Trong kho tàng văn học trung đại nước ta không hiếm để bắt gặp những bài thơ hay hào khí của các vị anh hùng bày chí tỏ lòng với giang sơn đất nước. Bài thơ 'Thuật hoài ' của Phạm Ngũ Lão - một vị tướng thời Trần là bài thơ thấm đẫm tính thời đại và tính dân tộc. Bài thơ là một bức tranh chân thực vềthời đại về các vị anh hùng oanh liệt với những chiến công lừng lẫy và bao chứa những cảm xúc của tác giả trào dâng trước sức mạnh của dân tộc và của thời đại Mở đầu bài thơ tác giả đã khác họa hình ảnh người lính đẹp đẽ, đúng hùng dũng hiên ngang trước giang sơn rộng lớn. Ngọn giáo trong tay của người lính được đo bằng chiều dài của thời gian và chiều rộng của không gian vô tận. Người lính trở lên kì vỹ sánh ngang với vẻ đẹp của thiên nhiên, cầm giáo cũng là tư thế sẵn sàng chiến đấu để bao vệ giang sơn xã tắc. "Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu" Dịch nghĩa: ' Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu ' Người lính đứng canh giữ đất nước đã qua mấy mùa thu. Thời gian trôi nhưng tinh thần vẫn vững vàng, vẫn luôn tỉnh táo sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng xung trận. Câu thơ ta còn hiểu theo nghĩa ẩn dụ đó chính là là hình ảnh tác giả một vị tướng giá tận tụy luôn sẵn sàng luôn công hiến, tận tụy vì dân vì nước. Câu thơ ở phần dịch nghĩa là 'Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu ' chưa lột tả hết được tinh thần của câu thơ. Tác giả Phạm Ngũ Lão đã sử dụng từ rất đắt rất tinh tế ' Hoành sóc ' không chỉ thấy được khí thế mà còn thấy được sự vỹ đại của con người trước thiên nhiên, vũ trụ. "Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu" Dịch nghĩa: ' Ba quân như hổ báo khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu " Hình ảnh quân và dân nhà Trần mạnh mẽ và dũng cảm đã được tác giả khắc họa thông qua hình ảnh 'Ba quân '. Ba quân có nghĩa là quân lính ngày xưa được chia làm ba đội còn được gọi là tiền quân (quân đi trước) hậu quân (quân đội đi giữa) tam quân (quân đội đi sau). Ở đây có nghĩa là chỉ quân đội nói chung. Quân đội được xây dựng được tập luyện được chiến đấu ' quyết xả thân vì non sông" khí thế ngút trời cao vợi nuốt trôi trâu. Ở phần bản dịch chúng ta cón có thể hiểu là hình ảnh dân và quân nhà Trần khí thế mạnh mẽ át cả sao Ngưu. Dù hiểu theo cách nào ta cũng có thể thấy được niềm tự hào mãnh liệt của tác giả Phạm Ngũ Lão về con người về tổ quốc mình, ý chí căm thì giặc đã rèn rũa cho những con người bị áp bức phải mạnh mẽ đứng lên đấu tranh, dũng cảm vì độc lập của giang sơn xã tắc. "Nam nhi vị liễu công danh trái" Dịch nghĩa: Thân nam nhi mà chưa trả xong nợ công danh " Đứng giữa đất trời thênh thang tác giả luôn chăn trở day dứt bản thân chưa trả xong cho món nợ công danh. Đối với thời đại của tác giả Phạm Ngũ Lõa thân làm trai phải làm viêc lớn cho tổ quốc còn trẻ thì cống hiến xông pha trận mạc ghi dấu những mốc son chói lừng. Tiếc là đời người hữu hạn so với quỹ thời gian vô hạn của vũ trụ nên ta thấy được nỗi niềm day dứt, bất lực trước thời đại. Tác giả mong muốn được sống để cống hiến phù vua và giúp nước. Qua câu thơ ta thấy được tình yêu đất nước của tác giả niềm tự hào dân tộc đó là chí lớn nam nhi thật cao cả mà chúng ta thế hệ ngày nay cần phải phấn đấu hơn vì tổ quốc thân yêu, vì sự mong đợi kì vọng của các thế hệ ông cha đi trước. " Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu " Dịch nghĩa:" Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu" Vũ hầu là Gia Cát Lượng người thời Tam Quốc có nhiều công lao giúp đỡ cho Lưu bị khôi phục nhà Hán và được phong tước Vũ Hầu. Tác giả khâm phục và tôn trọng những vị anh hùng đi trước ' luống thẹn ' khi nghe người đòi kể. Ta thấy được phẩm chất đang quý của tác giả cúi đầu khiêm tốn. Đó chính là bài học lớn thấm thía sâu sắc mà tác giả gửi để lại cho hậu thế. Qua bài thơ 'Tỏ lòng ' của tác giả Phạm Ngũ Lão ta thấy được nỗi lòng của nhà thơ. Thể thơ Đường ngắn gọn súc tích đã khác họa được hình ảnh con người với lí tưởng sống nhân cách sống cao đẹp cùng khí thế hào hùng thời đại.