân Sở đến Cai Hạ. Trong chốc lát, từ Quan Trung đến Trung Nguyên, từ Trung Nguyên đến Tề, Lỗ, người ngựa dồn dập liên tục mấy nghìn dặm, khí thế thật chấn động trời đất. Trận chiến cuối cùng giữa Hán Sở đã sắp hạ màn.

    [​IMG]

    Mô hình tái diễn trận đánh Bành Thành. Ảnh dẫn theo lishiquwen.com


    2. Trận chiến Cai Hạ, khúc Sở bốn bề

    Hạng Vũ đến Cai Hạ (phía Nam huyện Linh Bích, An Huy ngày nay), nhìn thấy quân Hán khí thế ngất trời, dồn dập kéo đến, ngẩng đầu lên trời mà thở dài, hối hận lúc đầu không nên thả Lưu Bang, còn mắc lừa nghị hòa ở Hồng Câu. Giờ đây Lưu Bang bội ước phát binh, khiến Hạng Vũ rơi vào vòng vây quân Hán, thực đã đến bước không còn đường thoát.

    Nhưng Hạng Vũ anh dũng một đời, loại quyết chiến lấy ít địch nhiều này từ lâu đã không còn lạ lẫm gì. Năm xưa trong trận chiến ở Cự Lộc, ông đã từng đại phá hơn 40 vạn quân Tần chỉ với 3 vạn binh mã. Trong trận chiến Bành Thành, ông lại lấy 3 vạn binh mã đánh bại 56 vạn quân Hán. Một đời này của ông vốn chưa từng thất bại trên chiến trường. Lần này, bên cạnh ông có 10 vạn đại quân, vẫn còn có thể tạo nên kỳ tích. Hạng Vũ tập trung binh lực lại một chỗ, định trước tiên làm tê liệt quân đội chủ lực của Lưu Bang, sau đó thừa cơ đột phá vòng vây.

    Nhưng Hạng Vũ đã quên lần này đối thủ của ông không còn là những Chương Hàm, Lưu Bang, mà là Hàn Tín thiên hạ vô song. Tất cả mọi người, gồm cả Lưu Bang, đều cho rằng chỉ có Hàn Tín mới là đối thủ thật sự của Hạng Vũ. Lưu Bang cho Hàn Tín thống soái Hán quân, chỉ huy 70 vạn đại quân.

    Hàn Tín vốn rất hiểu rõ Hạng Vũ, đã sớm đoán trước được động thái của Hạng. Nhận thấy quân Sở chiến đấu mạnh mẽ, giỏi đột phá vòng vây trực diện, còn số lượng quân Hán lại chiếm đa số, ông đã bày ra "Ngũ quân trận" vô cùng cẩn mật. Hàn Tín tự mình thống lĩnh 30 vạn đại quân ở trước trận, tướng quân Khổng Hy ở bên trái, Phí tướng quân Trần Hạ ở bên phải, Lưu Bang thống lĩnh đại quân ở giữa, Chu Bột, Trần Hạ, Sài Vũ đi sau cùng.

    "Ngũ quân trận" bố trí xong, Hàn Tín cảm thấy thời cơ quyết chiến đã đến, bèn lệnh cho binh sĩ hướng đến doanh trại quân Sở hô lớn:

    Nhân tâm giai bối Sở, thiên hạ dĩ thuộc Lưu

    Hàn Tín đốn Cai Hạ, yếu trảm Bá Vương đầu

    Nghĩa là:

    Lòng người đều đã rời bỏ Sở, thiên hạ đã thuộc về họ Lưu

    Hàn Tín đóng quân ở Cai Hạ, sẽ trảm đầu Bá Vương

    Hạng Vũ nghe xong, giận đến sôi người, lập tức mặc áo giáp ra trận, dẫn theo quân Sở ra khỏi hàng ngũ đón đánh. Chỉ thấy Hạng Vũ ngồi trên lưng ngựa, thân hình cao lớn như thần tướng. Tuấn mã hào kiệt, hổ gầm rồng rú, vẫn là có bá khí ngất trời, không ai bì nổi. Đối diện với quân Sở khí thế sục sôi, binh mã Hàn Tín rất mau rơi vào yếu thế.

    Hàn Tín lệnh cho trung quân lùi lại phía sau, tránh nhuệ khí quân Sở. Hàn Tín lui về phía sau, Hạng Vũ liền xông lên trước đuổi đánh. Lúc này, quân mai phục bố trí sẵn ở hai bên bất ngờ đánh ra, tấn công mạnh vào hai bên sườn của quân Sở. Trong lúc quân Sở đang khó khăn ứng phó với quân Hán ở hai bên, Hàn Tín lại dẫn binh đánh ngược trở lại, ba mặt giáp công quân Sở. Hai bên hỗn chiến kịch liệt cả một ngày trời, quân Sở cuối cùng đại bại, tổn thất lượng lớn nhân mã.

    Mưu lược của Hàn Tín trong trận này đều vô cùng hoàn mỹ. Ông không đơn thuần dựa vào dũng mãnh cá nhân như Hạng Vũ, mà biết phát huy sức mạnh của toàn bộ quân đội ở mức tối đa, đồng thời cũng rất giỏi về tâm lý chiến. Hạng Vũ bại trận, dẫn theo tàn quân rút về doanh trại đóng cửa không ra. Hàn Tín cũng không phát động công thành, chỉ cho quân bao vây bốn mặt

    Mười vạn quân Sở sau trận hỗn chiến đã thương vong hơn phân nửa. Bên trong không có lương thảo, bên ngoài không có viện binh, lại đúng ngay lúc rét đậm, gió lạnh thấu xương. Quân Sở đói rét khôn thấu, nhiều tiếng trách móc vang lên. Trong đêm, từng cơn từng cơn gió bắc lạnh buốt thổi đến, tiếng gió như khóc như than. Từ trong tiếng gió mang máng nghe thấy khúc hát nước Sở trầm bổng đau thương, lúc bắt đầu chỉ thấy loáng thoáng vọng lại từ xa, dần dần mỗi lúc một gần, mỗi lúc càng rõ ràng hơn. Chính là Hàn Tín lệnh cho quân Hán dùng tiếng hát khơi dậy nỗi nhớ quê nhà của quân Sở.

    Binh sĩ của Hạng Vũ nghe thấy tiếng hát quê nhà, lòng không cầm được, nước mắt giàn giụa. Có người không kìm nén được, nhẹ nhàng hát theo. Một người, hai người rồi ba người, số người hát theo mỗi lúc một nhiều lên, tiếng hát càng lúc càng lớn, vang dội khắp cả doanh trại quân Sở. Đây chính là điển cố "Bốn bế khúc hát Sở quân".

    Nhạc khúc nước Sở bên ngoài, Hạng Vũ cũng đã nghe thấy. Tiếng hát thê lương trầm thấp khiến cho người anh hùng rong ruổi một đời trên lưng ngựa này cũng nước mắt lã chã. Ông hỏi ái thiếp Ngu Cơ bên cạnh rằng: "Lẽ nào quân Hán đã chiếm hết đất Sở rồi ư? Trong quân Hán sao lại có nhiều người nước Sở đến vậy?".

    Bên ngoài lều trại của Hạng Vũ, binh sĩ của ông từng người, từng người gạt nước mắt, vứt bỏ vũ khí trong tay, lén trốn khỏi doanh trại. Các tướng lĩnh đã đi theo Hạng Vũ chinh chiến nhiều năm cũng bỏ đi không lời từ biệt, ngay đến cả thúc phụ của Hạng Vũ cũng lặng lẽ bỏ đi. Trong một đêm, bên cạnh Hạng Vũ cũng chỉ còn lại hơn nghìn người. Hạng Vũ ngồi trong lều vải uống rượu giải sầu, đau đớn hát khúc bi ca khảng khái của người anh hùng mạt lộ, đời sau gọi là bài "Cai Hạ ca" :

    Lực bạt sơn hề, khí cái thế

    Thời bất lợi hề, Truy bất thệ

    Truy bất thệ hề khả nại hà

    Ngu hề, Ngu hề nại nhược hà

    Tạm dịch:

    Sức dời núi, khí trùm trời

    Ô Truy chùn bước bởi thời không may

    Ngựa sao chùn bước thế này?

    Ngu Cơ, biết tính sao đây hỡi nàng?

    Tả hữu nghe xong đều cúi đầu bật khóc không ngẩng lên được. Ngu Cơ cầm lấy một thanh bảo kiếm từ trong tay thị vệ, múa kiếm hát hòa theo, lời ca rằng:

    Hán binh dĩ lược địa

    Tứ diện Sở ca thanh

    Trượng phu ý khí tận

    Tiện thiếp hà liêu sinh

    Tạm dịch:

    Quân Hán lấy hết đất

    Khúc Sở vang bốn bề

    Trượng phu chí lớn cạn

    Tiện thiếp sống làm chi

    Hát xong, liền rút kiếm tự vẫn, ngã xuống dưới chân của Hạng Vũ.

    Theo Sử ký, khi Ngu Cơ chết, Hạng Vương khóc chảy nước mắt, tả hữu đều khóc, không ai có thể ngẩng lên nhìn. Tương truyền nơi máu bà đổ xuống mọc lên một thứ cỏ hễ rót rượu gần bên thì cỏ múa lả lướt như Ngu Cơ trong tiệc rượu của Hạng Vũ. Người ta gọi cỏ ấy là "Ngu mỹ nhân thảo", tức là cỏ Ngu Cơ.

    [​IMG]

    Ngu Cơ tự sát- Hạng Vũ vô cùng đau buồn. Ảnh dẫn theo Baomoi.com

    Một đêm này, trăng vắng sao thưa, gió lạnh gào thét. Trong tiếng hát nước Sở bốn bề, Hạng Vũ lòng dạ đau đớn mai táng Ngu Cơ. Tây Sở Bá Vương khét tiếng một thời không ai bì nổi lúc này tàn tạ khắp người thương tích. Nhìn doanh trại trống rỗng, lòng ông hiểu rõ thế lớn đã qua đi, không còn đủ sức để xoay chuyển thời thế nữa, bèn nhảy lên ngựa Ô Truy, suốt đêm đột phá vòng vây chạy về phía nam.

    Lúc này, sau lưng ông chỉ còn có 800 kỵ binh. Đến lúc trời sáng, quân Hán phát hiện Hạng Vũ trốn thoát, Hàn Tín lập tức cử Quán Anh dẫn theo 5000 kỵ binh đuổi theo. Lưu Bang đưa ra giải thưởng, không kể là ai chỉ cần kẻ đó lấy được đầu của Hạng Vũ sẽ được ban đất phong hầu.

    Hạng Vũ chạy mãi về hướng Đông Nam, dọc đường không ngừng hao binh tổn tướng. Sau khi vượt qua sông Hoài, quân kỵ bên cạnh chỉ còn hơn trăm người. Hạng Vũ đi đến Âm Lăng thì lạc đường, hỏi một cụ già làm ruộng. Cụ già nói dối, bảo ông đi qua bên trái. Hạng Vương rẽ qua bên trái, sa vào trong đồng lầy, nên quân Hán rất mau đã đuổi kịp họ. Sau một phen giao tranh, Hạng Vũ lại đột phá được vòng vây, bấy giờ chỉ còn 28 kỵ binh. Quân Hán đuổi theo sau có đến mấy nghìn người ngựa.

    Hạng Vũ tự liệu chẳng thoát được, bảo với 28 kỵ binh không màng đến cái chết vẫn một lòng theo mình rằng: "Ta từ lúc dấy binh chống lại nhà Tần đến nay đã tám năm trời, thân trải qua hơn bảy mươi trận chiến, ai chống cự thì bị đánh bại, đánh đâu thì họ phải chịu phục, chưa từng thua chạy bao giờ. Rốt cuộc xưng bá thiên hạ. Thế mà nay phải chịu khốn khổ ở đây, đó là trời muốn diệt ta, chứ không phải tội ta đánh không giỏi. Ngày nay thế nào cũng chết, ta nguyện vì các ngươi quyết chiến, nhất định phải thắng ba lần, vì các ngươi, phá vòng vây, chém tướng, chặt cờ, để chứng minh lời của ta không phải nói khoác".

    Binh mã của quân Hán chẳng mấy chốc đã đuổi đến kịp, vây chặt lấy Hạng Vũ và 28 vị tráng sĩ dưới trướng của ông. Hạng Vũ điềm tĩnh như thường, chỉ huy người ngựa đánh ra từ bốn phía, hẹn họp nhau dưới sườn núi đối diện. Hạng Vũ dẫn đầu xông vào quân Hán, chém chết một viên tướng Hán trước mặt. Quân Hán bao vây Hạng Vũ vào giữa.

    Hạng Vũ trong vòng vây tả xung hữu đột, phóng ngựa tung hoành, chỉ một lúc đã giết thêm một viên tướng Hán cùng mấy chục binh mã. Lúc này tướng sĩ của ông bị quân Hán cắt thành ba đội, lần lượt bị vây kín tầng tầng lớp lớp. Nhưng Hạng Vũ vào ra như chốn không người, chém chết mấy tướng lĩnh và vô số quân Hán, cuối cùng khi các tướng sĩ hội lại đếm thấy chỉ mất hai kỵ binh mà thôi.

    Quân Hán bị sự dũng mãnh của Hạng Vũ làm dọa cho kinh hồn bạt vía, đều không dám lại gần, trơ mắt nhìn Hạng Vũ cùng tướng sĩ của ông đột phá vòng vây mà đi. Hạng Vương một đường chạy về phía Nam, chạy mãi cho đến bờ sông Ô Giang thì cùng đường. Có người đình trưởng Ô Giang chèo một con thuyền nhỏ đến đón, xin Hạng Vương lên thuyền vượt sông, về Giang Đông đợi thời cơ làm lại từ đầu.

    Hạng Vũ nhìn nước sông cuồn cuộn, nói với đình trưởng rằng: "Trời hại ta, ta vượt qua sông làm gì! Năm xưa, ta cùng tám ngàn con em Giang Đông vượt Trường Giang tây chinh thiên hạ, nay không còn lấy một người trở về! Dù cho các bậc cha anh ở Giang Đông thương ta, cho ta làm vương, ta cũng chẳng còn mặt mũi nào mà thấy họ nữa. Dù họ không nói, Vũ này há chẳng thẹn trong lòng sao?"

    Hạng Vũ từ chối ý tốt của đình trưởng, nhất quyết không chịu lên thuyền. Ông đưa con ngựa Ô Truy của mình cho vị đình trưởng, nói: "Ta biết ông là bậc trưởng giả, ta cưỡi con ngựa này, năm năm nay đi đến đâu cũng vô địch, thường một ngày đi ngàn dặm, ta không nỡ giết, xin biếu ông".

    Quân Hán đến, Hạng Vương sai kỵ binh đều xuống ngựa đi bộ, cầm khí giới ngắn để tiếp chiến. Hai bên đánh nhau trực diện, một mình Hạng Vũ giết mấy trăm quân, thân bị hơn 10 vết thương. Bỗng nhiên, Hạng Vũ nhìn thấy một hình bóng quen thuộc trong quân Hán, ông ngừng tay, nói: "Nhà ngươi không phải là Lữ Mã Đồng, người bạn cũ của ta đó sao?".

    Lữ Mã Đồng xấu hổ cúi gầm mặt xuống, Hạng Vũ nói tiếp: "Nghe nói Hán Vương lấy nghìn vàng và chức Vạn hộ hầu để mua cái đầu của ta, thế thì ta sẽ tặng cái đầu này cho ông làm lễ vật vậy!". Nói xong liền lấy gươm đâm vào cổ tự vẫn. Anh hùng một đời chí lớn tranh đoạt thiên hạ đã kết thúc cuộc đời oanh liệt của mình như vậy đó, cũng đã kết thúc cục diện hỗn chiến Hán Sở tranh hùng.

    [​IMG]

    Hạng Vũ bên bờ sông Ô Giang: Ảnh dẫn theo pinteresrt.com

    Trong lịch sử Trung Hoa, hai vị Thần tướng cùng sinh trong một thời kỳ là điều cực kỳ hiếm thấy. Vậy mà cuối thời nhà Tần lại xuất hiện trường hợp đặc biệt này: Một người là Sở Bá vương nghìn thu độc nhất vô nhị, một người là "binh Tiên" Hàn Tín dụng binh như Thần. Trên chiến trường chủ soái hai bên vừa ra trận, chưa đợi giao phong, thắng thua chính là đã phân định rõ ngay từ lúc đôi bên mới chỉ đưa mắt nhìn nhau.

    Chiến thắng trước Sở Bá Vương đã chứng minh năng lực trí huệ, tài năng xuất chúng và địa vị lịch sử của Hàn Tín, khiến ông trở thành "binh Tiên" được các nhà cầm binh đời sau hết lời ca ngợi. Còn Hạng Vũ, tuy rằng cuối cùng bại trận dưới tay Hàn Tín, nhưng uy danh Bá Vương anh hùng của ông vẫn đời đời soi tỏ.

    Hạng Vũ 24 tuổi khởi binh, ba năm sau xưng bá, đến năm 31 tuổi tự vẫn. Trận chiến Cai Hạ là lần bại trận duy nhất trong đời ông. Hạng Vũ bá khí ngất trời, anh dũng thần võ, chỉ Hàn Tín là người duy nhất có thể chiến thắng được ông. Nếu như không có Hàn Tín, Lưu Bang ngay đến cả Hán Trung cũng không ra được, dù cho có ra được Hán Trung thì cũng khó tránh khỏi kết cục bị Hạng Vũ đánh bại.

    Chẳng trách Lưu Bang nói: "Nắm trong tay trăm vạn quân đã đánh là thắng, tiến công là nhất định lấy được thì ta không bằng Hoài Âm Hầu" (Sử Ký – Cao Tổ bản kỷ ). "Tự Trị Thông Giám" cũng bình luận rằng: "Lưu Bang sở dĩ có được thiên hạ, nói chung đều là nhờ công lao của Hàn Tín cả" (Hán Kỷ tứ).

    Hàn Tín, ở bất kỳ tình huống nào cũng đều có diệu kế dùng binh, không phải huyết chiến với địch mà vẫn thu về thắng lợi oanh liệt nhất, từ dùng thùng gỗ công phá nước Ngụy, dựng cờ đỏ nhà Hán lấy nước Triệu đến lấy bao cát lấp sông đánh bại nước Tề. Đó đều là những mưu kế chưa từng có tiền lệ, giảm thiểu đến mức thấp nhất con số thương vong của cả hai bên. Đánh bại Hạng Vũ cũng là dùng "bốn bề khúc hát Sở", không tốn một tấc sắt mà làm mấy vạn quân Sở cố thủ trong thành tan rã ý chí cả. Quả có thể nói là Thần nhân dụng binh, không đánh mà thắng vậy.
     
    Mèo A Mao Huỳnh Mai thích bài này.
    Last edited by a moderator: 20 Tháng chín 2018
  9. Rùa Siêu Tốc Rùa ngoan nhất

    Bài viết:
    453
    8. Công cao lấn chủ, oan thấu trời xanh

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hàn Tín là đại tướng quân bách chiến bách thắng, thiên hạ vô địch, là người có công lao lớn nhất giúp Hán Cao Tổ lập nên nhà Hán kéo dài 400 năm. Nhưng sau khi giành được thiên hạ, Hàn Tín bị vu cáo làm phản, giáng chức và bị Lưu Bang mượn tay vợ Lã Hậu giết hại. Nỗi oan ấy hàng nghìn năm vẫn khiến hậu thế khó hiểu, bi thương không kể xiết.

    Tề Vương đến nước Sở, đi Vân Mộng

    Lưu Bang được Hàn Tín và các chư hầu đề cử, bước lên ngôi vị hoàng đế, xưng là Hán Cao Tổ. Đúng như Vũ Thiệt và Khoái Triệt tiên đoán, sau khi Lưu Bang giành được thiên hạ, tình cảnh của Hàn Tín ngày càng sa sút. Sau khi trận chiến Cai Hạ kết thúc, trên đường quân Hán đến Định Đào, Lưu Bang đột nhiên tập kích doanh trại của Hàn Tín thu binh quyền của ông. Ngay sau đó, Hàn Tín phải rời xa vùng đất màu mỡ nước Tề, Triệu, Yên do một tay mình đánh chiếm được để đến nước Sở, từ Tề vương trở thành Sở vương.

    [​IMG]

    Hàn Tín – vị nguyên soái uy chấn Trung Nguyên. (Ảnh: Internet)

    Hàn Tín lòng dạ thoáng đãng, không hề phàn nàn đối việc Lưu Bang tuyệt tình phụ nghĩa, lặng lẽ trở về cố hương nước Sở của mình. Về đến cố hương, Hàn Tín tìm người phụ nữ là ân nhân lúc trước, ban tặng ngàn vàng. Sau khi tìm được Đình trưởng Nam Xương, Hàn Tín trả cho anh trăm tiền, coi như tiền cơm năm đó. Hàn Tín nói với Đình trưởng: "Ngươi là kẻ tiểu nhân, làm việc tốt không làm đến cùng".

    Cuối cùng, Hàn Tín lại tìm thấy thanh niên năm xưa bắt mình chịu nhục chui háng. Thanh niên này nghe nói Sở vương là Hàn Tín bị mình làm nhục, nghĩ rằng số mình đến đây kết thúc, nơm nớp lo sợ đến gặp Hàn Tín. Hàn Tín không làm khó dễ anh, còn khen ngợi là tráng sĩ, phong làm Trung úy phụ trách trị an kinh thành.

    Sau khi giải quyết xong việc riêng, Hàn Tín bắt đầu cai trị lãnh địa của mình. Ông tuần tra tình hình nước Sở rồi xử lý vấn đề dân sinh cấp bách sau chiến tranh, thành lập một đội quân bảo vệ lãnh địa. Kế hoạch của ông là xây dựng một nước Sở phồn vinh và hùng mạnh. Nhưng Lưu Bang không có ý định cho Hàn Tín giữ chức Vương. Hàn Tín là khai quốc công thần, để gạt bỏ Vương vị của ông, Lưu Bang gán cho Hàn Tín tội danh "mưu phản".

    [​IMG]

    Hán Cao Tổ Lưu Bang, người tạo nên cơ nghiệp 400 nhà Hán, lại là kẻ "vắt chanh bỏ vỏ". (Ảnh: Internet)

    Tháng 12 năm 201 TCN, Lưu Bang đột nhiên nói với các tướng lĩnh: "Có người tố cáo Hàn Tín mưu phản, các khanh cảm thấy nên xử lý thế nào?" Những tướng lĩnh này đều là hữu dũng vô mưu, la hét nói: "Lập tức xuất binh tiêu diệt tên tiểu tử này". Lưu Bang tự biết là xuất binh vô cớ, suy nghĩ thật lâu, cuối cùng tìm Trần Bình hỏi mưu lược.

    Trần Bình giỏi dùng mưu, nhưng có tài không đức. Lưu Bang vừa nói lời ra khỏi miệng là hắn biết Hàn Tín thực ra không mưu phản. Sau khi suy tính xong, Trần Bình nói với Lưu Bang: "Quân của bệ hạ không tinh nhuệ bằng quân Hàn Tín, tướng cũng không giỏi bằng người của Hàn Tín, phát binh tấn công sẽ dồn ép Hàn Tín quyết chiến, đối với bệ hạ là chuyện nguy hiểm" . Trần Bình sắp đặt cho Lưu Bang giả vờ đến Vân Mộng, Hồ Bắc đi săn, lệnh cho các chư hầu đến Trần Địa gặp mặt. Trần Địa thuộc biên giới nước Sở, Hàn Tín đến đây thì có thể dễ dàng bị bắt.

    Lưu Bang lập tức nghe theo kế sách của Trần Bình, sai sứ giả thông báo cho Hàn Tín đến Trần Địa gặp mặt. Hàn Tín cũng không thấy nghi ngờ, thân thiết nghênh đón. Vừa thấy mặt, Lưu Bang lập tức ra lệnh binh sĩ bắt lấy Hàn Tín. Hàn Tín kinh ngạc, bó tay chịu trói.

    Đã đạt được mục đích, Lưu Bang cũng không hề đi săn ở Vân Mộng, lập tức quay trở về phủ. Lúc này, Hàn Tín mới hiểu được Lưu Bang vì mình mà đến. Ông rất phẫn nộ, hét lên: "Đúng thay câu 'thỏ chết thì chó săn bị mổ, chim hết thì bẻ cung, phá xong địch thì mưu thần chết', thiên hạ đã định, ta tất bị phanh thây".

    [​IMG]

    Điểu tận thì cung tàn, mưu thần dùng xong rồi bị giết, thật ai oán thay! (Ảnh minh họa: Internet)

    Lưu Bang nghe xong, mặt đỏ tới mang tai, nửa ngày không nói lên lời, im lặng thật lâu mới nói: "Có người tố cáo ngươi mưu phản". Lưu Bang biết không có chứng cớ đã bắt khai quốc công thần, tất nhiên không thể khiến dân phục, cho nên vừa về tới Lạc Dương liền đại xá thiên hạ để lấy lý do thả Hàn Tín. Nhưng ông không thả Hàn Tín về nước Sở, mà giáng xuống làm Hoài Âm hầu ở đô thành, không thể quay về đất phong, cũng không có quân đội, trên thực tế là giam lỏng Hàn Tín.


    Cái chết của Chung Ly Muội

    Sau khi Hạng Vũ bỏ mạng, Sở vương đem giấu Chung Ly Muội để tránh tai họa. Bởi vì Lưu Bang mấy lần bại dưới tay thủ hạ của Chung Ly Muội nên ghi hận trong lòng, ra lệnh truy nã. Còn Hàn Tín từng đầu quân cho Hạng Vũ nên quen biết và coi Chung Ly Muôi như huynh đệ. Trong "Sử ký", Tư Mã Thiên, phần "Hoài Âm Hầu liệt truyện" có ghi chép: Trong lúc Chung Ly Muội liên hệ và đến với Hàn Tín, Lưu Bang ra lệnh cho Hàn Tín bắt Chung Ly Muội nhưng Hàn Tín kháng chỉ không tuân theo. Khi Lưu Bang đi săn ở Vân Mộng, vì bảo vệ mình nên Hàn Tín đã ép Chung Ly Muội tự sát. Trong ghi chép của con cháu họ Chung – "Chung thị gia phả" cũng lựa chọn giả thuyết này, càng làm cho người đời hiểu nhầm sâu sắc. Khảo sát cẩn thận, phát hiện sự thật không phải như vậy.

    "Sử ký", "Tần Sở chi tế nguyệt biểu" xác minh ghi lại: "Tháng 9, năm 202 TCN, vua chém tướng quân Chung Ly Muội của Hạng Vũ". Điều này chứng tỏ Chung Ly Muội bị Hán Cao Tổ bắt vào tháng 9 năm 202 TCN. Còn việc buộc tội Hàn Tín "mưu phản" được ghi chép vào năm 201 TCN. Vì vậy, khi Lưu Bang dùng kế đi săn ở Vân Mộng, Chung Ly Muội đã chết hơn một năm rồi, không tồn tại khả năng Hàn Tín vì bảo vệ mình mà ép buộc Chung Ly Muội tự sát.

    [​IMG]

    Sự thật của lịch sử là Chung Ly Muội đã bị Lưu Bang giết trước khi Hàn Tín bị bắt 1 năm. (Ảnh minh họa: Internet)

    Như vậy, có khả năng Hàn Tín rước họa vào thân vì thu giữ Chung Ly Muội hay không? Câu trả lời là không. Tuy hai người từng cùng là thuộc hạ dưới trướng Hạng Vũ, nhưng một người là đại tướng quân chức cao vọng trọng, còn một người lại là lang trung cầm kích thấp kém. Rất khó tưởng tượng hai người này có thể cùng xuất hiện.

    Cùng xem đoạn đối thoại Lưu Bang hỏi kế Trần Bình, bản thân họ biết rõ Hàn Tín không có bất kỳ hành vi hổ thẹn nào đối với Lưu Bang, đây cũng là điều kiện tiên quyết để kế đi săn Vân Mộng thành công. Kế Vân Mộng thoạt nhìn không chê vào đâu được, nhưng thực ra có sơ hở. Vân Mộng thì ở hồ Động Đình, Hồ Nam, còn Hàn Tín ở nước Sở, tức vùng Giang Tô. Lưu Bang theo Quan Trung (lưu vực Sông Vị, ở tỉnh Thiểm Tây) đến Vân Mộng là xuôi nam, nếu đi nước Sở là hướng đông, hoàn toàn không có khả năng tiện đường. Nếu Hàn Tín thu giữ Chung Ly Muội, Lưu Bang đến đây đi săn, Hàn Tín không thể không đề phòng khi đến nghênh đón. Vì vậy, giả thuyết Hàn Tín giết Chung Ly Muội là không đúng.


    Biên soạn binh thư

    Hàn Tín văn võ song toàn, thông minh, anh tuấn. Ông từng cùng Tiêu Hà chỉnh sửa quân luật, cũng cùng Trương Lương chỉnh lý Tiên Tần binh pháp. Trong sách "Hán thư", phần "Cao đế ký", Ban Cố có ghi chép: Hàn Tín cùng Trương Lương tự biên soạn binh pháp, vốn gồm 182 nhà, rút ngắn lại còn 35 nhà. Đây là lần sắp xếp và chỉnh lý binh thư cổ đại quy mô lớn lần đầu tiên trong lịch sử.

    [​IMG]

    Hàn Tín văn võ song toàn, thông minh, anh tuấn. Ông từng cùng Tiêu Hà chỉnh sửa quân luật, cũng cùng Trương Lương chỉnh lý Tiên Tần binh pháp. (Ảnh: Internet)

    Hàn tín dựa theo "Tư Mã pháp" phân loại tư duy quân sự, chia binh pháp làm 4 loại: "Quyền mưu, hình thế, âm dương, kỹ xảo". Sau đến Dương Bộc trong "Kỷ tấu binh lục" thời Vũ Đế, Nhiệm Hoành, Lưu Hướng và Lưu Hâm thời Thành Đế xét duyệt chỉnh lý binh thư đều không thoát khỏi các quy định do Hàn Tín thiết lập. Sự phân chia này được hậu thế tôn sùng là điển hình, trở thành chuẩn mực sáng tác binh thư và lý luận quân sự.

    Hàn Tín cũng lợi dụng thời gian bị giam lỏng ở nhà viết sách. Tác phẩm "Tam thiên binh pháp Hàn Tín" tổng kết thành công binh pháp Tiền Tần rộng lớn, khiến cho binh thư trước nhà Hán có thể bảo tồn nguyên vẹn cho hậu thế. Quyển sách này một trong 13 nhà thuộc "Binh quyền mưu". Ban Cố giải thích "Binh quyền mưu" là: "Quyền mưu giả, dĩ chính thủ quốc, dĩ kỳ dụng binh, tiên kế nhi hậu chiến, kiêm hình thế, bao âm dương, dụng kỹ xảo giả dã". Tạm dịch: Người quyền mưu lấy giữ nước là chính, dùng binh tùy cơ ứng biến, mưu kế trước đánh trận sau, thông thạo địa lý, am hiểu âm dương, dùng người thành thạo. Đây chính là tinh hoa thực sự của binh pháp Trung Quốc.
     
    Mèo A Mao Huỳnh MaiMạc Vấn thích bài này.
    Last edited by a moderator: 20 Tháng chín 2018
  10. Rùa Siêu Tốc Rùa ngoan nhất

    Bài viết:
    453
    9. Sự thật về chuyện Hàn Tín bị khép tội mưu phản

    Bấm để xem
    Đóng lại
    [​IMG]

    Sau khi Lưu Bang đăng cơ, những vị vương hầu khác họ được sắc phong trong thời gian tranh bá cùng Hạng Vũ năm xưa như Bành Việt, Anh Bố, Hàn Tín.. Đã trở thành mối họa khiến ông ngày đêm lo lắng. Trong số những vị vương khác họ này, tài năng và thanh danh của Hàn Tín là lớn nhất, khiến cho Lưu Bang đố kỵ, thấp thỏm không yên, chính là cái gai trong mắt phải nhổ.

    1. Nỗi oan khiên lịch sử

    Sau khi bị giam lỏng ở Trường An, Hàn Tín hiểu được Lưu Bang đố kỵ công lao của mình, thường hay cáo bệnh không ra ngoài, hành sự cẩn mật. Trong khoảng thời gian Hàn Tín chỉnh lý binh pháp, Lưu Bang thỉnh thoảng có đến thăm ông.

    Có một lần, Lưu Bang hỏi Hàn Tín: "Nhà ngươi nói xem ta có thể chỉ huy bao nhiêu binh sĩ?". Hàn Tín thẳng thắn trả lời: "Nhiều nhất là 10 vạn". Lưu Bang lại hỏi: "Thế còn bản thân ngươi thì sao? Có thể cầm được bao nhiêu binh?". Hàn Tín trả lời: "Càng nhiều càng tốt". Đây chính là nguồn gốc của câu thành ngữ "Hàn Tín điểm binh, càng nhiều càng tốt".

    [​IMG]

    Ảnh dẫn theo phimmoi.net

    Lưu Bang nghe xong cười lớn rằng: "Ngươi cầm binh càng nhiều càng tốt, thế thì cớ sao lại trở thành thần tử của ta?". Hàn Tín bình tĩnh trả lời: "Bệ hạ tuy không giỏi cầm binh, nhưng lại giỏi cầm tướng, vậy nên thần là bề tôi của bệ hạ. Vị trí của bệ hạ là trời cao ban cho, vốn không phải dựa vào sức người là có thể cướp đi được".

    Lời này của Hàn Tín với Lưu Bang đã chỉ rõ rằng dù tài năng của ông cao hơn Lưu Bang nhưng cũng sẽ không vì vậy mà sinh lòng phản nghịch, nhòm ngó hoàng vị. Ai nên phải ngồi vào vị trí của Hoàng đế là do ông trời quyết định, vốn không phải chuyện con người có thể thay đổi được.

    Tuy vậy, Lưu Bang vẫn không muốn bỏ qua cho ông. Điều mà Lưu Bang ái ngại nhất chính là với công lao cái thế, hành động đoan chính của Hàn Tín, nếu tùy tiện xử trí ắt khiến quần thần chấn động, người trong thiên hạ bất mãn.

    Lưu Bang vừa muốn giết Hàn Tín, nhưng lại không muốn để lại tiếng xấu "lấy oán báo ân", "bội tín bội nghĩa", cứ mãi dằn vặt trong lòng, không nghĩ được kế sách lưỡng toàn. Vợ của Lưu Bang là Lã hậu nhìn ra được tâm tư của chồng, tỏ ý xem thường, cho rằng ông dám nghĩ không dám làm, có lòng vượt quá chức phận.

    Lã hậu, tên Trĩ, là người ương ngạnh, nham hiểm, tàn độc. Khi còn trẻ, vì để trốn tránh kẻ thù, cả nhà bà đã chuyển đến huyện Bái. Phụ thân là Lã công nhìn thấy Lưu Bang tướng mạo không tầm thường, bèn đem Lã Trĩ gả cho. Sau khi Lưu Bang bị Hạng Vũ đánh bại ở Bành Thành, trong lúc hoảng loạn đã lạc mất người nhà.

    Lã hậu và phụ thân của Lưu Bang bị quân Hạng Vũ bắt sống, trở thành con tin. Mãi cho đến khi Hàn Tín chiếm đất Tề, đánh chiếm kho lương của quân Sở, Hạng Vũ buộc phải đưa ra hiệp ước Hồng Câu, phóng thích người nhà của Lưu Bang. Khi ấy, Lã hậu mới có thể kết thúc cuộc sống con tin hơn 2 năm, về lại bên cạnh Lưu Bang.

    Nói như vậy, Hàn Tín cũng là ân nhân của Lã hậu. Nhưng bà ta vốn không để ý đến điều này. Không lâu sau đó, khai quốc công thần Trần Hi tự xưng làm vương đất Đại, liên hợp cùng Hàn vương Tín, Yên vương Quán làm phản. Lưu Bang đích thân dẫn theo đại quân lên phía bắc chinh phạt. Lã hậu cùng Tiêu Hà bảo vệ kinh đô Trường An.

    Lã hậu thấy thời cơ đã đến, bèn mua chuộc một môn khách của Hàn Tín là Loan Thuyết, phong ông ta là Thận Dương hầu, lệnh cho phải vu cáo Hàn Tín "mưu phản". Sau đó, Lã hậu uy hiếp Tiêu Hà, nói dối rằng Lưu Bang bình định phản quân thắng lợi, muốn chư hầu và quần thần vào triều chúc mừng, cũng lấy cớ này lừa gạt Hàn Tín tiến cung. Tiêu Hà thông minh hơn người, đã nhìn ra bằng chứng trong tay Lã hậu không đáng tin, nhưng sợ bà ta thủ đoạn tàn độc, không dám trái mệnh.

    Tiêu Hà năm xưa toàn lực tiến cử Hàn Tín làm Đại tướng quân thống lĩnh ba quân, có thể nói là tri âm của Hàn Tín. Bởi vậy Hàn Tín đối với Tiêu Hà trước nay vẫn một lòng kính trọng, không chút nghi ngờ. Tuy trong tâm Hàn Tín không nguyện ý vào cung nhưng bởi Tiêu Hà đã có lời mời, đành phải gắng gượng đến cung Trường Lạc.

    [​IMG]

    Tiêu Hà lừa Hàn Tín vào cung. Ảnh dẫn theo phimmoi.net

    Vừa vào cung, võ sĩ đã được mai phục sẵn ùa lên vây lấy ông. Khi ấy Hàn Tín mới biết đã mắc lừa, vội gọi Tiêu Hà, nhưng nào thấy bóng dáng Tiêu Hà đâu nữa? Lã hậu ngồi ở trên đại điện, vẻ mặt nghiêm túc, trách mắng Hàn Tín mưu phản, muốn làm hại bà ta và thái tử, căn bản không cho Hàn Tín bất cứ cơ hội biện bạch nào, giải ông đến nhà treo chuông trong cung Trường Lạc xử tử. Danh tướng một đời đã bị Lã hậu dùng mưu hiểm giết hại như vậy.

    Sau khi giết Hàn Tín, Lã hậu vẫn chưa cam tâm, lại hạ lệnh tru di cả 3 họ nhà bố, mẹ, vợ của Hàn Tín. Khi ấy là tháng giêng trời đông giá rét, tuyết trắng mù mịt, che khuất cả một vùng trời, hàng nghìn người vô tội máu nhuộm Trường An. Tiếng gào khóc hòa cùng tiếng gào thét của gió Bắc lạnh thấu xương văng vẳng trên bầu trời Trường An. Khắp thành Trường An mọi người đều ngậm ngùi than khóc, không ai không đau lòng.

    Ai cũng đều nói Hoài Âm hầu dùng nghìn vàng báo đáp ân tình một bữa cơm của bà lão giặt thuê có lý nào lại phản lại Hoàng đế năm xưa đã nhường cơm xẻ áo cho mình? Nếu như thật lòng có tâm mưu phản thì sao chỉ vì mấy câu nói của Tiêu Hà mà dễ dàng vào cung để đến nỗi bị bắt? Nếu Hàn Tín không có lòng phản lại Hoàng đế thì chính là Hoàng đế nhẫn tâm cô phụ một lòng trung thành của ông. Cái chết của Hàn Tín quả thật là oan khuất biết bao!

    Sau khi Lưu Bang đánh bại Trần Hi trở về, nghe chuyện, không hỏi Lã hậu vì sao lại giết chết Hàn Tín, chỉ hỏi Hàn Tín trước khi chết có để lại lời nào không. Sử sách cũng ghi lại phản ứng của Lưu Bang là "vừa mừng vừa thương xót", mừng là bởi đã loại trừ được họa lớn trong tâm, mặt khác lại cảm thấy Hàn Tín thật sự rất là đáng thương.


    2. Trả lại sự thật lịch sử

    Sau khi giết Hàn Tín, Lưu Bang và Lã hậu lo chuyện này sẽ khiến người đời sau chê trách, liền thêu diệt tội danh, biên tạo tài liệu. Họ không chỉ lấy tội danh "mưu phản" chụp lên Hàn Tín, còn đem cái chết của Lệ Thực Kỳ và Chung Ly Muội quy hết trách nhiệm cho Hàn Tín để bôi nhọ thanh danh ông. Những điều này đều được viết vào hồ sơ và sử sách triều đình, chân tướng lịch sử cứ thế đã bị che đậy đi.

    [​IMG]

    Sau khi giết Hàn Tín, Lưu Bang và Lã hậu lo chuyện này sẽ khiến người đời sau chê trách, liền thêu diệt tội danh, biên tạo tài liệu. Ảnh dẫn theo phimmoi.net

    Trong "Sử Ký" (Tư Mã Thiên) cũng chép rằng Hàn Tín đã từng cùng với Trần Hi thảo luận việc mưu phản. Nếu như Hàn Tín thật sự có tâm mưu phản, tại sao ông không hành sự khi còn đang là Tề vương, có thừa thực lực để cùng Lưu Bang, Hạng Vũ lập thành thế chân vạc mà lại tạo phản khi dưới trướng không có lấy một binh một tốt? Phân tích "Sử Ký" cũng như ghi chép liên quan về sự thật Hàn Tín "mưu phản", liền có thể nhìn ra có rất nhiều chỗ mâu thuẫn:

    Thứ nhất, Hàn Tín trong lúc Lưu Bang thắng bại vẫn còn chưa rõ đã cự tuyệt lời thuyết phục của Khoái Triệt, đợi đến khi Lưu Bang công thành danh toại, lại sinh lòng khác. Một tướng soái am hiểu binh pháp mà làm như vậy thật là trái với lẽ thường.

    Thứ hai, Hàn Tín hai lần bị Lưu Bang đoạt mất binh quyền, cộng thêm phân tích sâu sắc của Khoái Triệt, hoàn toàn biết được lòng nghi kỵ và nỗi sợ hãi của Lưu Bang đối với ông. Nhưng khi Lưu Bang bị Hạng Vũ bao vây ở Cố Lăng, ông không có mưu phản, đến khi làm vương đất Sở cũng không mưu phản, lúc nghênh đón Lưu Bang ở đất Trần cũng không mưu phản, cớ sao lại ngay trong lúc không còn quyền lực gì, không còn quân đội và bị giam lỏng ở Trường An lại mưu phản đây?

    Thứ ba, với trí tuệ của Hàn Tín không thể nào dưới tình huống bị theo dõi mà "lảng tránh tả hữu, đi vào trong phòng lớn" bí mật bàn bạc sách lược mưu phản với Trần Hi như "Sử Ký" chép. Giả sử thật sự có chuyện này, khi Hàn Tín cùng Trần Hi tính kế mưu phản vốn không có mặt người thứ ba ở đó, người ngoài làm sao biết được nội dung cuộc trò chuyện đây? Tư Mã Thiên làm sao lại biết được tường tận đến như vậy?

    Thứ tư, Trần Hi vốn là thân tín của Lưu Bang, với Hàn Tín vốn chỉ là quan hệ bình thường. Mưu phản là đại sự quan hệ đến tính mệnh cả gia tộc, Hàn Tín sẽ không tùy tiện thổ lộ tâm sự với người thân tín của hoàng đế. Sau khi Trần Hi đến Cự Lộc nhậm chức, hàng mấy năm không hề có thư từ qua lại với Hàn Tín. Nói ông ta là đồng mưu của Hàn Tín thật sự rất khó thuyết phục.

    Thứ năm, tội danh "mưu phản" của Hàn Tín thực hư còn chưa được làm rõ, Lã hậu liền mau chóng giết ông đi theo kiểu bịt đầu mối, vốn không cho ông cơ hội tự biện bạch. Đệ nhất công thần trong triều bị giết chết như vậy, Lưu Bang cũng không hề điều tra thêm, thậm chí cũng không trách móc Lã hậu. Chỉ có thể nói là họ đã mưu tính với nhau từ trước.

    Hàn Tín bị hại, người đời sau đều thi nhau bình luận. Có người nói rằng chính lúc Hàn Tín đăng đàn bái tướng đã rước lấy lòng nghi kỵ của Lưu Bang. Cũng có người nói là cái họa của Hàn Tín là do ngạo mạn, cậy mình công cao dẫn đến. Còn có người nói Hàn Tín tuy là nhà quân sự kiệt xuất, công lao bao trùm thiên hạ nhưng thiếu trí huệ trong việc xử thế, không biết cách bảo toàn bản thân.

    Kỳ thực, với tính cách hiểm độc, tiểu nhân của Lưu Bang, Lã hậu thì những vương hầu khác họ như Hàn Tín, Bành Việt, Anh Bố đều sẽ sớm bị tiêu diệt, dù họ có làm phản hay không. Chuyện này không thể trách lỗi Hàn Tín. Sau khi Hàn Tín, Bành Việt bị giết, những vị vương khác họ từng có công lao to lớn trong cuộc chiến Hán Sở cũng đều bị giết hại, chỉ có Trường Sa vương Ngô Nhuế mất sớm, may mắn được chết yên thân.

    Về sau, Lưu Bang cùng các chư hầu giết ngựa trắng thề rằng: "Ai không phải họ Lưu mà làm vương thì thiên hạ cùng đánh nó" (Sử Ký – Lã Thái hậu bản kỷ). Có thể thấy, việc loại trừ các vương khác họ là quốc sách đã định của Lưu Bang. Đây mới là nguyên nhân thật sự khiến Hàn Tín bị giết.

    Sau này, khi Hoài Nam vương Anh Bố bị tố cáo, do sợ hãi phải chịu kết cục như Hàn Tín đã khởi binh tạo phản. Lưu Bang khi ấy đã tuổi già sức yếu, buộc phải ôm bệnh thân chinh. Dốc hết sức bình sinh, Lưu Bang cuối cùng cũng đánh bại được Anh Bố nhưng cũng chịu một mũi tên, bị thương nặng.

    Yên vương Lư Quán, người bạn mà Lưu Bang tín nhiệm nhất vì để tự cứu lấy mình đã chạy sang lánh nạn Hung Nô. Chẳng bao lâu sau, do bệnh tình trầm trọng, Lưu Bang một đời kiêu hùng đã chết trong cảnh bị cô lập hoàn toàn. Thiên hạ mà ông cố công gây dựng, giết hại biết bao công thần để bảo toàn nó cuối cùng lại lọt vào tay một người khác, chính là vợ ông Lã hậu. Sau khi Lã hậu lên nắm quyền nhiếp chính đã giết hại rất nhiều thân tộc họ Lưu, mưu đoạt lấy thiên hạ cho họ Lã.


    Lời kết

    Hàn Tín giành được thiên hạ cho nhà Hán, Lưu Bang, Lã hậu quỷ kế đa đoan, đã hưởng trọn thành quả ấy, lại lấy tội danh "mưu phản" chụp mũ, khiến một vị tướng quân một đời khí phách vang dội non sông, công cao cái thế chết oan ở trong cung Trường Lạc, để lại một di hận nghìn thu.

    [​IMG]

    Hàn Tín giành được thiên hạ cho nhà Hán. Ảnh dẫn theo phimmoi.net

    Là một nhà quân sự, trong tất cả chiến dịch mà Hàn Tín chỉ huy, không kể là lấy ít thắng nhiều, hay là lấy nhiều đánh ít, lấy yếu thắng mạnh đều là dùng trí tuệ mà giành được chiến thắng. Sửa đường sạn đạo, lén đi Trần Thương, Lâm Tấn đánh lừa, lén vượt Hạ Dương, thùng gỗ vượt sông, bày trận tựa sông, thay thế cờ địch, đánh úp Lâm Tri, ngăn đập giết Long Thư, vượt sông nghênh chiến, bốn bề khúc Sở ca, thập diện mai phục.. Mỗi một trận chiến của Hàn Tín đều là tuyệt tác, khiến người đời sau không khỏi ngưỡng mộ.

    Thân là thống soái, ông dưới một người, ở trên vạn người, dẫn quân đi ra Trần Thương, bình định Tam Tần, bắt Ngụy, phá Đại, diệt Triệu, hàng Yên, phạt Tề, mãi cho đến trận chiến Cai Hạ tiêu diệt hết quân Sở, không một lần bại, bách chiến bách thắng. Thiên hạ không ai dám tương tranh với ông. Không phải Lưu Bang, chính Hàn Tín là người lập ra cơ nghiệp kéo dài hơn 400 năm của nhà Hán.

    Các nhà quân sự xưa nay, hoặc là giỏi về bày mưu lập kế, hoặc là giỏi về công thành trảm tướng, hoặc là giỏi về truyền dạy binh pháp. Còn Hàn Tín một thân kiêm nhiều sở trường, không chỉ tung hoành ngang dọc, khí phách vang dội, hơn nữa đã kế thừa và phát huy các loại binh pháp của tiền nhân. Thao lược quân sự và mưu trí dùng binh trác việt của ông được các nhà quân sự đời sau tôn sùng ngưỡng mộ.

    Không chỉ giành được những chiến tích phi thường trên chiến trường, trí huệ, phẩm đức của Hàn Tín cũng khiến người đời khâm phục. Ông đã đặt định ra những phẩm chất của một bậc nho tướng quân tử, vừa trung vừa hiếu, vừa nghĩa vừa dũng. Những điển tích về ông đã trở thành câu chuyện được hậu thế kể đi kể lại suốt hàng nghìn năm như: Chịu nhục chui háng, bát cơm phiếu mẫu, bốn bề khúc Sở..

    (Hết)
     
    Mèo A Mao Huỳnh MaiMạc Vấn thích bài này.
    Last edited by a moderator: 20 Tháng chín 2018
Trả lời qua Facebook
Đang tải...