Bài thơ: Cổng làng Tác giả: Bàng Bá Lân Thể thơ: Lục bát Thời kỳ: Hiện đại Chiều hôm đón mát cổng làng, Gió hiu hiu đẩy mây vàng êm trôi Đồng quê vờn lượn chân trời, Đường quê quanh quất bao người về thôn. Sáng hồng lơ lửng mây son, Mặt trời thức giấc véo von chim chào. Cổng làng rộng mở. Ồn ào, Nông phu lững thững đi vào nắng mai. Trưa hè bóng lặng nắng oi, Mái gà cục cục tìm mồi dắt con. Cổng làng vài chị gái non Dừng chân uể oải chờ cơn gió nồm. Những khi gió lạnh mưa buồn, Cổng làng im ỉm bên đường lội trơn, Nhưng khi trăng sáng chập chờn, Kìa bao nhiêu bóng trên đường thướt tha. Ngày mùa lúa chín thơm đưa, Rồi Đông gầy chết, Xuân chưa vội vàng. Mừng xuân ngày hội cổng làng, Là nơi chen chúc bao nàng ngây thơ. * Ngày nay dù ở nơi xa, Những khi về đến cây đa đầu làng; Thì bao nhiêu cảnh mơ màng, Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre. Cảm nhận: Bài thơ này ghi lại một cách tuyệt đẹp những mùa thay đổi và nhịp điệu của cuộc sống làng quê. Hình ảnh gợi lên cảm giác hoài niệm mạnh mẽ, đưa người đọc qua những cảnh sống động của các hoạt động hàng ngày và thế giới tự nhiên. Từ những buổi sáng nhộn nhịp tràn ngập âm thanh của những người nông dân và tiếng chim hót cho đến những buổi chiều yên tĩnh và sự tĩnh lặng của những ngày mưa, mỗi khoảnh khắc đều phản ánh mối liên hệ với vùng đất và cộng đồng. Cổng làng đóng vai trò là biểu tượng của cả lối vào và ký ức, đánh dấu sự trôi qua của thời gian và niềm vui khi trở về nhà. Sự tương phản giữa những cảnh sống động của mùa hè và sự tĩnh lặng của mùa đông làm nổi bật bản chất tuần hoàn của cuộc sống, trong khi việc đề cập đến những cuộc tụ họp vô tư trong các lễ hội làm tăng thêm sự ấm áp và lễ kỷ niệm cho cảnh quan. Nhìn chung, bài thơ vẽ nên một bức tranh sống động về sự giản dị và vẻ đẹp tìm thấy trong cuộc sống nông thôn, mời gọi người đọc suy ngẫm về những ký ức của riêng họ về quê hương. Tác giả: Bàng Bá Lân (17/12/1912 - 20/10/1988) tên thật là Nguyễn Xuân Lân, là nhà thơ, nhà giáo, và là nhà nhiếp ảnh Việt Nam. Ông là người ở làng Đôn Thư (tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam), nhưng sinh ra ở phố Tân Minh, phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang. Năm 1916-1918, ông theo cha mẹ lên sống ở Vôi rồi ở Kép thuộc tỉnh Bắc Giang. Năm 1920-1928, ông sống với bà nội ở Đôn Thư, sau đó lại về Kép, học trường tiểu học Pháp-Việt ở Phủ Lý, phủ Lạng Thương và đỗ bằng tiểu học Pháp-Việt ở Đáp Cầu. Năm 1929-1933, ông vào học trường trung học Bảo hộ (trường Bưởi), đỗ bằng thành chung. Vì thi tú tài mấy lần không đỗ, năm 1934 ông về Kép vui thú điền viên, làm thơ, chụp ảnh và xuất bản tập thơ đầu tiên Tiếng thông reo . Trước Cách mạng tháng Tám ông đã có những tác phẩm Tiếng thông reo (1934), Xưa (in chung với nữ sĩ Anh Thơ, 1941), Tiếng sáo diều (1939-1945). Vào Sài Gòn, ông dạy học và cộng tác với nhiều nhật báo, tuần san, bán nguyệt san và xuất bản thêm Để hiểu thơ (1956), Thơ Bàng Bá Lân (1957), Tiếng võng đưa (1957). Năm 1969, xuất bản các tập truyện Người vợ câm, Vực xoay, Gàn bát sách (phiếm luận) và tập thơ Vào thu . Ông cũng cho in hai quyển sách Kỷ niệm văn, thi sĩ hiện đại cùng một số sách giáo khoa Việt văn cho nhiều cấp lớn. Ông còn đứng làm chủ bút tập san Bông lúa vào thập niên 1950 ở Sài Gòn. Từ 1977 đến 1984, Bàng Bá Lân viết thêm Kỷ niệm văn, Thi sĩ hiện đại quyển 3, hồi ký Trọn đời cho thơ (bản thảo đã thất lạc). Ngoài ra, ông còn viết truyện ký danh nhân Anh em Lumière, ông tổ nhiếp ảnh, viết sách bình khảo, dịch truyện, dịch thơ v. V.. Trong lĩnh vực nhiếp ảnh, Bàng Bá Lân cũng tỏ ra là một người có tài năng. Ông từng đoạt những giải thưởng, như: Giải Agfa-Việt báo (Hà Nội, 1937), giải nhì cuộc thi ảnh tạo phủ Thống sứ Bắc Kỳ (1938), huy chương của La Revue Francaise de Photographie et de Cinématographie (tạp chí nhiếp ảnh và điện ảnh Pháp) ở Paris (1939), giải thưởng Ferrania (1953), giải thưởng Triển lãm Tuần lễ Văn nghệ Sài Gòn (1955).. Các tác phẩm nhiếp ảnh của ông từng được triển lãm ở Hội quán Hội Trí tri, (Hà Nội, 1939), Bologna (Ý, 1952), Antwerpen (Bỉ, 1953), Paris (Pháp, 1953), Singapore (1953), Cuba (1954), Rochester (Mỹ, 1956).. Ông mất năm 1988 tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ khoảng 75 tuổi. Tác phẩm: - Tiếng thông reo (1934) - Xưa (1941) - Thơ Bàng Bá Lân (1957) - Tiếng võng đưa (1957) - Vào thu (1969)