Kinh Dị [Edit] Hai Thế Giới Âm Dương Tại Làng Chúng Tôi - Lý Thanh Triệu

Thảo luận trong 'Box Dịch - Edit' bắt đầu bởi Mèo A Mao Huỳnh Mai, 12 Tháng năm 2024.

  1. Hai Thế Giới Âm Dương Tại Làng Chúng Tôi

    Tác giả: Lý Thanh Triệu

    Editor: Mèo A Mao Huỳnh Mai

    Thể loại: Linh dị

    Ảnh bìa: Alissa


    [​IMG]

    Giới thiệu:

    Ở một ngôi làng nhỏ trên núi, những sự kiện siêu nhiên bí ẩn, kỳ quái, đáng sợ và mộc mạc nhất thường xuyên xảy ra, trong quá trình tìm hiểu sâu về những sự kiện này, hàng loạt bí mật quỷ quái đáng kinh người lần lượt được tiết lộ.. Lĩnh vực thần bí trong huyền thoại, truyền thuyết bí ẩn chưa biết, đêm khuya, xin hãy cẩn thận.

    Đôi lời editor: Truyện này cũng giống như những truyện thể loại linh dị khác, có những tình tiết rất đáng sợ. Tuy nhiên, trong những chuyện đáng sợ ấy lại ẩn chứa một ẩn tình khiến người ta phải cảm thấy xót xa. Trong tác phẩm này, tác giả đã nhấn mạnh đến "nhân quả báo ứng", phàm làm việc gì cũng vậy, có nhân mới có quả, không phải khi khổng khi không mà người đó, gia đình đó hay gia tộc đó, lại gặp phải những tai họa phải nói là đẫm máu như vậy.

    Do những yếu tố trên nên Mèo quyết định edit bộ truyện này, mặc dù bản gốc tác giả hay bị "rối loạn" tên nhân vật, nhưng không sao, bản edit này Mèo xin được phép sửa lại tên cho đúng để độc giả không bị rối loạn tiền đình như khi Mèo đã đọc ạ. Hi hi..
     
  2. Chương 1: Xác chết sinh dòi

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi từ nhỏ đã có hơi ngốc nghếch nhưng lại lớn gan, khi đi vào ban đêm, tôi chỉ sợ người sống sẽ cướp bóc mình. Còn người chết, ma quỷ gì đó đều không hề sợ. Ngược lại, tôi có một hứng thú không thể giải thích được đối với người chết, ma quỷ và màn đêm gì đó, như thể cảm thấy trong sự đen tối thần bí đó, luôn có những điều thần kỳ và huyền bí vậy.

    Mà lần đầu tiên tiếp xúc với xác chết, đại khái tôi chỉ mới có mười một, mười hai tuổi gì đó.

    Đó là một ông già cao tuổi ở trước nhà tôi, tôi gọi ông ta là ông Cao. Ông ta cả đời chưa từng lấy vợ, tất nhiên là cũng không có con, tôi mơ hồ nhớ rõ vào mùa đông, ông ta thích ngồi xổm trước ngôi nhà bằng gạch nung của mình, mặc chiếc áo khoác bông tồi tàn, bẩn thỉu sáng bóng, khoanh tay, híp mắt lười biếng, ngước mặt phơi nắng, cái miệng không còn răng không ngừng mấp máy, chòm râu dê cũng giật giật theo.

    Tôi nhớ có một năm đầu hè, tôi cảm thấy đã nhiều ngày liên tục không gặp ông ta, nhưng thường mỗi buổi sáng ông ta sẽ ngồi dưới gốc cây hòe to gần đó, rồi ra đồng cắt cỏ, cho hai con dê gầy gò ăn, lúc chạng vạng còn ra ngoài ngồi một lát.

    Người lớn trong nhà đều bận rộn làm việc đồng áng, không ai để ý đến việc ông ta đi ra đi vào. Nhưng mà tôi lại rất nhạy cảm với việc ông ta có ra ngoài hay không, bởi vì hầu như chiều nào sau khi tan học, tôi đều đến chơi dưới gốc cây hòe đó, còn ông ta cũng thường ở đó. Ông ta rất thích nói chuyện với tôi, luôn hỏi này hỏi nọ, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể nghe hiểu ông ta đang nói gì.

    Ông Cao đã làm gì vậy? Đã nhiều ngày không gặp, có phải ông ta đã đi thăm họ hàng không? Nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói ông ta có người thân, cũng chưa bao giờ thấy ông ta ra ngoài nhiều ngày như vậy.

    Tôi còn nhớ hôm đó là một buổi chiều sập tối, tôi chợt có cảm giác muốn đến nhà ông ta xem. Thực ra nhà ông ta cũng không có tường sân hay cổng, chỉ dùng vài thân cây bắp khô bao quanh nhà, lại dựng một cái cửa cổng bằng tre sắp mục nát.

    Lúc đó trời đã gần tối, trong ánh sáng chạng vạng dày đặc, tôi thấy cánh cửa bẩn thỉu của nhà ông ta hình như đang hé mở, hơn nữa trong sân còn có một mùi lạ tràn ngập, càng đi đến cửa, mùi đó càng nồng nặc.

    Khi tôi khẽ đẩy cánh cửa hé mở đó ra, định lách người vào, thì một mùi lạ chợt ập thẳng vào mặt, xộc vào mũi rồi dường như thấm nhanh vào từng tế bào trong cơ thể, từ nhỏ đến lớn, đây là lần đầu tiên tôi biết cảm giác khó chịu là thế nào, tôi nhanh chóng quay người chạy ra ngoài, vừa ra đến ngoài sân liền nôn mửa, nước mũi và nước mắt không ngừng chảy dài, tôi bắt đầu khóc rất to. Cái mùi lạ lùng đó, cả đời tôi sẽ không bao giờ quên: Nó không phải là một mùi thối đơn giản, mà là một mùi hỗn tạp, có mùi ngọt ngào hòa lẫn vào mùi thối đó, cái mùi đó giống như móng mèo cào vào óc, cào vào dạ dày, cào vào mỗi tế bào trong cơ thể.

    Kể từ đó, tôi không bao giờ ăn dưa hấu nữa, bởi vì mùi của dưa hấu có mùi hơi giống như vậy.

    Tôi khóc lóc chạy về nhà, cha mẹ hỏi tôi có chuyện gì, nhưng tôi không nói được lời nào, cứ khóc mãi rồi ngủ thiếp đi.

    Ngày hôm sau, tôi vẫn đi học như thường lệ, bởi vì ngoài đồng bận rộn, cha mẹ tôi không có thời gian đi cắt cỏ cho dê, nên dặn tôi sau khi tan học đi chăn dê. Bên ngoài thôn của chúng tôi có một bờ kè sông lớn, bên bờ kè có một khu rừng tươi tốt, bình thường ban ngày đi vào trong đó cũng có cảm giác như che khuất ánh nắng, mà lúc chạng vạng ánh sáng bên trong lại càng tối hơn, nhưng nói nào ngay bên trong có rất nhiều cỏ, buổi chiều tan học, tôi liền dắt ba con dê vào rừng cây đó.

    Ái chà, mà sao trong rừng, cách tôi không xa, tôi lại nhìn thấy một ông già đứng đó nhỉ, hình như là ông Cao thì phải, nhưng mà sao trông ông ta không giống như đang cắt cỏ, mà lại đứng thẳng ở đó, cái lưng bình thường hơi khom cũng không còn khom nữa, bộ quần áo ông ta mặc cũng khá kỳ lạ - không phải chiếc áo len bẩn thỉu thường ngày, mà là một chiếc áo choàng rất trắng, hơi giống một bộ trang phục hát tuồng, vào một ngày nắng nóng như vậy, ăn mặc như thế này thật kỳ lạ.

    Khi tôi bước tới, kêu lên: "Ông Cao ơi, cháu đã không gặp ông mấy ngày rồi, ông đã làm gì vậy?" Ông Cao giống như không nghe thấy, vẫn cứ đứng đó ngơ ngác, nhìn về nơi nào đó, đến khi tôi còn cách ông ta khoảng năm sáu mét, ông ta đột nhiên quay đầu lại nhìn tôi. Đúng, chính là ông Cao, ông ta nhìn tôi, rồi đột nhiên mỉm cười, trong ánh sáng mờ ảo, cái miệng khô khốc của ông ta dường như có hàm răng trắng mịn! Hơn nữa mặt ông ta xanh xao quá! Lông tơ trên người tôi lập tức dựng đứng, tôi vô thức đứng tại chỗ.

    Nhưng ông Cao lại đang lẩm bẩm điều gì đó, thay vì nghiêng người về phía tôi, ông ta lại quay người bước xuống bờ kè sông. Điều kỳ lạ là ông ta bước đi rất nhẹ nhàng, không hề khom lưng và lắc lư như thường lệ. Không biết tại sao, tôi đột nhiên nổi da gà khắp người, một luồng khí lạnh chạy thẳng vào sống lưng. Tuy rằng chỉ mới đến đây được một lúc, nhưng tôi lại muốn về nhà ngay lập tức.

    Trên đường về nhà, khi đi ngang qua sân nhà ông Cao, tôi phát hiện trong sân có vài người, trong đó có bí thư chi bộ của làng. Trong lòng tôi cảm thấy hoảng loạn không thể giải thích được, không quan tâm đến bất cứ điều gì, chỉ muốn chạy về nhà thật nhanh.

    Khi tôi vào nhà, cha mẹ tôi đã chuẩn bị bữa ăn sẵn, tôi vốn muốn nói với họ, tôi đã nhìn thấy ông Cao trong khu rừng ở bờ kè ven sông, nhưng cả người tôi lại run rẩy không nói nên lời. Mà khi cha mẹ tôi nhìn thấy tôi, họ cũng dừng việc đang làm và nhìn chằm chằm vào tôi. Mẹ hỏi: "Minh Minh, con sao vậy, chỗ nào không khỏe, sao sắc mặt tái mét vậy?"

    Tôi muốn đáp lại lời mẹ nói, nhưng cảm giác đó giống như khi gặp ác mộng, muốn hét lên hay nói gì đó nhưng lại không thể phát ra âm thanh, như thể có một sức mạnh nào đó ngăn cản tôi nói ra. Tôi cắn răng, cố gắng hết sức, mới nặn ra được vài chữ: "Con vừa nhìn thấy ông Cao, ở trong khu rừng bờ kè."

    Nghe xong, tay cha tôi run lên, cái chén rơi xuống đất, vỡ ra từng mảnh. Mẹ tôi cũng lộ vẻ mặt hoảng sợ, kéo tôi vào lòng, ôm thật chặt, dùng tay xoa đầu tôi.

    Cha tôi đột nhiên lớn tiếng nói: "Bác Cao ơi, chúng ta đã là hàng xóm tốt mấy chục năm rồi, xin bác đừng theo Minh Minh nhà tôi mà."

    Tôi dường như đã bị uất ức nào đó, bật khóc hu hu lên.

    Sau này tôi mới biết, vào buổi chiều chạng vạng khi tôi đang chăn dê ngày đó, người ta đã phát hiện ông Cao đã chết ở nhà nhiều ngày, thi thể đã thối rữa sinh dòi.

    Vậy ông Cao mà tôi đã nhìn thấy trong rừng chỉ là ảo giác sao? Nhưng cảnh tượng đó rất chân thực, đến nỗi mấy chục năm sau nó vẫn còn in rõ trong ký ức của tôi.

    Ông Cao bởi vì không có con cháu, cũng không có họ hàng, cho nên ngày tang lễ rất vắng vẻ. Mọi người góp tiền mua một chiếc quan tài mỏng, vội vàng khâm liệm bác Cao, khoảng chục thanh niên cường tráng thay nhau khiêng quan tài, mỗi người được phát một chai rượu trắng - tự mình uống mấy ngụm, rồi sau đó lại tưới lên người mình, đây là để chống lại mùi hôi thối của xác chết kinh tởm, nhưng dù vậy, vẫn có mấy người nôn mửa.

    Theo quy định thì phải hỏa táng, nhưng việc hỏa táng phải tốn hơn một ngàn tệ, xét đến hoàn cảnh của bác Cao, không ai chịu chi tiền, cấp trên cũng mở một con mắt nhắm một con mắt, cứ như vậy không giải quyết được gì.

    Sau khi bác Cao qua đời, sân và ngôi nhà bằng gạch nung của ông ta đã trở thành đống đổ nát. Bình thường khi ông ta còn sống, rất ít người đến đó - ngoại trừ những người ở Hội Thôn Ủy thỉnh thoảng sẽ gửi gạo và mì cho ông ta mà thôi.

    Ai sống ở nông thôn thì cũng đều biết, gia đình nào cũng sợ nhất những ngôi nhà bỏ hoang và còn có người chết như thế này. Bởi vì những ngôi nhà kiểu này thường xuất hiện chuột thành đàn, bọ chét chó tùm lum, nên sẽ gây tổn hại nghiêm trọng cho những ngôi nhà gần đó. Một tháng sau khi bác Cao qua đời, rõ ràng tôi cảm thấy nhà mình có nhiều chuột hơn, có lúc đi học về đẩy cửa vào nhà, tôi thường thấy chuột chạy tứ tán. Ngay cả bộ quần áo mới mẹ mua cho tôi, tôi còn không nỡ mặc, cũng bị lũ chuột cắn hỏng.

    Cha mẹ tôi quyết định nuôi một con mèo.

    Một buổi trưa giữa hè năm ấy, trời oi bức, nóng nực, cha mẹ đều ra ngoài tận hưởng bóng mát dưới gốc cây to, tôi bật quạt, ở nhà một mình xem phim truyền hình. Đang xem, không biết từ lúc nào, tôi đã ngủ quên.

    Đột nhiên, có cái gì đó rơi làm tôi tỉnh giấc. Tôi chợt xoay người ngồi dậy, hóa ra là một con mèo đen to béo, từ trên xà nhà nhảy xuống, dưới chân đè một con chuột. Sau đó nó gọn gàng ngậm con chuột vào miệng, rồi đi đến một nơi khuất để thưởng thức bữa ăn ngon lành của mình.

    Đây là một con mèo không rõ lai lịch – lúc đầu tôi tưởng nó là của nhà hàng xóm, nhưng sau đó đi chứng thực hóa ra không phải. Trong làng nếu có nhà ai có chó, mèo đi lạc, người chủ thường sẽ dùng chiếc loa phóng thanh cuối làng để kêu gọi. Nhưng con mèo này đã ở trong nhà tôi hơn chục ngày rồi mà vẫn chưa có ai tìm.

    Theo thời gian trôi qua, tôi càng thấy con mèo này kỳ lạ hơn.

    Chẳng hạn, một ngày nọ, mẹ tôi nói: "Con mèo này ở trong nhà chúng ta đã lâu rồi mà vẫn chưa cho nó ăn, trong chén này còn dư lại mớ đầu xương cá, con đem cho nó ăn đi."

    Nó đang lười biếng nằm phơi nắng trước cửa, tôi làm theo lời mẹ, đem chén xương cá đi tới, sau đó ngồi xổm xuống. Nhưng khi tôi đặt cái chén trước mặt nó, nó liền ngước nhìn tôi, đây là lần đầu tiên tôi nhìn thẳng vào mặt nó, cũng là lần đầu tiên tôi quan sát nó kỹ đến thế, đột nhiên trên người tôi run lên như bị điện giật.

    Gương mặt đó! Con mắt đó! Cái miệng đó! Rất quen thuộc! Đôi mắt của nó, hoàn toàn không giống mắt của những con mèo bình thường chút nào - loại mắt tròn tròn sẽ nheo lại dưới ánh sáng mạnh - mà lại càng giống mắt người hơn, phẳng và dài, ngay cả lông mi cũng giống, hơn nữa nhãn cầu cũng rất đục, ở mắt trái lại giống với mắt trái của ông Cao - cũng có một khối đen. Còn có cái miệng đó, trông chẳng giống miệng mèo chút nào, càng giống miệng một ông già rụng răng hơn. Ôi trời ơi, đây mà là mặt mèo cái gì, rõ ràng là mặt người quái đản mà thôi.

    Tôi ngồi bệt xuống đất, phải mất vài phút mới hồi phục lại, sau đó mới phát hiện đũng quần mình ướt, tôi đã tiểu.

    Tôi không biết tâm lý của mình lúc đó như thế nào, nhưng tôi không hề đề cập đến sự kỳ lạ của con mèo với cha mẹ, mà chỉ âm thầm giữ bí mật đó sâu trong lòng. Tôi nhớ rất rõ trong thời gian đó, tôi thường xuyên gặp ác mộng, thường xuyên cảm thấy sợ hãi. Bản thân cũng trở nên lầm lì, ăn không ngon, ngủ không yên, trở nên gầy gò, đen sạm. Cha mẹ tôi thậm chí còn đưa tôi đến bệnh viện ở quê để khám, bác sĩ nói tôi có ký sinh trùng trong dạ dày, chỉ cần uống một ít thuốc là sẽ ổn.

    Lúc cha mẹ không ở nhà, nhiều lần tôi đã cố đuổi con mèo đi, nhưng khi tôi dùng xẻng dọa nó, nó không giống như những con mèo bình thường sẽ bỏ chạy mà thay vào đó, nó cong hai chân trước và duỗi hai chân sau một cách đầy phản cảm, đối mặt với tôi với ánh mắt giận dữ. Lúc đó, khuôn mặt của nó bớt giống mặt mèo mà giống mặt người hơn, với những biểu cảm sống động, điều này khiến tôi dựng tóc gáy, không thể không nhụt chí đặt xẻng xuống, sợ hãi chạy ra khỏi nhà.
     
  3. Chương 2: Một buổi chiều quỷ dị

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngôi nhà vốn dĩ tốt đẹp bỗng trở nên kinh hoàng, chỉ bởi vì con mèo quái dị đó. Khi có mặt cha mẹ, tôi ở nhà mới cảm thấy tương đối an tâm, mà nói đến cũng thật lạ, nếu tôi không ở nhà một mình, thì con mèo đó thường sẽ không xuất hiện nhiều, không biết trốn đi đâu.

    Để tránh phải ở nhà một mình đối mặt với con mèo quái dị đó, nên mỗi khi cha mẹ đi làm đồng, tôi sẽ ra ngoài chơi ngay. Cho đến khi họ về nhà mới về.

    Tôi nhớ rõ vào một buổi trưa nọ trong kỳ nghỉ hè năm đó, trời rất nóng, cha mẹ tôi đi làm đồng về cũng rất sớm. Khi cha mẹ về, tôi cũng theo họ về nhà từ dưới gốc cây hòe to đó. Nghĩ thầm, bây giờ thì tốt rồi, có thể về nhà sớm xem TV.

    Nhưng cũng chính ngày hôm đó, một chuyện còn đáng sợ hơn đã xảy ra.

    Trưa hôm đó, cậu tôi ở làng bên cạnh đến nhà tôi có việc - thực ra là bà mai đã giới thiệu một thanh niên ở làng chúng tôi cho chị họ của tôi, cậu tôi cảm thấy việc cưới xin của con gái là chuyện lớn lao, không thể qua loa được, nên đã lặng lẽ đến đây để hỏi thăm về nhân phẩm của thanh niên đó. Tôi không có hứng thú với những chuyện người lớn này chút nào, nhưng mà bởi vì có cậu đến, cho nên bữa trưa phong phú hơn thường lệ rất nhiều, đó mới chính là trọng điểm đối với tôi.

    Cậu tôi là một con ma men nổi danh ở mấy làng lân cận, nhìn thấy rượu là uống, vừa uống là say ngay, tửu lượng cũng không phải là tệ bình thường, điều khiến tôi ấn tượng sâu sắc là lần cậu đến nhà chúng tôi, sau khi say quá không biết gì hết, thế nhưng còn tè vào trong thùng bột mì của chúng tôi. Làm hại cha mẹ tôi vì chuyện đó đã cãi nhau rất dữ dội, hơn mười ngày cũng không nói chuyện. Tôi cảm thấy, nếu mà cậu đến thường xuyên, thì cha mẹ tôi sẽ phải ly hôn mất thôi.

    Nhưng suy cho cùng thì cậu cũng là bà con thân thích, hơn nữa trong thời gian đó, cậu cũng mấy lần dùng máy kéo giúp gia đình chúng tôi cày ruộng, nên cha tôi cũng khá nhiệt tình với cậu. Hai người chạm cốc ở phòng ngoài, uống say sưa, tôi trốn vào phòng trong, bật máy quạt, bưng chén, vừa ăn cơm vừa xem TV.

    Sau khi xem hai tập phim truyền hình thì nghe tiếng ông cậu nói, ông ấy đã nghẹn ngào không nói rõ lời - chắc chắn là lại say đến không biết gì rồi. Một lúc sau, cha mẹ tôi đỡ cậu vào - nói chính xác hơn phải là "khiêng vào", rồi mới để cậu nằm xuống.

    Mẹ nói với tôi: "Minh Minh, chiều nay con đừng ra ngoài, ở nhà trông chừng cậu con đi, ổng uống như thế này cũng sẽ không thể về nhà được, nếu ổng muốn uống nước, thì con cứ rót cho ổng, mẹ với cha con đi làm đồng."

    Tôi nghĩ cũng không sao, tuy rằng cậu uống say, nhưng dù sao ở nhà vẫn có thêm một người, có thể tiếp thêm dũng khí, buổi chiều tôi có thể xem TV nhiều hơn, không còn phải ra ngoài trốn con mèo đáng sợ nữa, vì thế đã sẵn sàng nhận nhiệm vụ mẹ giao.

    Tiếp theo cha mẹ tôi múc nước đem theo, đội mũ rơm rồi ra đồng.

    Lúc này, trong nhà cũng chỉ có tôi, còn có ông cậu đang xỉn quắc cần câu, tôi nhớ vừa rồi khi cha tôi đi, còn vui vẻ nói với tôi: "Hôm nay cậu con uống một cân nhỏ, với tửu lượng ít ỏi của ổng, chắc sẽ ngủ đến nửa đêm mất, ha ha."

    Tôi còn nói đùa: "Ổng muốn ngủ đến lúc nào tùy thích, chỉ cần đừng đi tiểu bừa bãi như xưa nữa là được."

    Cha tôi nghe xong càng cười lớn hơn, trong khi mẹ tôi trợn mắt nhìn tôi.

    Tôi đang tựa vào đầu giường xem TV, bên cạnh là tiếng ngáy như sấm của cậu tôi, lúc này, cái bóng do con mèo quái dị gây ra bao ngày dường như đã tan biến, ngày tháng dường như đã trở lại với sự yên bình của quá khứ.

    Tôi ngủ thiếp đi giữa những quảng cáo trên TV và làn gió mát thổi từ chiếc quạt.

    Tôi không biết mình đã ngủ bao lâu, nhưng hình như tôi nghe thấy vài tiếng động lạ khi đang nửa ngủ nửa tỉnh. Tôi cố gắng mở mắt nhưng vẫn cảm thấy buồn ngủ, cảm thấy bên ngoài rất tối, tưởng trời sắp tối rồi, nhưng khi tôi nhìn lên đồng hồ trên tường thì thấy chỉ mới hơn bốn giờ, vậy nhất định là trời đang nhiều mây.

    Tôi quay lại nhìn ông cậu vốn đang ngủ bên cạnh thì thấy giường trống rỗng, chẳng lẽ đã tỉnh rượu đi rồi sao? Không thể nào, sao có thể tỉnh nhanh như vậy chứ, có lẽ là đi vệ sinh, tôi muốn đứng dậy kêu lên, nhưng lại không thể cử động như thể đang bị bóng đè. Đột nhiên, từ trong sân mơ hồ vang lên một tiếng cười quen thuộc mà đáng sợ, tiếng cười đó như có như không, như ẩn như hiện!

    Tôi cố gắng hết khả năng bú sữa của mình, nhưng dường như chỉ có thể quay đầu lại một chút, nhưng xuyên qua cửa sổ, trong khoảng sân tối lờ mờ, tôi lại nhìn thấy một cảnh tượng kinh hoàng:

    Cậu tôi đang đứng trong sân đối diện với cửa sổ, tuy hơi xa nhưng tôi vẫn có thể nhìn thấy vẻ mặt của ông cậu cực kỳ nghiêm túc, cũng không hề có chút men say nào, từ lúc tôi hiểu chuyện đến nay, chưa bao giờ thấy cậu nghiêm túc như vậy, vào lúc đó, cậu dường như trở thành một người khác.

    Trước mặt cậu tôi, kẻ đang ngồi xổm vậy mà là con mèo quái dị đó, tiếng cười vừa quen vừa lạ lùng ấy chính là phát ra từ con mèo ấy. Môi của cậu tôi mấp máy, từ trong cổ họng phát ra một giọng nói the thé như phụ nữ. Tôi không nghe rõ cậu nói gì, chỉ thấy cậu dường như nói rất hưng phấn, mà qua một lúc sau, mấy ông bà già mặc quần áo kỳ lạ xuất hiện bên cạnh cậu tôi, khuôn mặt của họ đều khô khốc và gầy gò, mờ mờ ảo ảo, hơn nữa ánh sáng lại tối, nên tôi thật sự không nhìn rõ mặt họ, chỉ cảm thấy bộ quần áo họ đang mặc rất lạ lùng, không phải bộ quần áo thường mặc bây giờ, cũng không giống bộ quần áo trong mấy bộ phim truyền hình cổ trang, tôi chợt nhớ ra đột nhiên có hai từ mà tôi đã xóa khỏi tâm trí: Áo liệm!

    Đúng vậy, tất cả họ đều mặc áo liệm!

    Ý thức của tôi chợt mờ đi, cảm thấy nước tiểu lại trào ra, tôi muốn cử động nhưng vẫn không thể. Trái tim đập thình thịch, tôi choáng váng vì sợ hãi tột độ. Tôi lại từ từ mất đi tri giác, không biết là ngất đi hay ngủ quên, chỉ mơ hồ nghe thấy bên ngoài có tiếng sấm đùng đùng, chắc chắn là trời đang mưa.

    Khi tôi tỉnh lại, thì bị mẹ tát cho tỉnh giấc, bà vừa tát tôi vừa nói: "Đã mười một mười hai tuổi rồi, sao ban ngày cũng đái dầm vậy."

    Cha tôi thấp giọng lầm bầm lầu bầu nhưng như bênh vực tôi: "Con nít đái dầm thì có gì mà la lối om sòm, tôi mười lăm tuổi còn đái dầm đấy, dù sao cũng chỉ là một chiếc chiếu thôi, đem ra ngoài giặt rồi phơi, một lát nữa sẽ khô, chứ ông anh đó của bà, năm nay cũng đã bốn năm chục tuổi rồi, không phải cũng tiểu bậy suốt à."

    Mẹ tôi quay sang cha tôi và hét lên: "Ông nói cái gì?"

    Cha tôi dường như đã nhận ra mình đã lỡ lời, lập tức im lặng.

    Khi tôi hoàn toàn tỉnh dậy, bên ngoài đã nổi giông bão, bầu trời tối như màn đêm, mà đồng hồ trên tường chỉ mới hơn năm giờ mà thôi. Cha tôi hơi ngạc nhiên hỏi tôi: "Cậu con tỉnh rượu đi rồi à? Làm sao có thể? Mới không bao lâu mà, xem ra tửu lượng của ổng tăng lên rồi."

    Tôi cố nhớ lại cảnh tượng lúc nửa tỉnh nửa mơ nhìn thấy ngoài cửa sổ đó, không biết đó có phải là ác mộng hay không. Có lẽ đó chỉ là một giấc mơ thôi, tôi đã cố gắng hết sức để thuyết phục bản thân rằng đó thực sự chỉ là một giấc mơ mà thôi.

    Cha tôi thấy ba con dê ngoài sân còn bị mắc mưa, nên vội khoác bao tải vào, dầm mưa ra ngoài dắt chúng nó vào chuồng dê. Nhưng mà khi ông vào nhà, trong tay cầm một mảnh vải ném cho mẹ và nói: "Không hiểu sao trong sân nhà chúng ta lại có một mảnh vải lụa lớn như vậy, còn khá mới, mẹ nó có thể dùng nó để lót vào đế giày."

    Mảnh vải này khiến tôi như bị điện giật, hai từ rùng rợn đó lại hiện lên trong đầu tôi: Áo liệm.
     
  4. Chương 3: Cảnh tượng kỳ lạ ở chỗ đọc sách lúc nửa đêm

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tại sao tôi lại nhạy cảm với áo liệm như vậy à? Bởi vì tôi đã gặp phải một chuyện rất đặc biệt. Chuyện này phải bắt đầu từ năm tôi mười tuổi.

    Khi đó, vùng nông thôn thường xuyên bị mất điện, đồng thời nhiều nhà trong làng còn chưa có tivi, cho nên trong thời gian nông nhàn, các phương tiện giải trí cũng còn hạn chế. Trong làng thỉnh thoảng sẽ có đoàn nhào lộn, múa rối bóng về biểu diễn, mỗi khi đến lúc đó, trong làng liền sôi động giống như ngày Tết. Nhưng mà đối với hầu hết người trung niên và người già, thì họ có một cách giết thời gian độc đáo, đó là "nghe đọc sách".

    Cái gọi là nghe đọc sách, chính là tìm một cuốn sách truyện, chẳng hạn như "Dương Gia Tướng", "Tiết Cương phản Đường", "Tiết Nhân Quý chinh Tây" gì gì đó, rồi nhờ một người biết chữ đọc, những người khác sẽ nghe một cách say sưa ngon lành.

    Nơi thường nghe đọc sách là một ngôi nhà gạch gần như bị bỏ hoang, một nửa ngôi nhà là chuồng ngựa, nửa còn lại thì dùng rơm đan thành đệm lót dưới đất, người nghe đọc sách phần lớn là những ông già, bình thường chỉ có bảy tám người, có người tự mình mang theo ghế, có người chỉ đơn giản nằm dưới sàn lắng nghe.

    Bên cạnh sàn nhà có một chiếc quan tài. Hồi xưa, ở vùng nông thôn, những gia đình có người già ở nhà thường có truyền thống để dành quan tài - nhưng nói chính xác thì nên gọi là "Thọ Tài". Trong ngôi nhà gạch nơi nghe đọc sách, lại có một chiếc "Thọ Tài" như thế này - thực chất dù gọi như thế nào thì nó cũng chỉ là một chiếc quan tài.

    Từ nhỏ tôi đã thích nghe truyện cổ, cho nên hầu như mỗi lần nghe đọc sách là tôi đều tham gia. Những ông già đó lúc đầu thấy hơi lạ khi thấy một đứa bé như tôi có thể ngồi im lặng nghe đọc sách như họ, nhưng rồi cũng quen dần.

    Người mê nghe sách hơn tôi, có lẽ là lão Vương.

    Lão Vương sức khỏe rất kém, mắc bệnh hen suyễn, nặng đến mức mùa hè còn suyễn chứ đừng nói chi đến mùa đông. Vì vậy, khi nghe đọc sách, để tránh tiếng thở nặng nề của mình làm phiền người khác, lão luôn ngồi ở một góc vắng vẻ cách người khác rất xa.

    Lão rất bướng bỉnh, hiếm khi nói chuyện, nhưng khi mở miệng, về cơ bản là sẽ cãi nhau với người ta. Tôi nhớ rõ, chưa bao giờ thấy lão nói chuyện lịch sự với người nào, không phải tranh cãi với người ta thì cũng khiến người ta phải dè chừng. Bởi vì tính tình lão kỳ cục, quái gở như vậy, nên lão không được ai ưa, ngay cả con lão cũng không thèm nói chuyện với lão.

    Tôi nhớ rất rõ vào tháng chạp năm đó, thời tiết rất lạnh, ngoài trời gió Bấc gào thét, bởi vì lưới điện ở trong làng cần cải tạo nên điện phải cắt nửa tháng, tivi là không xem được rồi, cũng không có nơi nào để giải trí, cho nên, chỉ có thể ngày nào cũng phải đến căn nhà bằng gạch nung kia, để nghe họ đọc sách. Trong khoảng thời gian đó, người nghe đọc sách ngày càng nhiều, nhiều nhất có lẽ cũng hơn mười người, lấp đầy cả căn phòng.

    Nhưng không biết vì lý do gì, mà lão Vương, người mê sách cuồng nhiệt nhất lại không đến.

    Sau này nghe người khác nói, lão Vương bị bệnh rất nặng, mà con trai duy nhất của lão, lại đi ra ngoài làm Thạch Tượng cho người ta ở chỗ cách xa trăm dặm, còn con dâu thì lười quan tâm đến lão, mà lão lại không được lòng người, cho nên hoàn toàn không có ai đến nhà thăm lão. Có điều, hình như có người nói, lão Vương sợ rằng sẽ không qua khỏi năm đó.

    Tuy nhiên, tiếp theo điều kỳ lạ đã xảy ra.

    Vào mùa đông, đêm dài. Vì vậy, đôi khi nghe đọc sách đến một hoặc hai giờ sáng mới tàn cuộc. Nhưng sau mười giờ tối, mọi người dần dần bắt đầu giải tán, đến nửa đêm, có lẽ chỉ còn lại bốn năm người. Vậy những người còn lại chắc chắn được coi là những "người yêu sách" ở cấp độ đam mê.

    Mà tôi chính là một trong những người đam mê này.

    Tôi nhớ đêm đó, bên ngoài tuyết rơi dày đặc, người ở bên trong nghe đọc sách càng lúc càng ít, đến khoảng mười một giờ, chỉ còn lại khoảng năm sáu người.

    Trong nhà chỉ thắp một ngọn nến, người đang đọc sách ngồi bên cạnh ánh nến mờ ảo, ung dung đọc sách. Đột nhiên, cánh cửa vốn đã có phần cũ nát bị đẩy ra một khe hở, một cơn gió lạnh thổi vào phòng, làm cho ánh nến lung linh dường như sắp tắt, những người ngồi quanh ngọn nến vội vàng lấy tay che lại, đồng thời cùng lúc đó, ánh mắt của năm sáu người trong phòng đều tập trung vào người bước vào, không cần nhìn mặt, chỉ nhìn thân hình lom khom, loạng choạng đó, thì cũng biết đó là lão Vương.

    Trong đó có một người hỏi: "Thì ra là bác Vương à, vậy mà nghe ai đó nói bác bị bệnh rất nặng, đây không phải còn rất khỏe sao?"

    Lão Vương dường như không nghe thấy, chỉ đờ đẫn xách chiếc ghế nhỏ của mình, từng bước một đến cái góc hẻo lánh vốn của lão, sau đó ngồi xuống nghe sách như thường lệ.

    Mọi người đều biết tính khí thất thường của lão, cho nên cũng không ai để ý đến lão nữa, tiếp tục đọc.

    Mà người gần đó nhất chính là tôi. Bởi vì tôi còn nhỏ, cho nên chân tay tương đối linh hoạt, thích trèo lên cái quan tài đó, nằm sấp xuống nắp quan tài và nghe sách, tư thế đó rất thoải mái, mà cái quan tài đó lại nằm ngay cạnh góc hẻo lánh nơi lão Vương ngồi. Trong chỗ đọc sách đơn sơ này, vị trí của tôi và lão Vương là tương đối cố định, cho nên tôi rất quen với tiếng thở nặng nề và bất thường do bệnh hen suyễn của lão phát ra.

    Lúc đầu tôi có hơi buồn ngủ, nhưng khi lão Vương bước vào, một luồng khí lạnh cũng theo vào trong nhà. Đầu óc tôi cũng tỉnh táo hơn, khi tôi ra ngoài đi tè trở vào trong nhà, trèo lên nắp quan tài tiếp tục nghe sách, tôi chợt nhận ra một điều: Tại sao tôi không nghe thấy tiếng thở đặc trưng của ông lão Vương.

    Với khoảng cách giữa tôi và lão, cho dù bình thường ban ngày ồn ào, tôi cũng có thể nghe rõ tiếng thở của lão, nhưng tại sao trong đêm yên tĩnh như vậy tôi lại không thể nghe thấy? Chẳng lẽ là bệnh hen suyễn hết rồi à?

    Qua ánh nến mờ ảo, tôi lén liếc nhìn ông lão Vương đang ngồi trong góc hẻo lánh đó, chợt phát hiện sắc mặt lão rất khác thường ngày - mọi nếp nhăn trên mặt dường như đã giãn ra, trên mặt vẫn luôn mang vẻ mặt đau đớn khó thở trước kia, bây giờ lại bình thản hơn bao giờ hết, nhưng dường như có hơi thẫn thờ.

    Một con chó đen vốn đang nằm cạnh tôi đột nhiên đứng dậy, đi đến góc nơi lão Vương đang ngồi, giơ hai chân sau lên tè vào người lão Vương, nhưng lão Vương vẫn vô cảm, ngồi ở đó như tượng. Tôi nhanh chóng ngồi dậy, hét con chó một tiếng, cố gắng xua nó đi để ông lão Vương không bị chó tè tứ tung. Nghe tiếng tôi hét, chú Bảo Sinh đang đọc sách lập tức dừng lại, mấy thính giả ngồi xung quanh cũng quay lại nhìn tôi hỏi: "Sao vậy?"

    Tôi vội đáp: "Con chó đen to này đang tè vào ông Vương kìa?"

    Chú Bảo Sinh hỏi: "Đâu có ông Vương nào đâu, con chó này không phải đang tè lên tường à?"

    Tôi cũng quay lại nhìn, quả nhiên, nào có ông Vương nào đâu, con chó đen to đó tè một bụng nước tiểu vào góc tường!

    "Vừa rồi ông Vương đúng là ngồi ở chỗ này, sao lại rời đi nhanh như vậy?" Tôi nói.

    "Vừa rồi nhất định là mày đang nằm mơ, ông Vương bệnh nặng như vậy, sao có thể đến nghe đọc sách, mày về nhà ngủ nhanh đi." Chú Bảo Sinh có chút khinh thường đáp lại tôi.

    "Ông ấy vừa rồi đúng là có đến, các chú còn chào ông ấy mà, ông ấy vẫn ngồi ở đây." Tôi vẫn giải thích không chịu thua kém.

    "Đứa nhỏ này buồn ngủ thật rồi, mấy ông có ai nhìn thấy ông Vương tới không, ha ha, đúng là gặp ma." Bốn năm người cùng nhau cười lớn.

    Tôi không cố gắng giải thích nữa, chỉ cảm thấy một cảm giác sợ hãi mà tôi chưa bao giờ cảm thấy trước đây.

    Ông lão Vương quả thực đã đến đây! Tôi cũng chưa bao giờ ngủ quên! Tôi chắc chắn.
     
  5. Chương 4: Nghiệp báo và thi thể bị chó ăn thịt

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tôi không còn tâm trạng để tiếp tục nghe sách nữa, tim đập thình thịch, bình thường nửa đêm nghe xong sách, trên đường về nhà, tôi chưa bao giờ sợ hãi, mặc dù tôi còn rất nhỏ.

    Nhưng đến khuya hôm đó, tôi cảm thấy sợ hãi thấu xương, rất muốn có người đưa mình về nhà, nhưng trong số bốn, năm người còn lại nghe sách này, không ai có nhà cùng hướng với tôi. Tôi không còn cách nào khác đành cắn răng về nhà một mình.

    Tôi vừa bước ra khỏi cửa ngôi nhà gạch nung đó, tuyết bên ngoài đã ngừng rơi, trong đêm đông lạnh giá, một vầng trăng khuyết treo trên bầu trời cô đơn lạnh lẽo. Tuyết bên ngoài cũng đã rất dày, giẫm phải sẻ kêu sột soạt.

    Một cơn gió lạnh thổi qua, tôi giật mình rùng mình một chút, đầu óc chợt tỉnh táo, bỗng nhiên nghĩ đến: Nếu vừa rồi ông lão Vương thật sự đến nghe sách thì trên tuyết chắc chắn là có dấu chân, nhưng khi tôi nhìn kỹ, thì trên mặt tuyết trắng dưới đất không hề có bất kỳ dấu chân nào!

    Nhà chúng tôi gần như ở ngoài làng, may mà làng chúng tôi không lớn, cho nên tôi chạy một mạch về nhà. Dọc đường tôi còn ngã sấp mặt xuống tuyết mấy lần, nhưng tôi cũng không quan tâm đến cơn đau, đứng dậy lại chạy tiếp, đã vậy tôi còn cảm giác như có một bóng đen nào đó đang đuổi theo mình phía sau.

    Ngày hôm sau, tôi kể lại cho cha tôi nghe mọi chuyện tối qua ở chỗ nghe đọc sách, ông có vẻ hơi lơ đãng, cũng giống như những người đó, cho rằng tôi chỉ đang mơ mà thôi.

    Nhưng khi nghe tôi nói có bóng đen đi theo sau tôi, ông mới thấy hứng thú, nói chính ông cũng từng có trải nghiệm tương tự:

    Lúc ông mười bốn, mười lăm tuổi, ông nội lúc ấy làm nghề bán thuốc, được coi là một gia đình giàu có trong làng, nên mua cho ông một chiếc xe đạp, lúc đó, xe đạp chính là một thứ tuyệt đối xa xỉ, ông rất vui mừng. Vào một buổi chiều mùa hè, ông đạp xe đến nhà một người bạn cùng lớp ở làng bên cạnh chơi.

    Thường nói "trời tháng sáu, mặt trẻ con", thời tiết luôn thay đổi thất thường, hôm đó trời đột nhiên mưa to, còn mưa liên tục cho đến khoảng mười giờ đêm. Cha tôi thấy ở nhà bạn học qua đêm cũng không tiện, hơn nữa hai làng lại rất gần nhau, thế là ông quyết định đạp xe về nhà. Đường quê toàn là đường đất, trời mưa thì càng lầy lội, đi lại khó khăn, tệ hơn nữa là trên đường còn phải đi qua một nghĩa địa rất rộng lớn. Lúc đầu cha tôi không can đảm lắm, đi đường ban đêm mà còn phải qua nghĩa địa, nên còn sợ chết khiếp hơn.

    Lúc đầu, vẫn có thể đạp xe, nhưng khi đi ngang qua nghĩa địa, việc đạp xe càng trở nên phí sức hơn, giống như phía sau có ai đó đang kéo lại. Càng sợ hãi, càng không dám nhìn lại; càng không dám nhìn lại, lại càng sợ hãi. Cha tôi sợ đến mức suýt khóc, cuối cùng không đạp được nữa, liền cắn răng, chịu đựng nỗi sợ suýt tè ra quần, cật lực đẩy đi. Đó là một chiếc xe đạp mới nên thực sự không nỡ vứt nó đi! Nếu không thì đã sớm vứt nó để chạy về nhà thật nhanh rồi!

    Nhưng lực phía sau dường như càng lúc càng mạnh, cuối cùng thực sự không thể đẩy được nữa, cũng thực sự không thể chịu đựng được sự dày vò của nỗi sợ hãi nữa nên ông đã hét lớn khóc ra tiếng, vứt chiếc xe đạp đi, vừa khóc vừa chạy về phía nhà.

    Sau khi ông nội tôi nghe ông khóc hu hu lẩm bẩm nói đại khái, mới dẫn ba bốn thanh niên đi tìm chiếc xe đạp bị ném trên đường.

    Nghe xong câu chuyện này, tôi tò mò hỏi cha: "Có phải là có ma đã kéo xe đạp của cha từ phía sau nên cha mới không đẩy được không? Ông nội có tìm thấy chiếc xe đạp không?"

    Cha tôi cười lớn: "Thằng ngốc, có ma quỷ gì đâu, bánh trước và bánh sau của xe đạp bị nhét đầy bùn, cho nên mới càng lúc càng nặng, lúc đó bởi vì cha quá sợ nên không nghĩ tới chuyện đó, chỉ nghĩ đến phương diện kia, trên thế giới làm gì có ma chứ, tất cả đều là do tưởng tượng mà thôi."

    Tôi nhớ lúc đó tôi nghĩ những gì cha tôi nói đều rất có lý, nhưng sau này đã xảy ra nhiều điều kỳ lạ, cho thấy thế giới này có thể không đơn giản như những gì cha tôi nói.

    Qua hai ba ngày sau trải nghiệm khủng khiếp ở chỗ nghe đọc sách đêm đó, một sự việc cực kỳ giật gân đã xảy ra trong làng chúng tôi: Ông lão Vương qua đời - điều này chắc chắn không phải là "giật gân" - mà điều "giật gân" là thi thể của lão, ấy thế mà lại để cho con chó của lão nuôi gặm ăn!

    Tôi vẫn nhớ, lúc chen chúc trong đám đông, tình cờ nhìn thấy thi thể đẫm máu của ông lão Vương vài lần, mà kỳ lạ là, quần áo trên người lão lại là áo liệm bằng vải lụa lộng lẫy và tươi sáng, đồng thời dính đầy máu.

    Trước đây, áo liệm là trang phục mà những người già coi trọng nhất, bình thường họ thà bớt ăn bớt mặc, cũng muốn sau khi chết mặc một bộ quần áo tươm tất.

    Sau này, tôi nghe người lớn nói, mới biết tình hình đại khái về cái chết của ông lão Vương: Ông lão Vương trước khi chết đã mặc áo liệm vào, có lẽ lão đã có linh cảm về cái chết của mình. Nhưng lão hẳn là đã quên mất, trước khi chết còn có một việc quan trọng hơn phải làm - chính là thả con chó săn bị buộc ở đầu giường ra.

    Sau khi chủ chết, không có ai đến cho nó ăn, mà nó lại không thể thoát khỏi sợi dây cột, thời gian trôi qua, nó đói không chịu nổi, thế là thú tính bộc phát mạnh mẽ, cho nên chỉ có thể ăn thi thể của người chủ.

    Ông lão Vương rất thích nuôi chó, đặc biệt là chó săn, nhưng lại không ngờ lại có kết cục như thế này. Tuy nhiên, sau này những hồi ức và bình luận của một số người lớn tuổi trong làng càng phủ thêm màu sắc thần bí cho vụ việc.

    Theo một số người lớn tuổi nói, "cái chết bi thảm" của ông lão Vương hoàn toàn là do nghiệp báo. Điều này phải bắt đầu từ thời thơ ấu của ông lão Vương.

    Gia đình ông lão Vương khi đó vốn là địa chủ trong làng, không những có nhiều đất đai tốt nhất trong làng mà còn có một vườn táo rộng lớn. Khi vườn đầy trái cây, cũng sẽ có rất nhiều người hái trộm táo, những người này có người lớn cũng có trẻ em. Vì vậy nhà họ Vương đã nghĩ ra nhiều cách để ngăn táo bị hái trộm.

    Họ thuê một số người trông vườn nhưng hiệu quả không tốt lắm, hơn nữa chi phí nhân công cũng tương đối cao. Về sau, cha của ông lão Vương - Vương Tài Chủ, nảy ra một ý tưởng hay: Nuôi chó săn.

    Mấy con chó săn này được Vương Tài Chủ mang về từ thành phố, nó to như một con bê. Đồng thời tính tình rất hung dữ, trong đó có một con chó săn thậm chí còn cắn chết một con dê, cũng ăn thịt con dê này hơn phân nửa, người dân trong làng đều nói, đây hoàn toàn không phải là chó săn gì cả, quả thật chính là "sói".

    Những con chó săn này, ban ngày sẽ bị buộc lại, đến ban đêm mới thả ra. Ai đã từng nuôi chó đều biết, chó càng buộc thì càng hung dữ, chó càng buộc thì tính hoang dã càng lớn, tính tấn công càng mạnh.

    Có một tá điền họ Cao, làm công tại nhà của Vương Tài Chủ. Bởi vì gia đình của tá điền họ Cao rất nghèo, mãi đến ba mươi tuổi mới cưới được vợ, đến hơn bốn mươi tuổi mới sinh được một đứa con trai. Khi đứa con trai lên bảy tám tuổi, vợ của tá điền Cao lên cơn sốt rồi qua đời đột ngột, thế là chỉ còn lại hai cha con sống nương tựa vào nhau.

    Tá điền Cao coi đứa con trai này như hòn ngọc quý trên tay, mặc dù nghèo khó nhưng tá điền Cao vẫn tìm mọi cách để không để con trai mình bị cực khổ. Còn cho nó theo học tại một trường tư thục trong làng.

    Đứa con trai duy nhất của tá điền Cao này, được sự dung túng của cha, cũng khá nghịch ngợm, suốt ngày làm những việc như trộm dưa, hái táo, ăn trộm ăn cắp tùm lum. Nhưng bình thường hầu hết mọi người đều cho rằng đứa bé này còn nhỏ, nên cũng không có ai so đo với nó.

    Một ngày nọ, đến tối tá điền Cao cũng không thấy con trai về, lúc đầu còn tưởng là đến nhà ai đó chơi, cũng không để ý nhiều. Liền để cơm trong nồi cho con trai rồi tự mình ăn trước. Bởi vì ban ngày làm việc quá mệt mỏi, nên sau khi cơm nước xong, ngã đầu ở trên giường liền ngủ mất.

    Không biết đã ngủ bao lâu, đến khi mắc tiểu tỉnh dậy, vậy mà phát hiện con trai mình vẫn chưa về! Cơm để trong nồi cũng không ai động tới. Lúc này ông hơi hoảng lên, lập tức đi đến nhà bạn mà con trai mình có thể đến chơi để tìm, sau khi đến từng nhà, đều nhận được kết quả như nhau: Chưa từng đến bao giờ.

    Bấy giờ tá điền Cao thực sự hoảng sợ, ở trong làng kêu to tên con trai mình như phát điên. Bình thường ông rất được lòng người trong làng, nhiều người không ngủ được đã cùng tìm kiếm với tá điền Cao.

    Tìm kiếm mọi ao hồ gần làng, mỗi cái giếng nhưng vẫn không có!

    Mãi cho đến rạng sáng, đã tìm kiếm mọi ngóc ngách trong làng và các khu vực lân cận nhưng vẫn không tìm thấy dấu vết của con trai nhà họ Cao. Chỉ có một nơi duy nhất mà người ta không tìm kiếm - vườn táo của Vương Tài Chủ.

    Vương Tài Chủ bụng dạ cũng khá tốt, vừa nghe tin mọi người muốn vào vườn táo để tìm đứa con trai mất tích của nhà họ Cao, ông không nói hai lời, đã mở tất cả các lối ra của vườn táo, cho mọi người đi vào.

    Người ta tìm kiếm mãi, cuối cùng ở khu vực trong cùng nhất của vườn táo, dưới bức tường cao, họ đã nhìn thấy một cảnh tượng kinh hoàng nhất: Một con chó săn to lớn, đang nằm trên mặt đất nghỉ ngơi, dùng lưỡi liếm láp cái miệng dính đầy máu, mà bên cạnh nó, là một thi thể của một đứa trẻ gần như chỉ còn là một bộ xương.
     
  6. Chương 5: Vòng tuần hoàn vận mệnh thần bí

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hóa ra con trai của người tá điền họ Cao thực sự đã bị con chó săn này ăn sống! Nhìn thấy thảm trạng như vậy, tá điền Cao lập tức ngất đi. Cũng trong đêm đó, tá điền Cao cũng treo cổ tự tử.

    Con chó săn ăn thịt người đó, cũng bị Vương Tài Chủ đánh chết.

    Nhưng từ đó về sau, Vương Tài Chủ thường mơ thấy con trai nhà họ Cao đến đòi mạng. Cũng sau sự việc đó, Vương Tài Chủ bắt đầu ăn chay. Trước kia Vương Tài Chủ là người "yêu thịt" - bữa ăn nào cũng phải có thịt. Khi đói, ông thậm chí không ăn bánh bao hay cơm mà trực tiếp cầm một miếng thịt nấu chín gặm ăn.

    Một người "yêu thịt như mạng" như thế, vậy mà lại ăn chay! Mọi người cảm thấy ông làm điều này để sám hối cho tội lỗi của mình. Nhưng sau này Vương Tài Chủ đã giải thích với người khác, đó không hoàn toàn là vì nguyên nhân này, nguyên nhân chính là mỗi khi nhìn thấy thịt, ông lại nghĩ đến thịt của con trai nhà họ Cao mà ngày đó nhìn thấy nằm rải rác trên mặt đất, cho nên ông mất đi cảm giác thèm ăn.

    Sau khi chuyển sang ăn chay, thì lại thường xuyên gặp ác mộng, cơ thể cường tráng vốn có của Vương Tài Chủ bắt đầu gầy đi từng ngày, trạng thái tinh thần cũng ngày càng tồi tệ hơn, nên vừa mới bốn mươi lăm tuổi, đã qua đời. Mà cha và ông nội ông đều sống đến hơn tám mươi tuổi. Người dân trong làng đều nói, nguyên nhân là do con chó săn ông nuôi đã hại chết hai mạng người, nên đã tổn hại tuổi thọ của ông.

    Mà ông lão Vương - cũng chính là con trai của Vương Tài Chủ - ở mấy chục năm sau, không ngờ cũng chịu chung số phận bị chó săn ăn thịt.

    Người Tây Tạng có tục Thiên táng (chôn cất trên trời) - người sau khi chết, thi thể được chặt thành từng mảnh, bôi bơ, để cho kền kền ăn thịt, họ tin rằng chỉ khi làm như vậy, linh hồn của người đó mới có thể được đưa lên thiên đường. Còn truyền thống mai táng của người Hán chúng tôi lại hoàn toàn khác, chúng tôi chú trọng việc mồ yên mả đẹp, sự toàn vẹn của thi thể, ngày xưa khi những phạm nhân bị chặt đầu, lúc nhập liệm, người nhà sẽ khâu đầu và thi thể lại với nhau. Còn có một số đao phủ đã luyện được một "kỹ năng độc đáo", tức là khi chặt đầu, nhắm rất chính xác, có thể làm cho giữa đầu và thi thể của phạm nhân, có một lớp da mỏng nối lại, để không đến mức "thi thể bị chia làm hai phần". Những "tay nghề" như vậy, sẽ trở nên rất hữu ích khi moi tiền của người nhà phạm nhân.

    Thậm chí, lúc thái giám chết được chôn cất, "cái đó" của hắn đã bị cắt bỏ cũng phải được khâu lại vào chỗ cũ.

    Vì vậy, thi thể của ông lão Vương bị chó săn xé nát, có thể coi là "chết thảm".

    Khi lớn lên, tôi đọc rất nhiều sách, đã từng kết hợp vận mệnh của hai thế hệ nhà họ Vương và nhà họ Cao, cẩn thận suy ngẫm về cái gọi là "nhân quả báo ứng".

    Một con chó săn của nhà họ Vương đã lấy đi mạng sống của hai cha con họ Cao; mà mạng sống của hai cha con họ Vương, chẳng phải cũng lần lượt liên quan đến nó sao? Thật là huyền diệu.

    Tôi đã từng nhìn thấy trong các sách lịch sử, phát hiện trong lịch sử những chuyện nhân quả báo ứng như vậy thực sự có rất nhiều.

    Đầu tiên hãy bắt đầu với Khổng Tử, người có ảnh hưởng nhất ở Trung Quốc. Khổng Tử là thánh nhân ở Trung Quốc, cả đời đều lấy "nhân" làm gốc, những người như vậy chắc chắn được coi là tích đức và làm việc thiện, cho nên Khổng gia từng xuất hiện kỳ tích --

    Bắt đầu từ con trai của Khổng Tử, liên tiếp tám đời đơn truyền, vậy mà không hề bị đứt đoạn! Phải biết rằng tỷ lệ tử vong của người cổ đại là cực kỳ cao, chưa kể người bình thường, ngay cả trong hoàng gia có điều kiện tốt hơn thì tỷ lệ tử vong cũng rất đáng sợ, ví dụ như Hoàng đế Khang Hy có 20 cô con gái, nhưng chỉ có 8 người sống sót, 12 người còn lại đều chết sớm, tuổi trung bình chỉ 17 tuổi.

    Ngay cả khi các cô con gái sau này sống đến tuổi xuất giá thì tuổi thọ trung bình cũng chỉ là 35 tuổi. Vì vậy, dưới tỷ lệ tử vong cực cao ở thời cổ đại, việc Khổng gia có thể đơn truyền tới tám đời, đây chắc chắn là kỳ tích bên trong kỳ tích. Mà Khổng gia đến thời Hán Cao Tổ, lại bắt đầu hưng thịnh. Sau này dần dần trở thành gia tộc nổi danh nhất Trung Quốc. Cho nên, một số thầy bói nói rằng, căn cứ theo ngày sinh tháng đẻ của Khổng Tử thì lẽ ra ông đã phải bị tuyệt dòng, nhưng vì Khổng Tử suốt đời chủ trương chữ "nhân" nên chính chữ "nhân" này đã mang lại phúc báo cho Khổng Tử.

    Ngoài ra, khi nhà Mãn Thanh chiếm lấy Trung Nguyên, chính là có một vị Thái hậu, một vị ấu chủ, một vị nhiếp chính vương, thời mạt Thanh mất giang sơn, tình cờ cũng là một vị Thái hậu, một vị ấu chủ, một vị nhiếp chính vương.

    Sau khi vào ở Trung Nguyên, Thuận Trị lên ngôi khi còn rất nhỏ, chỉ mới 5 tuổi, nên quyền lực trong triều đều nằm trong tay mẫu thân ông là Thái hậu Hiếu Trang cùng với nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn. Đây hoàn toàn giống với khuôn mẫu khi nhà Thanh kết thúc - vị hoàng đế cuối cùng là Phổ Nghi, lúc lên ngôi cũng chỉ mới ba tuổi, mà triều chính cũng đồng dạng là do Hoàng hậu Long Dụ và Nhiếp chính vương Tái Phong nắm giữ, đây thật là quá trùng hợp!

    Còn có người cho rằng, Mãn Thanh đã dùng kế phản gián để giết Viên Sùng Hoán, tạo ra kỳ oan (vụ án oan kỳ lạ) trong thiên hạ, không ngờ vào cuối triều đại nhà Thanh, người buộc hoàng đế thoái vị thế mà cũng là họ Viên - Viên Thế Khải.

    Loại nhân quả báo ứng này thật sự là quá kỳ diệu.

    Một số người cho rằng, những người có "thể chất Linh Dị" thường có thể nhìn thấy quỷ thần. Tôi không biết tôi có phải hay không, nhưng trong quá trình lớn lên, quả thật tôi đã có rất nhiều trải nghiệm "Linh Dị", nhưng tất cả những điều này tôi đều giữ kín trong lòng, không bao giờ đề cập với người khác, bởi vì tôi sợ bị người ta xem là bệnh tâm thần.

    Nhưng khi dần lớn lên, tôi ngày càng khao khát khám phá những sự kiện Linh Dị này, tôi cũng ngày càng có ham muốn tìm tòi nghiên cứu. Tại sao làng chúng tôi lại có nhiều việc kỳ lạ quái dị như vậy, là Phong Thủy? Hay đó là một vấn đề khác?
     
  7. Chương 6: Người lạ trong nghĩa địa lúc nửa đêm

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sau này tôi lại đọc rất nhiều sách về khoa học, tâm lý học, phong thủy, v. V.. và tôi chỉ muốn tìm ra một vấn đề: Trên đời này đến tột cùng có ma hay không? Có phải những điều tôi gặp phải chỉ là ảo giác?

    Sau khi học xong cấp hai, tôi liền rời nhà, đến ở nhà chú ba, cách đó hơn 200km để đi học, bởi vì ở đó trường học tốt hơn. Sau đó tôi học cấp 3, rồi đại học, nhưng cuối cùng tôi lại chọn trở về quê hương - làm việc tại trạm cấp điện của huyện. Bởi vì huyện cách làng chúng tôi không xa, cho nên, sau khi rời nhà được mười năm, tôi lại trở về làng thường trú.

    Tôi quyết định tìm tòi nghiên cứu kỹ hơn những "điều kỳ lạ" mà tôi gặp phải trong quá khứ.

    Vào một đêm gần Trung thu, trăng sáng trên bầu trời, gió mát thổi qua, ánh trăng như thủy ngân đổ xuống mặt đất. Tâm trạng tôi rất tốt, sau bữa tối, tôi đi dạo một mình trên cánh đồng yên tĩnh dưới ánh trăng.

    Đột nhiên, tôi phát hiện phía trước có một bóng dáng mập mạp và tập tễnh. Là nó - Tiểu Huy - người bạn thơ ấu của tôi.

    Trải nghiệm của Tiểu Huy thật bi thảm. Mới vừa hơn hai mươi tuổi đã phải bán thân bất toại, có người nói sở dĩ nó mắc bệnh này là vì quá béo, có người nói nó đột nhiên ngất xỉu khi đang chơi game trên máy tính một cách liều mạng, sau đó đưa đến bệnh viện kiểm tra, mới phát hiện bị xuất huyết não, nên đã được tiến hành phẫu thuật cắt sọ.

    Dù sao thì kể từ đó, nó gần như mất đi khả năng nói, giọng nói mơ hồ không ai hiểu được, đi lại khập khiễng. Cứ như thế, một thanh niên nhiệt huyết, bỗng trở thành phế nhân.

    Tôi không đuổi theo nói chuyện với nó, vì bình thường nó dường như luôn cố ý hoặc vô tình tránh mặt tôi, có lẽ sự sôi nổi và sức khỏe của người bạn thời thơ ấu sẽ kích thích đến nó.

    Cứ như vậy, tôi chỉ đứng phía sau nhìn nó từ xa, than thở về sự vô thường của số phận con người.

    Đột nhiên, tôi cảm thấy có gì đó kỳ lạ - tôi thấy bước đi tập tễnh của nó đột nhiên trở nên rất nhanh, hơn nữa vừa đi vừa rên rỉ, la hét, như thể đang khóc hoặc đang rống giận. Hơn nữa, hướng đi của nó cũng rất lạ - nghĩa địa ở làng chúng tôi.

    Đi nghĩa địa làm gì? Ông bà, cha mẹ của nó đều còn sống khỏe mạnh mà. Tôi vội vàng âm thầm theo dõi nó, để tìm hiểu đến tột cùng.

    Nó khập khiễng đi đến nghĩa địa, dừng lại trước một ngôi mộ và bia mộ, rồi chỉ vào ngôi mộ và bia mộ đó "gầm lên", trong đêm tĩnh lặng, âm thanh đó rất đáng sợ, không có từ ngữ rõ ràng cụ thể, có chăng chỉ là những cảm xúc khó tả.

    Tôi nhìn vị trí ngôi mộ và bia mộ đó, trong lòng rung động dữ dội - đó là mộ của ông Cao!

    Ông Cao đã mất hơn mười năm, tôi nhớ hồi đó xác ông ta đã thối rữa ở trong nhà, nhưng tôi lại nhìn thấy ông ta lúc đang chăn dê bên bờ sông! Sau khi ông ta chết, con mèo quái dị đã đến nhà chúng tôi! Ngoài ra, tôi còn nhìn thấy ông cậu say rượu không biết gì của mình đang cúi chào với con mèo quái dị đó, còn có vài người mặc áo liệm xuất hiện bên cạnh con mèo, những cảnh tượng kỳ lạ về ông Cao chợt hiện lên trong đầu tôi.

    Nhưng tôi không biết tại sao Tiểu Huy lại đến mộ ông Cao hét lớn như vậy. Chẳng lẽ căn bệnh của nó cũng liên quan đến ông Cao? Nhưng làm sao có thể chứ? Nó chỉ mới mắc bệnh trong một hai năm nay thôi mà!

    Tôi nín thở tập trung, nằm trong một con mương cách Tiểu Huy không xa, quan sát cẩn thận cảnh tượng này.

    Tiểu Huy vẫn còn phấn khởi gầm lên, giọng đã có chút khàn khàn. Đột nhiên, có một vật màu đen nhảy ra từ ngôi mộ, đó là một con mèo. Hơn nữa, đó là một con mèo rất to. Con mèo đó quen quá, đúng vậy, chính là con mèo quái dị xuất hiện trong nhà tôi khi tôi còn nhỏ!

    Sau ngần ấy năm, vậy mà nó vẫn còn sống.

    Theo sự xuất hiện của con mèo, tiếng gầm gừ của Tiểu Huy đột ngột dừng lại. Tiếp theo vang lên chính là tiếng cười rùng rợn của con mèo. Tiếng cười này in sâu vào tâm trí và trí nhớ của tôi. Tôi từng nghi ngờ đó chỉ là ảo giác và giấc mơ mà thôi, nhưng, cho đến đêm trăng sáng này, tôi mới nhận ra rằng mọi thứ tôi trải qua thực ra đều không phải là mơ.

    Kế tiếp, có vẻ như con mèo đang cãi nhau kịch liệt với Tiểu Huy, nhưng không ai hiểu được cuộc đối thoại đó - lời nói của Tiểu Huy nghe không giống "tiếng người", bởi vì nó chỉ hét lên một cách mơ hồ, giống như một người câm bị ép đến nóng nảy nhưng không thể nào dùng ngôn ngữ để diễn đạt được.

    Còn tiếng của con mèo đó phát ra cũng hoàn toàn không giống tiếng mèo, mà là một "tiếng người" mơ hồ, nói chính xác hơn là giống giọng của ông Cao.

    Tôi chợt cảm thấy một nỗi tức giận vô cùng: Chính con mèo quái dị này, đã khiến tôi sợ hãi và thấy vô số cơn ác mộng khi còn nhỏ, gây ra rất nhiều bóng ma trong tuổi thơ của tôi. Mà hôm nay, bệnh của Tiểu Huy chắc chắn có liên quan đến con mèo này. Chết tiệt, mặc kệ mày là ai, mặc kệ mày có phải là ông Cao đầu thai hay không, chúng ta không thù không oán. Tại sao mày lại gây tổn hại cho chúng tao như vậy!

    Tôi từ trong mương đứng dậy, tìm thấy một nửa viên gạch trên mặt đất, cầm nó trong tay, rồi cúi xuống, lặng lẽ từ bên cạnh, lợi dụng sự che khuất của những ngôi mộ khác rồi từ từ đến gần con mèo.

    Khi còn cách con mèo khoảng bốn, năm mét, tôi bất ngờ nhảy ra, dùng viên gạch trên tay đập vào con mèo quái dị. Đồng thời, trong miệng hét lớn: "Mẹ kiếp, tao đập chết mày, đồ quái vật."

    Một tiếng kêu chói tai vang lên, như thể viên gạch đã đập vào chân sau của con mèo, nó khập khiễng chui vào mộ ông Cao.

    Tiểu Huy cũng bị cảnh tượng bất ngờ này làm cho sợ đến mức ngồi phịch xuống đất. Tôi vội vàng bước tới, đỡ nó dậy, hỏi nó có ổn không.

    Phải một lúc sau nó mới bình tĩnh lại, rồi dựa vào vai tôi bắt đầu khóc, giống như một đứa trẻ bị tổn thương nặng nề vậy.

    Tôi đau lòng đỡ nó lên, rồi nói với nó: "Tiểu Huy, nói cho mình biết, bệnh của bạn có phải có liên quan đến con mèo đó đúng không? Có phải do nó gây ra không? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?"

    Tiểu Huy càng khóc lớn hơn. Cảm xúc cũng càng kích động, tôi không biết rõ là nó đang gật đầu xác nhận hay lắc đầu phủ nhận.

    Tôi an ủi nó: "Không sao đâu, bạn bình tĩnh trước đã. Đêm đã khuya rồi, mình đưa bạn về nhà nhé."

    Lần này tôi có thể cảm nhận rõ ràng nó đang gật đầu. Tôi đỡ nó, chậm rãi đi về phía làng, trong lòng cảm thấy vô cùng vui mừng, nỗi sợ hãi và u ám đè nén trong lòng nhiều năm dường như đã bị cuốn đi. Quỷ Thần đều sợ kẻ ác, dường như khi đối phó với điều ác thì cần phải lấy ra hết can đảm và dũng cảm, mới có thể khắc phục.

    Sau khi đưa Tiểu Huy về nhà, đêm đó tôi lại không ngủ được.

    Tôi vẫn muốn tìm hiểu rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra với Tiểu Huy? Nếu nó không thể diễn đạt bằng lời thì có lẽ có thể diễn đạt bằng bút mực. Đúng rồi, vậy tôi sẽ để nó viết ra tất cả những gì nó đã trải qua.

    Điều tôi cũng còn tò mò là, tại sao ông Cao sau khi chết lại "tác quái"? Khi ông ta còn sống, chúng tôi vẫn rất tốt với ông ta mà, vậy tại sao sau khi chết lại đến hành hạ chúng tôi như vậy? Mối quan hệ giữa ông Cao và nhà tá điền Cao có con trai bị chó ăn thịt là gì?

    Tôi dùng gạch đập con mèo quái dị gắn bó chặt chẽ với ông ta đó, nó sẽ trả thù tôi như thế nào?

    Tôi lang thang giữa sợ hãi và phấn khích, đã hơn ba giờ sáng mà tôi vẫn không buồn ngủ chút nào. Tôi khoác áo ngồi dậy, dùng dao nhỏ khắc chuôi kiếm gỗ đào.
     
  8. Chương 7: Di ảnh của ông nội

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Có lẽ khoảng ba giờ sáng tôi mới nằm xuống và chìm vào giấc ngủ.

    Tiếng đồng hồ báo thức dồn dập đánh thức tôi khỏi cơn mơ, tôi vội vàng đứng dậy rời khỏi giường, nhanh chóng rửa mặt và đánh răng. Sau đó buồn ngủ đẩy chiếc xe máy ra, mỗi ngày tôi phải cưỡi nó đi làm ở thị trấn cách đó hơn mười cây số.

    Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra nhưng tôi cảm thấy rất chóng mặt, như thể đang say rượu. Trí nhớ của tôi có hơi mơ hồ, cảm giác có hơi mông lung, ý thức cũng có hơi bay bỏng, giống như đang đi trên mây.

    Chiếc xe máy đang chạy rất nhanh trên đường nhựa, không biết tại sao nhưng tôi có cảm giác như chiếc xe máy đang lao đi càng lúc càng nhanh, tôi cảm thấy chân ga bên tay phải đã bị hỏng, tôi nhanh chóng bóp phanh tay trái, nhưng lại không có tác dụng; chân phải của tôi vội đạp phanh chân phía sau, nhưng vẫn không có tác dụng gì cả.

    Tôi thấy kim đồng hồ ở đồng hồ tốc độ trước mặt chỉ 80km, 100km, ? Hóa ra đã càng nhanh, tiếng gió bên tai rít lên, tôi sợ đến mức hét lên, một suy nghĩ rõ ràng hiện lên trong đầu tôi, nếu mọi thứ đã hỏng thì chết chắc.

    Đột nhiên, khi tôi vừa sắp băng qua đường ray xe lửa, một đoàn tàu đúng lúc đang lao vùn vụt tới, nhưng tôi lại không thể nào thắng lại, cho nên đương nhiên đã lao vào gầm tàu với tốc độ rất cao.

    Trước mắt tôi tối sầm lại, tôi cảm thấy cơ thể mình như bị tàu hỏa nghiền nát, tôi hét lên, chợt tỉnh dậy, hóa ra chỉ là một cơn ác mộng!

    Sự đau đớn, sợ hãi và buồn bã tột độ khiến tôi toát mồ hôi lạnh, may thay đó chỉ là một giấc mơ.

    Tôi không bật đèn, bên ngoài trời vẫn tối đen, tôi nhìn đồng hồ thì thấy mới chỉ khoảng bốn giờ bốn mươi. Tôi ổn định tâm trạng, trở mình muốn ngủ tiếp một lát, dù sao tôi còn có cả trăm ngày làm việc, chỉ ngủ một hai tiếng cũng được.

    Nhưng tôi làm sao cũng không thể ngủ được nữa.

    Đột nhiên, tôi nghe thấy tiếng xoảng ở phòng ngoài, như thể có thứ gì đó bị vỡ. Tôi cũng bị âm thanh bất ngờ đó làm cho sợ hãi, tim tôi như co rút lại.

    Cha mẹ tôi đang ở một sân khác, nhưng tôi chỉ có một mình trong sân nơi tôi ở, trong buổi rạng sáng vô cùng yên tĩnh này, sau một cơn ác mộng khủng khiếp, khả năng chống lại nỗi sợ hãi của trái tim tôi trở nên rất yếu. Tôi đứng dậy khỏi giường, run rẩy một chút, không biết là vì lạnh hay vì sợ hãi mà cảm thấy mình run rẩy dữ dội. Bật đèn lên, tôi chộp lấy một chiếc rìu, đi ra gian ngoài để xem đến tột cùng chuyện gì đang xảy ra.

    Khi đèn ở gian ngoài bật lên, tôi mới phát hiện ra, hóa ra là bức di ảnh của ông nội tôi treo trên tường đã rơi xuống, đập vào gương trước xe máy. Tấm gương đã bị đập vỡ, cán gương cũng bị đập quẹo xuống. Không chỉ vậy, tấm chắn bùn trước và đèn của xe máy cũng bị đập nát.

    Mặt kính trên bức di ảnh của ông nội cũng bị vỡ vụn trên sàn nhà. Tôi không lo lắng kiểm tra tình hình chiếc xe máy thế nào, mà lập tức đi tới nhặt bức di ảnh của ông nội lên, cẩn thận giũ bỏ mảnh kính vỡ còn sót lại trên đó, may mắn là di ảnh của ông nội không bị hư hại gì, chỉ có tấm kính trên khung bị vỡ mà thôi.

    Ông nội tôi đã qua đời năm ngoái, tuy ông vẫn luôn sống ở nhà chú tôi, nhưng mối quan hệ của chúng tôi luôn rất sâu sắc, ông rất yêu quý tôi, đứa cháu trai duy nhất này, mà chú tôi chỉ sinh được một cô con gái, xét thấy chú tôi là công chức, cho nên muốn sinh thêm đứa thứ hai gần như là không thể.

    Ông nội tôi có tư tưởng trọng nam khinh nữ cực kỳ điển hình, ông thường nói với cha và chú: "Dòng họ chúng ta từ trước đến nay con cháu thưa thớt, nhưng không ngờ đến thế hệ chúng mày lại càng tồi tệ hơn, thành nhất mạch đơn truyền*. Nhưng cũng may còn có một đứa cháu trai quý giá như vậy, nếu không đúng là phải" Đoạn tử tuyệt tôn ", như vậy thì tao thật sự là chết không nhắm mắt."

    *nhất mạch đơn truyền: Cả dòng họ chỉ có một đứa nối dõi duy nhất

    Ông còn thường nói: "Tao có bất cứ lo lắng hay rắc rối nào, chỉ cần nhìn thấy đứa cháu yêu quý của tao một lần, thì chuyện gì cũng biến mất." Tôi quả thực là hòn ngọc quý trên tay ông nội.

    Lúc ông nội tôi qua đời, tôi đã tan nát cõi lòng khóc ròng rã một ngày, giọng tôi khàn đến mức không còn phát ra được âm thanh nào nữa, cuối cùng không thể không tiêm thuốc mới chìm vào giấc ngủ.

    Tôi phóng to bức ảnh của ông nội khi ông còn sống, đặc biệt đặt làm một khung ảnh lớn rồi treo lên tường ở cửa chính của nhà chính, cha mẹ và chú tôi đều phản đối tôi làm như vậy, họ nói như thế này sẽ làm ngôi nhà giống như một linh đường, nhưng tôi hoàn toàn phớt lờ những lời họ nói, tôi chỉ cảm nhận được ánh mắt yêu thương của ông nội khiến tôi cảm thấy ấm áp, cũng rất an toàn. Mỗi lần nhìn thấy hình ảnh của ông, trong lòng tôi lại có một dòng nước ấm dâng lên.

    Tôi đau lòng nhặt di ảnh của ông nội lên, rồi nhẹ nhàng đặt nó lên bàn, thầm nghĩ hôm nay sẽ đến một studio ảnh trong thành phố để đặt một khung ảnh.

    Sau đó tìm một cây chổi và quét những mảnh kính vỡ dưới đất. Khi đang quét kính, tôi chợt nhận ra điều gì đó, mà điều này khiến tôi rùng mình bởi vì nhận ra rằng chiếc xe máy cũng không đặt sát bức tường! Nó cách bức tường ít nhất hai mét! Vậy tại sao bức di ảnh treo trên tường lại nện vào nó, cho dù bức di ảnh có trượt khỏi tường thì khung ảnh cũng chỉ chạm đất dưới chân tường, làm sao có thể nện vào một chiếc xe máy cách tường hơn hai mét?

    Chẳng lẽ là bức di ảnh của ông nội đang nhắc nhở tôi về điều gì đó? Chợt nghĩ đến cơn ác mộng vừa tỉnh dậy, tôi bỗng như hiểu ra điều gì đó!

    Tôi vội vàng kiểm tra phanh tay và phanh chân của xe máy thì quả nhiên là hỏng hết! Tình huống tương tự như trong giấc mơ! Chắc chắn không phải là do di ảnh đập xuống gây ra, bởi vì di ảnh hoàn toàn không hề nện vào chỗ phanh tay chứ đừng nói đến phanh chân phía sau. Tức là những bộ phận này đã bị hư hại trước khi bị bức di ảnh nện vào. Nhưng hôm trước tôi về thì mọi thứ của xe vẫn bình thường mà!

    Có phải ông nội đang nhắc nhở tôi không?

    Đối diện với bức di ảnh trên bàn, tôi chợt quỳ xuống đất, không khỏi nghẹn ngào bật khóc.
     
  9. Chương 8: Bí tịch trừ tà

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Điều đáng sợ nhất trên thế giới là gì? Là gặp nguy hiểm, nhưng bạn không biết nguy hiểm đến từ đâu.

    Niềm vui sướng và dũng khí mà tôi cảm nhận được khi đập con mèo quái dị trong nghĩa địa nhanh chóng bị thay thế bởi nỗi sợ hãi tột độ, thậm chí tôi còn hơi hối hận, đúng lý mình không nên xúc động như vậy. Nếu là một "người" muốn trả thù tôi, âm mưu hãm hại tôi, tôi vẫn có thể đề phòng và cẩn thận, nhưng hiện tại người muốn hãm hại tôi lại là một lực lượng thần bí và còn tà ác như vậy. Tôi nên đối phó thế nào? Tôi thực sự không biết. Lần đầu tiên tôi cảm thấy mình yếu ớt như thế, yếu ớt đến mức không chịu nổi một đòn.

    Cuối cùng, sau khi thức đến tận bình minh, tất nhiên tôi không có tâm trạng đi làm nên đã gọi điện xin nghỉ bệnh. Tôi cũng không kể với cha mẹ về trải nghiệm kỳ lạ vào ban đêm vì sợ họ sẽ lo lắng. Tôi ở nhà cả ngày, ôm chặt di ảnh của ông nội, thầm cầu nguyện linh hồn ông trên trời có linh thiêng có thể bảo vệ tôi. Di ảnh của ông nội đã trở thành niềm an ủi duy nhất của tôi.

    Tôi thừa nhận sự hèn nhát của mình, bởi vì tôi thực sự không muốn chết, cũng vào đêm đó, tôi đã dũng cảm đi đến mộ ông Cao, quỳ xuống và cầu xin ông ta tha thứ cho sự vô tri của tôi, tôi không nên đập con mèo gắn bó chặt chẽ với ông ta. Giống như cầu xin một tên trùm xã hội đen tha thứ vậy, xin ông ta đừng chấp nhặt với tôi, đừng đến trả thù tôi nữa. Tất cả là lỗi của tôi.

    Sau khi làm xong những điều này, trong lòng tôi mới cảm thấy yên ổn hơn một chút.

    Đêm hôm đó, tôi bắt đầu tìm kiếm trên mạng nhiều đối sách và phương pháp khác nhau về cách đối phó với "quỷ" cùng với cách xua đuổi tà ma. Tuy nhiên, tôi không thực sự tin tưởng lắm vào các phương pháp của người hiện đại, vì tôi cho rằng tất cả đều là tin đồn, chắc chắn sẽ không có hiệu quả.

    Cuối cùng, tôi tìm thấy một cuốn sách về "Ngự Quỷ Thuật" nói là được viết vào thời nhà Đường. Chẳng phải cuốn "Thôi Bối Đồ" nổi tiếng được cho là đã tiên đoán chính xác những sự kiện lịch sử quan trọng xảy ra ở Trung Quốc hơn một nghìn năm cũng được viết vào thời nhà Đường sao? Nó cho thấy thời đại đó hẳn là thời kỳ phát triển đỉnh cao của huyền học. Vì vậy tôi đã đọc nó một cách cẩn thận.

    Trong sách có rất nhiều cách xua quỷ, trừ ma, một trong những phương pháp quan trọng mà tôi cảm thấy rất mới lạ là "Đôn Luân", "Đôn Luân" là gì? Trong tiếng địa phương, nó có nghĩa là "làm chuyện yêu".

    Dùng làm chuyện yêu để xua đuổi ma quỷ? Nguyên lý là gì? Trong sách giải thích rằng, quỷ thật ra là "tà khí", khi "tà khí" này tích tụ đến mức lớn sẽ biến thành quỷ. Nếu âm khí quá mạnh hoặc dương khí quá mạnh, đều sẽ mất cân bằng và sinh ra tà khí, mà nếu tà khí tích tụ thì sẽ sinh ra ma quỷ. Lúc nam nữ đang "Đôn Luân", đó là lúc âm dương khí hòa hợp nhất, cũng là lúc có khả năng chống lại tà khí tốt nhất.

    Trùng hợp thay, có một cuốn sách vào thế kỷ 18 của một học giả người Mỹ viết về các hiện tượng siêu nhiên cũng đề cập đến việc sử dụng việc nam nữ làm chuyện yêu để đối phó với các oan hồn trong lâu đài cổ. Chẳng qua, người nước ngoài không đề cập đến âm dương khí, mà cho rằng trong thần thoại Hy Lạp, thần chiến tranh Ares đã kết hôn với nữ thần sắc đẹp Aphrodite và sinh ra nữ thần hòa hợp Harmonia. Giải thích nó từ góc độ văn hóa Trung Quốc: Thần chiến tranh tượng trưng cho Dương Khí, còn nữ thần tượng trưng cho Âm Khí, một khi cả hai giao nhau sẽ "hòa hợp". Điều này không khác gì nguyên lý mà tổ tiên chúng tôi đã dạy!

    "Cuốn sách siêu nhiên" của Mỹ thế kỷ mười tám này cũng đề cập đến trường hợp một cặp tình nhân trẻ thích khám phá những lâu đài bị ma ám, họ có thể an toàn mà không hề hấn gì ngay cả trong những lâu đài đáng sợ nhất. Trong lúc nhiều nhà thám hiểm khác một là chết thảm, hai là phát điên khi trải nghiệm những lâu đài "ma ám" dữ dội nhất này. Cuối cùng, cặp đôi này đã tiết lộ "phương pháp diệt ma" của mình đó là dùng chuyện mây mưa để đối phó với các hồn ma vào lúc nửa đêm, thời điểm ma khí thịnh vượng nhất.

    Lúc ấy, khi nhìn thấy đoạn này, trong lòng tôi còn nghĩ, trong tình huống như vậy mà còn có thể làm được sao?

    Nhưng mà khi tuyệt vọng thì cái gì cũng có thể thử, phương pháp này cũng có thể thử lắm chứ, tôi có nên tìm một người phụ nữ để "hòa hợp" không nhỉ? Tôi cảm thấy việc mình đang làm có chút hoang đường, nhưng mọi chuyện xảy ra với tôi chẳng phải cũng là "hoang đường" sao? Thế giới này vốn có một mặt rất hoang đường và rất không thể tưởng tượng được.

    Chết tiệt, hơi đâu quan tâm nhiều như vậy, cứ quyết định như vậy đi, tìm một người phụ nữ thử xem. Nhưng tìm ai đây? Đột nhiên, một ứng cử viên rất phù hợp hiện lên trong đầu tôi: Chị Lý làm cùng văn phòng.

    Chị Lý ba mươi lăm tuổi, nghe nói chị ấy đã từng kết hôn, nhưng vì chị ấy ngoại tình, chồng chị ấy không chịu nổi nên đã ly hôn. Chị ấy có ngoại hình trung bình nhưng lại có dáng người khá đẹp, vòng eo thon, vòng mông tròn, trước tấn công sau phòng thủ, dáng người nóng bỏng.

    Thực ra chị Lý cũng không phải là một phụ nữ lăng loàn, chị ấy là một người rất có lý tưởng, bình thường thích đọc sách, cũng rất thông minh, rất hiểu biết, rất văn chương, rất độc lập, cũng là một phụ nữ rất tư sản. Thực lòng mà nói, tôi luôn có ảo tưởng với chị ấy, nhưng mà do luôn có ác ý nhưng lại không có dũng khí, sau lần "biến cố sinh tử" lớn này, tôi chợt cảm thấy sự xấu hổ đó thực sự không cần thiết, so với sự sống chết, mọi thứ khác chỉ là chuyện nhỏ. Hơn nữa, xét về ngoại hình thì tôi khá tốt, chị Lý luôn có cảm tình tốt với tôi.

    Làm thế nào để bắt đầu đây? Tôi quyết định viết ra tất cả những cuộc gặp gỡ kỳ lạ của mình rồi gửi chúng qua email đến hộp thư của chị Lý. Tôi nhớ đêm hôm đó, mình đã viết đến khoảng 2 giờ sáng.

    Bởi vì tôi đã nghỉ bệnh hai ngày, cho nên sau khi gửi email cho đến ngày thứ ba, tôi mới đến văn phòng đi làm. Trong lòng tôi thực ra cũng không lo lắng lắm, vì trong tin nhắn, tôi cũng không đề cập đến việc cùng làm chuyện yêu với chị ấy để "tránh tà ma", vì tôi sợ chị ấy sẽ cho rằng tôi đang giở trò lưu manh.

    Nhưng mà, khi nhìn thấy chị Lý ở văn phòng, tôi vẫn cảm thấy hơi mất tự nhiên. Ban đầu trong văn phòng có ba người, chẳng qua người còn lại đang đi công tác, cho nên chỉ còn lại tôi và chị Lý. Khi chị Lý nhìn thấy tôi, chị ấy cũng không có biểu hiện gì bất thường, vẫn chào hỏi, trò chuyện như trước, hỏi tôi đã khỏi bệnh chưa. Lòng tôi dịu đi đôi chút, nhưng không khỏi băn khoăn: "Chẳng lẽ chị Lý không xem email tôi gửi sao?"

    Khi công việc bận rộn, tất cả những điều lộn xộn này tạm thời bị lãng quên.

    Cho đến trưa, sau bữa trưa, chúng tôi trở lại văn phòng, khi tôi đang ngồi thẫn thờ tại chỗ, chị Lý đột nhiên cầm tách trà đi tới với "nụ cười xấu xa" trên mặt, vòng ba gợi cảm của chị ấy tựa vào bàn làm việc của tôi, những đường cơ bụng và đôi chân quyến rũ trong chiếc quần jean vừa vặn cũng như hương thơm cơ thể hấp dẫn khiến tim tôi đập loạn xạ.

    Chị ấy mỉm cười và thấp giọng hỏi tôi: "Cậu chuyển sang viết tiểu thuyết kinh dị từ khi nào vậy?" Lời này vừa nói ra, tôi biết chị ấy chắc chắn đã đọc email đó. Không biết vì sao, đột nhiên tôi cảm thấy muốn khóc. Chị ấy là người duy nhất trên thế giới biết những trải nghiệm bí ẩn nhất và kinh khủng nhất của tôi. Cảm giác này giống như một đứa trẻ bị đối xử quá tệ, đang cố kìm tiếng khóc nhưng ngay khi mẹ vừa xuất hiện, thì lập tức sẽ bật khóc. Bản chất làm mẹ ở phụ nữ sẽ khơi dậy cảm giác muốn khóc ở đàn ông.

    Tôi thực sự không thể cầm được nước mắt nữa, chúng bắt đầu chảy xuống như những hạt cườm vỡ.

    Chị Lý không ngờ tôi sẽ khóc, nhìn thấy phản ứng của tôi, chị ấy không khỏi hoảng sợ, lắp bắp hỏi: "Cậu sao vậy, tôi, tôi đã nói gì sai à?"

    Tôi không trả lời ngay mà vùi mặt vào đùi chị ấy, dùng tay nắm lấy tay chị ấy, tôi càng khóc to hơn, chỉ là cố gắng không khóc thành tiếng.

    Chị ấy không đẩy tôi ra mà dùng một tay xoa đầu tôi, nhẹ nhàng hỏi: "Đã xảy ra chuyện gì vậy, đừng giữ trong lòng, hãy nói cho chị biết đi."

    Tôi ngước khuôn mặt đầy nước mắt lên, nhìn chằm chằm vào mắt chị ấy với thái độ cực kỳ nghiêm túc và nói: "Tôi muốn nói với chị, đó không phải là tiểu thuyết kinh dị, mà là tất cả những gì tôi thực sự đã trải qua, chị có tin không?"

    Chị Lý đưa tay chạm vào trán tôi, vẫn vẻ mặt vô cùng nghi hoặc nói: "Cậu không sao chứ, cũng không bị sốt."

    Tôi chỉ bất đắc dĩ đáp lại, có chút hụt hẫng: "Đó là sự thật, tôi sẽ chứng minh cho chị thấy."

    Chị Lý vẫn có chút nghi ngờ đáp lại: "Được rồi, ngược lại tôi cũng muốn biết trên đời này có những thứ kỳ lạ mà cậu nhắc tới hay không."

    Tôi biết có tiếp tục giải thích cũng vô ích, tôi chỉ có thể tìm cách chứng minh cho chị Lý thấy, nhưng chứng minh bằng cách nào đây?
     
  10. Chương 9: Chuyện yêu và dương khí

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mấy ngày nay tôi đã suy nghĩ rất nhiều - làm thế nào để chứng minh cho chị Lý rằng mọi điều tôi viết trong email đều là sự thật? Những lúc bất lực, tôi ước gì có ai đó - đặc biệt là người phụ nữ như chị Lý - cùng tôi đối mặt với điều đó.

    Trong những ngày này, tôi thường kể cho chị Lý nghe về tất cả những trải nghiệm của mình, tất nhiên là khi chúng tôi ở một mình. Chị Lý thấy tôi trông không có vẻ điên rồ nên chị ấy từ từ bắt đầu lắng nghe cẩn thận.

    Trong thời gian đó, tôi cũng ngừng đi làm bằng xe máy, mà chuyển sang đi xe đạp. Bởi giấc mơ khủng khiếp đó đã để lại một cái bóng sâu thẳm trong lòng tôi. Lỡ như một ngày nó thực sự xảy ra như trong giấc mơ của tôi, phanh tay và phanh chân của chiếc xe máy đột nhiên bị hỏng một cách khó hiểu, lúc đó tôi sợ mình sẽ chết thảm trong một vụ tai nạn xe cộ.

    Tôi không đủ can đảm để khám phá những điều kỳ lạ đã xảy ra với Tiểu Huy, mặc dù nó còn tệ hơn tôi. Tôi là Bồ Tát bằng đất qua sông, bản thân còn không thể tự cứu mình, tôi thừa nhận mình rất ích kỷ nhưng tôi cũng thực sự không có năng lực.

    Trong thời gian đó, mối quan hệ của tôi với chị Lý dần trở nên thân thiết hơn, có khi tan làm, còn cùng nhau đi ăn, rồi mạnh ai nấy về.

    Nhưng ban đêm tôi vẫn gặp ác mộng, còn thường xuyên trong mơ bừng tỉnh.

    Không biết tại sao, những trận mưa mùa thu năm đó đặc biệt lớn, hết trận này đến trận khác. Thông thường, lượng mưa nhiều nhất là vào mùa hè, các cụ đều nói, đây là lần đầu tiên trong niên kỷ của họ, gặp phải trận mưa lớn như vậy vào cuối thu.

    Trời mưa to như thế, tôi đi làm đương nhiên cũng bị ảnh hưởng. Cũng chính trong thời tiết u ám đó, mà những sự việc kỳ lạ lại xảy đến với tôi.

    Tôi nhớ hôm đó là chiều tối thứ sáu, lúc tan làm, thì trời lại mưa như trút nước, tôi cảm thấy không thể nào về nhà, may thay, có một khách sạn cạnh nơi làm việc của tôi, thế là tôi thuê một phòng ở đó.

    Chiều hôm đó, không biết tại sao, tôi đột nhiên cảm thấy rất mệt mỏi, toàn thân chẳng còn chút sức lực nào, không muốn nghĩ gì khác ngoài ngủ. Hôm trước tôi cũng không thức khuya mà, hơn nữa buổi sáng còn tràn đầy năng lượng, sao buổi chiều lại đột nhiên cảm thấy mệt mỏi buồn ngủ như vậy nhỉ? Tôi cắn răng chịu đựng cho đến khi tan sở, lê tấm thân mệt mỏi vô cùng, đi đến khách sạn đặt phòng, vào phòng xong tôi ngã xuống giường, liền chìm vào giấc ngủ sâu, ngay cả giày cũng không kịp cởi.

    Trong giấc mơ, tôi như bị rơi xuống một vực thẳm khủng khiếp. Và trong thế giới tối tăm, lạnh lẽo, đáng sợ đó, tưởng chừng như luôn có người lao vào làm tổn thương tôi, nhưng lại có một bóng dáng quen thuộc vẫn luôn cố gắng bảo vệ tôi. Đúng vậy, bóng dáng quen thuộc đó chính là ông nội.

    Ông la lên điên cuồng với những người muốn làm hại tôi, như thể muốn dọa họ bỏ chạy. Thỉnh thoảng, còn vật lộn đánh nhau với họ. Tôi chỉ cảm thấy trong thế giới đen tối đó, tôi chỉ là một làn khói bay trong gió, không có chút sức lực nào để chống trả, chỉ có thể sợ hãi trốn sau lưng ông nội, mặc cho ông chật vật tả xung hữu đột*.

    *Tả xung hữu đột: Xông bên trái đánh bên phải, ý nói chống đỡ đủ mọi phía, đánh rất hăng hái.

    Trong lúc mơ màng, bỗng nhiên giấc mơ của tôi chợt thay đổi, tôi như nhìn thấy ông nội đang co ro trong góc một ngôi nhà đổ nát, khắp người đầy thương tích, mái tóc rối bù, ông đang run rẩy trong mưa gió lạnh lẽo bên ngoài, hình như trong nhà đã bị dột. Ông chợt ngẩng đầu lên nhìn tôi, ánh mắt vẫn hiền lành như vậy nhưng cũng đầy nỗi ưu thương và đau khổ, khiến tôi cảm thấy đau lòng.

    Đột nhiên môi ông mấp máy, như đang nói gì với tôi, nhưng tôi không nghe được, tôi hét lớn: "Ông ơi, ông đang nói cái gì vậy? Cháu không nghe rõ, ông có thể nói to hơn được không?"

    Ông có vẻ cũng rất lo lắng, cố gắng nói to nhưng tôi vẫn không nghe thấy. Trong tiếng kêu lo lắng đó, tôi tỉnh dậy!

    Đèn trong phòng không bật, mưa bên ngoài hình như đã tạnh, một tia ánh trăng từ cửa sổ xuyên vào, rơi xuống đầu giường, mọi thứ dường như thật yên tĩnh và bình yên.

    Tôi không biết mình đã ngủ bao lâu, mò mẫm bật đèn đầu giường nhìn đồng hồ, đã hơn mười một giờ tối. Lúc này tôi mới cảm thấy quần áo mình ướt đẫm mồ hôi, vội vàng đứng dậy, cởi quần áo rồi đi tắm nước nóng thật nhanh. Cơ thể cũng cảm thấy nhẹ nhàng hơn rất nhiều, không còn cảm thấy buồn ngủ nữa.

    Đột nhiên tôi muốn gọi điện cho chị Lý, rất muốn chị ấy qua đây ở cùng tôi, chắc lúc này chị ấy chưa ngủ, huống hô chi nhà chị ấy cũng ở gần đây. Đầu tiên tôi nhắn tin thăm dò một chút, chị ấy quả nhiên chưa ngủ, cũng bằng lòng đến, còn yêu cầu tôi gửi cho chị ấy số phòng.

    Tim tôi đập dữ dội, chẳng qua lần này không phải vì sợ hãi.

    Khoảng hơn hai mươi phút sau, tôi nghe thấy tiếng gõ cửa nhẹ, chị ấy đã đến rồi! Tôi cố gắng bình tĩnh lại cảm xúc của mình, bước tới mở cửa, chính là chị Lý!

    Phần thân dưới của chị ấy đang mặc một chiếc quần jean rất bó, lộ ra cái mông tròn trịa và đầy đặn, vòng eo mảnh khảnh và đôi chân thon dài, dưới lớp quần jean bó sát trông càng hấp dẫn, toát lên vẻ gợi cảm đặc trưng của một người phụ nữ thành thục. Phần thân trên là một chiếc áo len bó sát, làm nổi bật phần đồi núi phập phồng của chị ấy.

    Nội tiết tố của tôi ngay lập tức tăng vọt, một số cơ quan trong cơ thể cũng trở nên hùng tráng hơn. Tôi ôm chặt chị Lý, thèm khát ngửi mùi hương nữ tính của chị ấy.

    Chị Lý không hề giãy dụa mà ôm lại tôi rất nồng nhiệt, vốn là một cái ôm an ủi, lại bỗng trở nên khiêu gợi.

    Chị ấy ôm tôi vào lòng, nhẹ nhàng hỏi bên tai tôi: "Có phải lại gặp ác mộng không?"

    Tôi không trả lời, chỉ gật đầu thật mạnh.

    Chúng tôi không còn giao tiếp bằng lời nói nữa, mà là bằng thể xác.

    Chúng tôi vặn vẹo thân thể như hai con rắn trên giường, đói khát đến mức ngay cả giày cũng không kịp cởi, lưỡi và môi chúng tôi trêu đùa và cọ xát trong miệng nhau một cách thèm khát vô cùng.

    Khi chúng tôi ngồi dậy, háo hức cởi bỏ quần áo, nhưng lúc chuẩn bị thân mật triền miên, tôi chợt nhìn thấy một sợi tóc hoa râm trên tủ đầu giường, hình như vẫn còn ướt! Tôi không khỏi nghĩ đến giấc mơ kì lạ vừa rồi.

    Thấy tôi ngơ ngác, chị Lý liền ôm tôi vào lòng một cách nhẹ nhàng nhưng mạnh mẽ, hỏi tôi có chuyện gì vậy. Tôi vùi đầu thật sâu vào đồi núi đầy đặn của chị ấy, kể cho chị ấy nghe về giấc mơ kỳ lạ vừa rồi.

    Chị Lý nghe xong không lên tiếng ngay, suy nghĩ một lúc mới nói: "Bây giờ có muốn đến chỗ mộ ông nội của cậu không?"

    "Bây giờ, hiện tại đang là nửa đêm, chị không sợ sao?" Tôi hỏi.

    "Đương nhiên là sợ, nhưng càng sợ, đôi khi lại càng cảm thấy phấn khích. Giống như ăn đồ cay vậy, phải cay đến mức đổ mồ hôi đầm đìa mới cảm thấy thoải mái."

    Mặc dù tôi không nghĩ cách nói ẩn dụ này của chị Lý là rất phù hợp, nhưng tôi hiểu ý của chị ấy. Một người phụ nữ táo bạo và dũng cảm có một kiểu gợi cảm khác, mà chị Lý cũng có khía cạnh như vậy.

    "Nó giống như một cuộc thám hiểm phải không?" Tôi hỏi.

    "Ừm". Chị Lý gật đầu đồng ý.

    Tôi đột nhiên xoay người, đè chị Lý xuống dưới, bên dưới của tôi cách qua quần áo áp sát vào chị ấy, tôi trêu chọc nói: "Hay sau khi xong việc hãy đi? Tôi không thể nhịn được nữa."

    Chị Lý cũng ôm tôi thật chặt, sau đó dùng răng cắn nhẹ tai tôi, nhẹ nhàng nói: "Tôi cũng vậy, nhưng trước đó chúng ta không phải đã bàn bạc kỹ rồi sao? Thời điểm dục vọng được kích hoạt chính là lúc dương khí mạnh nhất, đừng quên, cuộc thám hiểm hôm nay của chúng ta cần dương khí bảo vệ nhất, chờ khi trở về chúng ta có thể làm lại."

    Tôi cảm thấy chị ấy nói rất đúng. Vì thế tôi nhanh chóng đứng dậy, chỉnh sửa lại quần áo. Ham muốn của tôi vẫn rất mãnh liệt, có lẽ chị ấy cũng vậy, trong trạng thái tinh thần này, tôi chợt cảm thấy nỗi sợ hãi sâu thẳm trong lòng quả thực đã trở nên rất yếu ớt. Chúng tôi sắp xếp đồ đạc, chuẩn bị đến nghĩa địa kinh hoàng vào lúc nửa đêm trăng sáng này, để khám phá một thế giới bí ẩn nhất khác.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...